Ngữ Pháp Trong Tiếng Anh Pháp Lý

Một nguyên tắc chung khi viết thư tiếng Anh cho khách hàng là ngôn ngữ phải giản dị trong khi đó các hợp đồng, đạo luật và các văn bản pháp luật “chính thức” khác có khuynh hướng chứa các cấu trúc có thể khó hiểu cho những người không thuộc chuyên môn, chưa kể những sinh viên không phải người bản xứ. Cần lưu ý rằng, đa số ác luật sư ở Anh đều dựa vào các mẫu khi viết hợp đồng.

Tại sao tiếng Anh Pháp lý lại khác tiếng Anh thông thường?

Cách viết luật pháp tiếng Anh có nguồn gốc từ hỗn hợp của tiếng Pháp, Latin, tiếng Anh và tiếng Na Uy cổ (ngôn ngữ Viking). Đó là vì những nước khác nhau xâm chiếm nước Anh hàng trăm năm trước.

Trong 300 năm, tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức của nước Anh và trong khi tiếng Anh là ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi của dân chúng, tiếng Pháp được sử dụng trong tố tụng tòa án và tiếng Latin được sử dụng cho các tài liệu chính thức.

Đây là một câu được viết bằng tiếng Anh pháp lý (ngôn ngữ đặc biệt của luật sư):

“I return here with the stipulation to dismiss the above case; the same being duly executed by me.”

Câu này bao gồm một hỗn hợp các từ tiếng Pháp, Latin và Anh và là câu phổ biến trong luật tiếng Anh. Một số luật sư vẫn viết như thế này trong các văn bản tiếng Anh Pháp lý. Nhưng nó được diễn đạt đơn giản trong tiếng Anh là gì?

“I enclose the document to dismiss the case which has been signed by me.”

Mặc dù đây là một câu dễ hiểu hơn nhưng nó không có vẻ mang tính pháp lý lắm. Đây có lẽ là một lý do khác khiến các luật sư Anh và Mỹ có khuynh hướng sử dụng các thuật ngữ pháp luật hơn – họ cần phải chứng tỏ học thức cao của mình.

Nếu bạn hỏi một luật sư lý do ông ta dùng danh từ thay vì động từ, viết bằng thể bị động hoặc sử dụng cụm từ Latin, họ sẽ nói rằng đó là để tránh sự không chắc chắn, nhưng nhiều người cho rằng điều này là vô nghĩa vì nếu bạn có khả năng tiếng Anh tốt, bạn có thể viết một tài liệu chặt chẽ mà không cần các thuật ngữ cổ.

Ngôn ngữ trong tiếng Anh Pháp lý xuất hiện từ thời nước Anh bị xâm chiếm

Chiến dịch The Plain English và Legal English UK đã cố gắng khuyến khích các luật sư “dọn dẹp” việc sử dụng các quy tắc này. Cá nhân tôi, tôi nghĩ rằng điều này xảy ra vì những cụm từ này đã được sử dụng trong hàng trăm năm và đã ăn sâu vào trong từ điển pháp luật. Sẽ rất khó để thay đổi thói quen đã xuất hiện hàng trăm năm như vậy.

Sổ Tay Người Học Tiếng Anh Pháp Lý

SỔ TAY NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH PHÁP LÝ Chương IIII: Giới từ trong lĩnh vực tiếng Anh Pháp lý

Nếu biết trăm năm là hữu hạn…

Xin vui lòng trích dẫn nguồn khi dùng lại bài từ blog này!

Giới từ

Giới từ + (the/a) law 1. Above 2. Against 3. By 4. Under the law 5. Under a/these 6. Within

1. Above the law: Đứng trên luật

Ví dụ No one is above the law. Don’t think you are above the law. She acts as if she’s above the law. The judgement underlines the point that nobody, not even the executive, is above the law.

2. Against the law: Trái luật, phạm luật

Ví dụ Stealing is against the law. That’s against the law. In Sweden, it is against the law to hit a child. Child recruitment is against the law in Nepal. It is against the law to discriminate against someone because of their race or sex. It is against the law for children to work before they are fifteen. What you did was clearly against the law.

3. By law: Theo luật

Ví dụ Chilren not admitted – by law. British schools are now required by law to publish their exam results. Employers are required by law to provide a safe working environment. The wearing of seatbelt in cars is required by law. By law, a company like British Gas has to hold a meeting of its shareholders once a year.

4. Under the law: Dưới pháp luật

Ví dụ The Constitution specifies that all people are equal under the law.

5. Under a law/these laws: Theo một điều luật/theo những điều luật này

Ví dụ Persons convicted under these laws can receive up to two years’imprisonment.

6. Within the law: Đúng luật

Law + giới từ

1. Law on: Điều luật về

2. Law against: Điều luật phản/chống đối

Ví dụ A local law against keeping horses Laws against sex discrimination and increased support for child care helped open up the workplace to women.

Cụm giới từ

1. According to 2. In accordance with 3. Pursuant to 4. Subject to 5. Without prejudice to 6. With prejudice 7. Without prejudice 8. In the event that/in the event of 9. In case/in case of 10. As of: 11. Due to 12. Owing to

1. According to: Theo (nguồn tin)

Ví dụ According to the bylaws, the board of directors has five members.

2. In accordance with: Tuân thủ, tuân theo, theo đúng (luật, điều luật) Ví dụ The decision to declare a dividend was adopted by the board of directors in accordance with bylaws.

3. Pursuant to: Chiếu theo, căn cứ theo

Ví dụ This bid is submitted pursuant to the laws of New York State. A complaint was made pursuant to section 13 of the Act of 1987.

4. Subject to: Tuân theo, dựa theo, dưới quyền của ai

5. Without prejudice to: Không xâm hại, không gây thương tổn đến ai

6. With prejudice: Không cho quyền kiện Dismiss(al) with prejudice: Bác bỏ nhưng không cho quyền kiện trở lại

Ví dụ All pending lawsuits between the two companies will be dismissed with prejudice.

8. In the event that/in the event of: Nếu điều gì đó xảy ra

Ví dụ In the event that deficiencies in the Equipment become evident, such deficiencies shall be corrected by ABC during the two days per week during which the Purchaser will not be testing. In the event of an accident, call this number.

9. In case/in case of

10. As from/of: Từ, tính từ + thời điểm/ngày tháng

Ví dụ The new land on employment is in force as from/of midnight tonight. We shall have a new address as from/of 12 May.

11. Due to: Do ai, cái gì/vì ai, cái gì

Ví dụ The office is closed tomorrow due to a public holiday.

12. Owing to: Do ai, cái gì/vì ai, cái gì

Động từ + giới từ

1. Abide by: Làm theo/tuân theo cái gì

Ví dụ You’ll have to abide by the rules of the club. We will abide by their decision.

2. Accuse sb of sth: Buộc tội ai * Be accused of sth: Bị buộc tội

Ví dụ The police accused him of cheating/theft. * He was accused of cheating/theft.

3. Acquit sb of sth: Tha bổng cho ai * Be acquitted of sth: Được tha bổng, được trắng án

Ví dụ The jury acquitted him of murder. To her relief, she was acquitted of all the charges laid against her.

4. Appeal to sth against sth: Chống án

Ví dụ She appealed to the high court against her sentence.

5. Arrest sb for (doing) sth: Bắt ai vì (đã) làm gì * Be arrested for (doing sth): Bị bắt vì (đã) làm gì

Ví dụ Police arrested them for their dangerous driving. * They were arrested for their dangerous driving.

6. Behead sb with: Chặt đầu ai đó bằng

Ví dụ The executioner beheaded him with an axe.

7. Bequeath sth to sb: Để cái gì lại cho ai

Ví dụ She bequeathed everything to him.

8. Blackmail sb (into doing sth): Hăm dọa ai

Ví dụ Don’t you think you can blackmail me (into doing what you want). I’ll report you to the police.

9. Book sb for sth: Ghi tên phạt ai vì tội gì * Be booked for sth: Bị ghi tên phạt vì tội gì

Ví dụ The police booked me for speeding. I was booked for speeding.

10. Charge sb with sth: Buộc ai tội gì * Be charged of: Bị buộc tội

Ví dụ The police charged him with theft. He was charged with theft.

11. Cheat sb out of sth: Lừa gạt ai để lấy cái gì

Ví dụ He accused of his employer of deliberately trying to cheat him out of his redundancy money.

12. Clear sb of sth: Chứng minh ai vô tội * Be cleared of sth: Được chứng minh là vô tôi

Ví dụ The lawyer cleared him of the charge. She was cleared of all charges against her. 13. Convict sb of sth: Kết tội ai, kết án ai * Be convicted of: Bị kết tội

14. Detain sb for sth: Giam giữ ai

Ví dụ The police detained two men for questioning.

15. Deter sb from (doing) sth: Ngăn ngừa ai làm gì

Ví dụ We may deter other from doing the same thing.

16. Defraud sb of sth: Lừa gạt ai cái gì

Ví dụ She defrauded her brother of his share of the land. She defrauded her employers of thousands of pounds.

17. Extort sth (money) from sb: Tống tiền ai

Ví dụ He extorted the money from her by threats and blackmail Smith was arrested on suspicion of having extorted property and money from at least 18 clients.

18. Legislate for/against/on sth: Xây dựng luật để chống lại

Ví dụ The government will legislate against discrimination in the workplace.

19. Fine sb for sth: Phạt tiền ai * Be fined for sth: Bị phạt tiền

Ví dụ They fined him heavily for the offence. He was fined for speeding.

20. Pick sb up for sth: Bắt ai để làm gì

Ví dụ The police picked him up last night for questioning.

21. Punish sb for sth: Phạt ai về điều gì * Be punished for sth: Bị phạt về điều gì

Ví dụ His father punished him for stealing. * He was punished for stealing.

22. Rob sb of sth: Cướp ai cái gì * Be robbed of sth: Bị cướp cái gì

Ví dụ The bandits robbed us of all our money. We were robbed of all our money.

23. Sentence sb to: Tuyên án ai, kết án ai * Be sentenced to: Bị kết án

Ví dụ They sentenced him to three years’imprisonment. He was sentenced to three years’imprisonment.

24. Suspect sb of sth: Nghi ngờ ai làm điều gì

Ví dụ What made you suspect her of having taken the money? Who do the police suspect (of the crime)?

25. Swindle sb out of sth/sth out of sb: Lừa ai cái gì

Ví dụ They swindled him out of hundreds of dollars/hundreds of dollars out of him.

Tính từ + giới từ

1. Based on: Dựa vào, có nền tảng từ

Ví dụ In some respects, European law is based more on case law than on statute.

2. Entitled to: Có quyền

Ví dụ He is entitled to compensation.

3. Guilty of : Phạm tội

Ví dụ He was guilty of theft.

4. Innocent of: Vô tội

Ví dụ She was innocent of the charge.

5. Liable for: Chịu trách nhiệm theo pháp luật

Comments

Học Tiếng Anh Pháp Lý Như Thế Nào?

HOẠT ĐỘNG GIẢNG DẠY KỸ NĂNG SOẠN THẢO PHÁP LÝ BẰNG TIẾNG ANH TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TRÊN THẾ GIỚI I. Tiếng Anh Pháp Lý

Có thể nói sự phát triển vượt bậc của xã hội loài người từ một vài thập kỷ qua đã chia nhỏ các ngành học thành nhiều ngành sâu khác nhau, trong đó có Ngôn Ngữ Luật (cấu thành của ngành Ngôn Ngữ Học). Nếu như bộ xương của kinh tế học (economics) là các mô hình toán, thì với luật học là ngôn ngữ (linguistics). Tại Hoa Kỳ, các học giả gọi đó thứ Tiếng Anh Pháp Lý (Legal English) hay Ngôn Ngữ Luật (Language of the Law). Sở dĩ thứ ngôn ngữ này trở nên đặc biệt chính là vì một số đặc điểm chính như tính riêng biệt (peculiar), tính duy nhất (uniqueness), tính mơ hồ (vagueness), tính uyển chuyển (flexibility) và tính phổ quát (universality). Ngay trong nội tại của ngành Ngôn Ngữ Luật, người ta lại chia nhỏ thành Ngôn Ngữ Hợp Đồng (Contractual Language), Ngôn Ngữ Thẩm Phán (Judge-made Language), Ngôn Ngữ Luật Sư (Language for Lawyers). Trong mỗi phần ngành, người ta nghiên cứu sâu sắc về đặc điểm (character), hình thức (form), cấu trúc (structure), bản chất (nature). Trên thực tế, sự uyển chuyển về ngôn ngữ chiếm đến 99% sự thành công của việc soạn thảo một hợp đồng hay bất kỳ một văn bản mang tính pháp lý nào. Hay nói một cách hoa mỹ của các luật sư thì hợp đồng là một trò chơi về ngôn từ. Cách nói như vậy quả là không có gì ngoa nếu chúng ta nhìn một chút lại quá trình lịch sử phát triển của Ngôn Ngữ Luật (ở đây muốn nói đến cụ thể là Tiếng Anh Pháp Lý).

Trở lại với nguồn gốc của Hệ Thống Pháp Luật Chung (hay thường gọi ngắn gọn là Thông Luật). Từ thời trước khi Vương Quốc Anh ngày nay ra đời, Thông Luật được viết bằng ngôn ngữ đời thường của các cộng đồng sống rải rác khắp các vùng thuộc nước Anh ngày nay. Thời kỳ La Mã cai trị nước Anh, ngôn ngữ của luật là tiếng Latin (khoảng năm 43 SCN). Sau khi người La Mã rời khỏi nước Anh và người Anglo-Saxon xâm chiếm và cai trị nước Anh bằng hệ thống pháp luật Anglo-Saxon, ngôn ngữ luật cổ là tiếng Giéc-manh (được coi là Tiếng Anh cổ). Sau khi người Norman xâm lược nước Anh, thì ngôn ngữ luật là tiếng Pháp, phổ biến trong khoảng hơn 3 thế kỷ. Kể từ năm 1066, tiếng Latin là ngôn ngữ chính thống của các văn bản pháp luật và mãi tới năm 1730 mới được thay thế bởi Tiếng Anh (lưu ý là Tiếng Anh của ngày đó khác khá nhiều so với Tiếng Anh hiện đại) theo Đạo Luật Tố Tụng Tại Tòa Án Công Lý (1730). Ngày nay trong Tiếng Anh Pháp Lý, chúng ta còn thấy tồn tại nhiều thuật ngữ Latin như Ipso facto (by that very fact itself), force majeure (unavoidable event), ad hoc (for a particular purpose), de facto (existence by law), bona fide (in good faith), inter alia (among other things), ultra vires (beyond powers) vvv. Chúng ta cũng thấy nhiều từ gốc tiếng pháp nay vẫn được dùng để chỉ nhiều thuật ngữ trong Thông Luật như property (properte), estate (état), chattel (chatel), executor (executor) vvv.

3. Phân loại tiếng Anh Pháp Lý Hiện Đại

Ngày nay, Tiếng Anh Pháp Lý (TAPL) đã trở thành một bộ phận của ngành ngôn ngữ học hiện đại, hay được gọi là một “Tiểu Ngôn Ngữ” bởi TAPL phân biệt nó rất rõ với Tiếng Anh phổ thông về cấu trúc, từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp vv. Nó khó hiểu và phức tạp đến độ người ta đặt riêng cho nó một tên gọi là “Legalese” để “bêu rếu” giới luật sư về cách viết và giao tiếp của họ khiến người “ngoại đạo” không thể hiểu nổi họ muốn nói gì, đặc biệt là trong ngôn ngữ của hợp đồng. Mặc dù nhiều nhà ngôn ngữ cũng như nhiều học giả phê bình thứ ngôn ngữ luật mà các luật sư đang dùng là “rối rắm” và đề xuất cải cách TAPL theo hướng đơn giản hóa, trực tiếp về ngữ nghĩa để cho dễ hiểu, nhưng nhìn vào gần như 100% các hợp đồng giao dịch tại các thị trường phát triển như Anh, Hoa Kỳ, và kể cả các hợp đồng có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, chúng ta vẫn nhận thấy một lối hành văn siêu phức tạp mà nếu không có khả năng ngôn ngữ tốt cộng với kiến thức pháp luật sâu, thì thật sự vất vả mới có thể hiểu được, hoặc tưởng là hiểu đúng, nhưng hóa ra lại đang sai mà không biết là mình sai.

Vậy tại sao TAPL lại cứ phải phức tạp như thế? Câu hỏi này thật khó trả lời, thậm chí đối với cả bản thân những người va chạm nhiều với những thứ văn bản pháp lý kiểu như vậy. Để giúp kiến giải phần nào sự phức tạp này, qua kinh nghiệm tích lũy được sau nhiều năm học tập, nghiên cứu tại cả hai nền Thông Luật (Hoa Kỳ) và Dân Luật (Việt Nam), tôi đã thử phân loại Tiếng Anh Pháp Lý ra thành nhiều cấp độ như sau: (i) Tiếng Anh dùng trong các văn bản pháp luật chính thống (Statutes, Treaties etc.,) (ii) Tiếng Anh mà các Thẩm Phán dùng để hành văn khi soạn thảo các phán quyết (Judge-made) (iii) Tiếng Anh dùng trong các hợp đồng (Contractual Language) và (iv) Tiếng Anh dùng giao tiếp pháp lý (legal opinion memo). Sự phân chia này của tôi không cố tình chia theo mức độ phức tạp và khó (mặc dù trên thực tế có sự phân biệt này), mà chỉ để cho chúng ta thấy được một số đặc điểm của từng loại văn bản mà trong đó TAPL được sử dụng.

3.1. Tiếng Anh trong các văn bản pháp lý chính thống (Đạo luật, Hiệp định vvv)

Tiếng Anh dùng trong các đạo luật (ở đây tôi chỉ nói tới các đạo luật của Hoa Kỳ) có một đặc điểm chung là tính khái quát quá cao đến độ đậm đặc và rắc rối. Có người nói tại sao không soạn thảo luật bằng một thứ Tiếng Anh thông thường để ai đọc cũng hiểu, vì mục đích cuối cùng của luật là phải đi vào cuộc sống để một người nông dân Mỹ với trình độ học vấn trung học (high school) đọc và hiểu luật quy định gì. Đơn giản đến mức như: Vỉa hè là dành cho người đi bộ hay đèn đỏ dừng xe lại hay đến ngã tư giảm tốc độ nhìn hai phía rồi đi tiếp. Ai cũng muốn viết đơn giản như thế, nhưng không hiểu sao, các đạo luật ở Mỹ lại không được soạn theo thứ Tiếng Anh đơn giản (Plain English), mà lại cứ phải sử dụng thứ Tiếng Anh phức tạp mà đến cả sinh viên tốt nghiệp đại học đọc còn không hiểu luật muốn nói gì (chưa kể đến cả sinh viên luật còn ngồi đọc nát cả luật còn hiểu chưa rõ). Lấy một ví dụ một đoạn trong Bộ Luật Thương Mại Thống Nhất Hoa Kỳ: “2-316. Exclusion or Modification of Warranties: (1) Words or conduct relevant to the creation of an express warranty and words or conduct tending to negate or limit warranty shall be construed wherever reasonable as consistent with each other; but subject to the provisions of this Article on parol or extrinsic evidence (Section 2-202) negation or limitation is inoperative to the extent that such construction is unreasonable…”

Tóm lại, khi một người bình thường đọc kiểu ngôn ngữ này sẽ “chau mày” vì khó hiểu. Điều này là đúng sự thật vì đến cả người hành nghề luật, nghiên cứu luật và học trường luật tại Mỹ cùng còn thấy khó hiểu. Đây chỉ là một ví dụ trong muôn ngàn ví dụ có thể kể ra khi đọc luật Mỹ, chưa kể nếu chúng ta có tham vọng dịch Bộ Luật Thương Mại Thống Nhất này ra tiếng Việt để phục vụ mục đích tham khảo cho các nhà làm luật và nghiên cứu pháp luật ở nước ta. Khi không hiểu, thì chắc chắn dịch sẽ sai, và như thế thực sự là tai hại.

Sở dĩ thứ ngôn ngữ này khó hiểu đến vậy vì ẩn trong mỗi đạo luật là những triết lý, những học thuyết pháp luật đã hình thành từ lâu đời mà muốn hiểu rõ thì phải học, phải đọc lại các học thuyết đó, đọc lại các án lệ (precedents) xem quan điểm của các thẩm phán như thế nào và kết luận ra sao. Ngay trong đoạn trên, một sinh viên luật trung bình phải biết tra cứu xem thế nào là warranties, có các dạng warranties nào và ý nghĩa của chúng là gì. Ví dụ, warranties of merchantability hay warranties of fitness, và chúng là “implied” hay “express”. Mỗi dạng lại có một hậu quả pháp lý khác nhau. Hay chúng ta nhìn thay có học thuyết “parol evidence rule” trong đoạn trích trên. Đây là cả một học thuyết về hợp đồng, mà người không học không hiểu được. Đấy là còn chưa kể đến cấu trúc ngữ pháp của câu, đoạn nối tiếp nhau, đoạn này dẫn chiếu tới đoạn kia và ngược lại, bổ sung cho nhau hay loại trừ lẫn nhau. Nói tóm lại, nếu chỉ đọc trên bề mặt thì không sao hiểu được, mà phải đọc từ án lệ điển hình xem cách tiếp cận và diễn giải của các thẩm phán có uy tín mới vỡ ra được.

3.2. Tiếng Anh của Thẩm Phán

Trong cuốn sách nổi tiếng về Legal Writing (Viết Tiếng Anh Pháp Lý), Giáo sư Bryan A. Garner đã phải thốt lên rằng “Mỗi sinh viên luật phải đọc và tiêu hóa cả đống văn bản rải rác khắp nơi. Bạn phải đọc qua các bản án cổ dài tới 50 trang chỉ để nói cái có thể được nói dứt khoát trong 5 trang….”

“And in the outset we may as well be frank enough to confess, and, indeed, in view of the seriousness of the consequences which upon fuller reflection we find would inevitably result to municipalities in the matter of street improvements from the conclusion reached and announced in the former opinion, we are pleased to declare that the arguments upon rehearing have convinced us that the decision upon the ultimate question involved here formerly rendered by this court, even if not faulty in its reasoning from the premises announced or wholly erroneous in conclusions as to some of the questions incidentally arising and necessarily legitimate subjects of discussion in the decision of the main proposition, is, at any rate, one which may, under the peculiar circumstances of this case, the more justly and at the same time, upon reasons of equal cogency, be superseded by a conclusion whose effect cannot be to disturb the integrity of the long and well-established system for the improvement of streets in the incorporated cities and towns of California not governed by freeholders’ charters.”

Tòa muốn nói gì ở đây sau một đoạn văn dài dòng và cách điệu? theo Garner, tòa muốn nói “we made a mistake last time”, có thế thôi.

3.3. Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng

Nguyên tắc tự do hợp đồng (freedom to contract) được thừa nhận rộng rãi ở các nền tài phán theo hệ thống luật chung và đây chính là khoảng trống lớn nhất để các bên thương lượng và đưa vào hợp đồng bất kỳ điều khoản nào (miễn là không trái với pháp luật và đạo đức xã hội). Chính vì thế, đây là “đất diễn” của giới luật sư và đây cũng chính là chỗ để thể hiện “trò trơi pháp luật” bằng ngôn ngữ. Thật không ngoa khi nói luật sư tạo ra thứ pháp luật thứ ba, là Lawyer-Made Law (bên cạnh Hiến Pháp, Luật và Luật do Thẩm Phán tạo ra (Judge-made law dưới dạng các án lệ). Chính vì các bên đều mong muốn đưa ý đồ của mình vào hợp đồng, nên cần có sự thỏa hiệp, và do đó nhiều khi chúng ta thấy một điều khoản dài dòng, đọc không biết đâu là đầu, đâu là cuối, đâu là chủ ngữ và đâu là vị ngữ, và mệnh đề phụ này bổ nghĩa cho mệnh đề chính nào. Cấu trúc giao dịch càng phức tạp thì hợp đồng thể hiện cấu trúc đó càng phức tạp.

Để hiểu được hợp đồng, người học phải có một nền tảng về các nguyên tắc cơ bản. Không có gì xa lạ khi trong các hợp đồng chúng ta thường thấy xuất hiện các từ ngữ như terms and conditions, covenants, conditions precedent, representations and warranties, waivers, successor, survival, deed of accession etc. Thực sự đây là những thứ ngôn ngữ của nền tài phán Thông Luật đang xâm chiếm và được chấp nhận tại nhiều nền tài phán khác nhau, trong đó có Việt Nam. Tất cả những loại điều khoản này đã có khuôn mẫu được nhiều thế hệ luật sư Anh-Mỹ soạn thảo, và các luật sư sau này chỉ cần thêm bớt, chỉnh sửa theo ý đồ đàm phán thực tế của từng giao dịch. Đây là lúc mà luật sư cần thể hiện một thứ ngôn ngữ sao cho chuyên nghiệp để không quá chênh lệch với thứ ngôn ngữ “boilerplate” trong từng điều khoản. Ngoài ra, chúng ta còn thấy nhiều dạng điều khoản như disclaimers of liability, implied and express warranties of merchantability and fitness; rồi nhiều học thuyết ẩn sau hợp đồng như paro evidence rule, promissory estoppels, statute of frauds, statute of limitations; cũng như các biện pháp khắc phục như compensatory and punitive damages, restitution (unjust enrichment) vân vân.

Tại Việt Nam, trong khoảng 10 năm trở lại đây, các luật sư (đặc biệt là những luật sư làm việc trong môi trường hành nghề có yếu tố nước ngoài) đã dần quen với những dạng, kiểu ngôn ngữ như vậy. Những hợp đồng có yếu tố nước ngoài như Share Purchase or Subscription Agreement, Bond, Securities Lending, Guarantee, Purchasing Order, Loan Agreement, là những chỗ chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều những phong cách ngôn ngữ du nhập từ hệ thống luật chung. Điều đáng nói là (có thể) những kiểu hợp đồng và ngôn ngữ này lại không được giảng dậy một cách chính quy tại bất kỳ một trường đại học luật nào ở Việt Nam. Xin thứ lỗi nếu ý kiến của tôi là chưa đúng.

Rất nhiều các bối cảnh pháp lý khác nhau sẽ có những yêu cầu riêng về hình thức văn bản pháp lý đặc thù cần phải sử dụng cho việc giao tiếp bằng văn bản. Trong nhiều trường hợp, văn bản là phương tiện để một luật sư có thể biểu đạt những phân tích của họ về một vấn đề và tìm cách thuyết phục người khác thay mặt cho khách hàng của họ. Bất kỳ một văn bản pháp lý nào được soạn ra đều phải đáp ứng yêu cầu chung là phải súc tích, rõ ràng và phù hợp với các tiêu chuẩn khách quan đã được hình thành đối với nghề luật.

Thông thường sẽ có hai loại soạn thảo pháp lý là phân tích pháp lý (legal analysis) và phác thảo pháp lý (legal drafting). Loại 1 gồm 2 kiểu. Kiểu thứ nhất là việc soạn thảo nhằm phân tích hài hòa về một vấn đề hay sự việc pháp lý. Ví dụ của kiểu 1 này là biên bản ghi nhớ giữa các văn phòng luật sư và thư tư vấn, trao đổi gửi cho khách hàng. Để có thể đạt hiệu quả cao trong kiểu soạn thảo này, người luật sư cần phải nhạy cảm đối với nhu cầu, mức độ quan tâm và lai lịch của các bên mà họ đại diện. Một biên bản ghi nhớ cho một đối tác trong cùng một công ty luật mà ghi chi tiết định nghĩa các khái niệm pháp lý cơ bản sẽ trở nên vô nghĩa và không hiệu quả. Ngược lại, đối với các biên bản ghi nhớ với khách hàng không có kiến thức về luật pháp mà không ghi rõ các định nghĩa trên thì có thể sẽ gây nhầm lẫn và phức tạp hóa một tình huống đơn giản.

Bên cạnh loại 1, còn có loại 2 là hình thức soạn thảo các văn bản pháp lý như hợp đồng hay di chúc. Đối với những thể loại văn bản này, thường sẽ có những mẫu văn bản cụ thể có sẵn để áp dụng, tuy nhiên việc soạn ra các văn bản đặc biệt áp dụng mẫu cho thực tế của sự việc cũng thường được yêu cầu. Soạn thảo pháp lý không tốt có thể sẽ dẫn đến những vụ tranh chấp không cần thiết và ảnh hưởng đến lợi ích của khách hàng[1].

Khác với các khóa đào tạo tiếng Anh pháp lý, khóa đào tạo kỹ năng soạn thảo pháp lý là khóa học không chỉ dành cho sinh viên quốc tế mà còn là khóa học cần thiết dành cho chính các sinh viên luật người bản địa đang theo học tại trường.

III. Hoạt động giảng dạy kỹ năng soạn thảo pháp lý tại Mỹ

Theo mô hình đào luật J.D (Jurist Doctor), các kỹ năng nghề nghiệp được chú trọng đào tạo trong chương trình đào tạo 3 năm. Kỹ năng soạn thảo pháp lý là kỹ năng thách thức nhất đối với sinh viên luật và thường là môn học bắt buộc đối với sinh viên.

1. Trường luật – Đại học Harvard

2. Đại học Luật Washington[5]

Kỹ năng soạn thảo pháp lý được đưa vào giảng dạy trong Chương trình Phân tích, Tra cứu, và Viết pháp lý (LARW) cho sinh viên năm nhất và được thiết kế để dạy cho sinh viên nguyên lý nền tảng về hệ thống pháp luật Mỹ và giới thiệu các kỹ năng cần thiết để phục vụ tư vấn hiệu quả và bào chữa trong hệ thống đó. Mỗi phần LARW giúp học sinh đạt được các mục tiêu và mục đích đó. Trong kỳ học thu đông, học sinh được chia thành các nhóm nhỏ khoảng 25 học sinh. Mỗi giảng viên sẽ phát triển một loạt các vấn đề và hội thảo thực hành được thiết kế để dạy các kỹ năng phân tích, nghiên cứu, và viết pháp lý cho sinh viên. Ngoài việc phải thường xuyên liên hệ chặt chẽ với các giảng viên, sinh viên còn phải nhờ cậy các sinh viên năm thứ hai và thứ ba để học hỏi kinh nghiệm và thay đổi mình từ nghiệp dư thành chuyên gia trong ngành văn bản quy phạm pháp luật. Tất cả học sinh tham gia vào một loạt các dự án nghiên cứu và viết trong hai quý đầu năm, bao gồm cả việc soạn thảo các hình thức khác nhau của biên bản ghi nhớ nghiên cứu. Học sinh cũng có thể có cơ hội để dự thảo biên bản ghi nhớ tư pháp băng ghế dự bị hoặc ý kiến, thư từ khách hàng, điều khoản hợp đồng, hoặc biện hộ pháp lý.

Ngoài ra, tất cả các sinh viên phải tiếp tục theo học các khóa học về tra cứu và soạn thảo pháp lý trong những năm tiếp theo đại học để có thể hoàn thành các yêu cầu về viết pháp lý nâng cao để có thể được xét công nhận lấy bằng J.D. Các khóa học nâng cao về viết pháp lý cho sinh viên năm hai và năm ba sẽ tập trung vào bào chữa bằng văn bản, viết bài phân tích và nghiên cứu. Thêm vào đó, trường còn tổ chức một Trung tâm về soạn thảo pháp lý trong trường với sự tham gia của chính các sinh viên năm hai và ba trong trường dưới sự dẫn dắt của Khoa Viết & Nghiên cứu Phân tích Pháp lý. Có thể nói, Trườn luật – Đại học Washington cung cấp cho sinh viên của mình rất nhiều sự lựa chọn và mở ra các cơ hội cho sinh viên được học, trau dồi và thực hành kỹ năng soạn thảo pháp lý khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường.

3. Đại học luật Seattle (Mỹ)[6]

Chương trình soạn thảo pháp lý tại Đại học luật Seattle được đánh giá là chương trình soạn thảo pháp lý tốt nhất tại Mỹ theo xếp hạng của trang U.S. News. Chương trình này là một bộ môn bắt buộc cho sinh viên từ năm nhất đại học bao gồm các môn sau:

– Soạn thảo pháp lý 1: Tra cứu, Phân tích, Soạn thảo (4 tín chỉ) (Legal Writing I: Research Analysis, Writing)

– Soạn thảo pháp lý 2: Bào chữa bằng lời và bằng văn bản (3 tín chỉ) (Legal Writing II: Written & Oral Advocacy)

– Chuyên đề Nghiên cứu Viết Nâng cao (2 tín chỉ) (Advanced Writing Seminar)

– Thực hành Soạn thảo (1 tín chỉ)

– Nghiên cứu Pháp lý Nâng cao (2 tín chỉ)

Khoa Soạn thảo pháp lý tại Đại học Seattle sử dụng cả phương pháp trong và ngoài lớp học nhằm nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên. Mỗi lớp học sẽ được trang bị hệ thống thiết bị tân tiến nhất cho phép giáo viên sử dụng máy tính và tất cả các loại văn bản giấy tờ bản cứng để trình chiếu cho sinh viên. Ngoài ra, các phòng học còn được lắp đặt hệ thống mạng internet không dây tốc độ cao. Sinh viên có thể gửi bài làm nháp của mình ngay và lập cho giáo viên thông qua bằng email để từ đó giáo viên có thể sử dụng chính bài của sinh viên và trình chiếu trên hệ thống máy chiếu, và hệ thống này cũng giúp sinh viên và giáo viên trao đổi được thuận tiện và nhanh chóng đối với các tiết học dạy từ xa.

IV – Hoạt động giảng dạy kỹ năng soạn thảo pháp lý tại Anh

Tương tự như Mỹ và hầu hết các quốc gia thuộc Khối Thịnh Vượng Chung, Anh cũng sử dụng hệ thống Thông luật. Tại Anh, kỹ năng soạn thảo pháp lý đa phần không được các trường đưa vào chương trình khung như là một môn học bắt buộc đối với các sinh viên đại học, mà các sinh viên chỉ được học kỹ năng viết pháp lý trong quá trình học các khóa học ngắn hạn khác như Tiếng Anh pháp lý hay môn Luật EU và Viết báo cáo (European Union Law and Report Writing) ở năm đầu đại học. Tuy nhiên, việc giảng dạy kỹ năng soạn thảo pháp lý lại được quan tâm và chú trọng nhiều hơn cho các đối tượng học Thạc sĩ Luật (LLM) hay chương trình Thực hành nghề luật LPC (Legal Practice Course).

1. Khoa luật – Đại học Cambridge[7]

Khoa luật Đại học Cambridge là một trong những trường luật hàng đầu trên thế giới, đứng thứ 2 trên thế giới theo xếp hạng của trang Top Universities. Đại học Cambridge còn là nơi cung cấp chương trình đào tạo và thi lấy chứng chỉ tiếng Anh pháp lý ILEC (International Legal English Certificate) cho luật sư và những người học nghề luật trên toàn thế giới. Tuy nhiên, các khóa học về soạn thảo pháp lý lại không phải là một trong những trọng tâm được giảng dạy riêng thành một khấu phần trong chương trình giảng dạy của nhà trường. Trong chương trình giảng dạy cho sinh viên đại học, kỹ năng soạn thảo pháp lý chỉ được giảng dạy kết hợp trong khấu phần về Phương pháp và Các Kỹ năng pháp lý (Freshfields Legal Skills and Methodology) của sinh viên năm thứ nhất. Ngoài ra, kỹ năng soạn thảo pháp lý cũng chưa được cụ thể thành một khóa học riêng trong các chương trình học khác tại trường.

2. Trường luật – Đại học Westminster[8]

Trường luật – Đại học Westminster là một ngôi trường có danh tiếng trong việc đào tạo, bồi dưỡng nghề cho các luật sư tư vấn và chương trình đào tạo Thạc sĩ Luật với việc cung cấp cho người học các kỹ năng và kiến thức cần thiết để trở thành một luật sư thành công trong xã hội với sự quốc tế hóa ngày càng sâu rộng như hiện nay. Như phần lớn các trường luật khác tại Anh Quốc, Đại học Westminster cung cấp chương trình đào tạo kỹ năng soạn thảo pháp lý trong chuỗi các kỹ năng mà sinh viên phải học trong chương trình Thực hành nghề luật LPC và Thạc sĩ luật LLM. Kỹ năng viết và soạn thảo pháp lý sẽ được giảng dạy cùng với nhóm các kỹ năng khác như Nghiên cứu pháp lý thực hành, Phỏng vấn và Tư vấn, và kỹ năng bào chữa.

Tác giả: Nguyễn Bá Trường Giang Tác giả từng học kinh tế tại Cornell và luật tại Đại học Boston (Mỹ), anh là cựu luật sư cao cấp của Baker & McKenzie.

[1] https://www.law.cornell.edu/wex/legal_writing

[2] http://hls.harvard.edu/dept/lrw/

[3] http://hls.harvard.edu/academics/curriculum/catalog/default.aspx?o=68707

[4] http://hls.harvard.edu/academics/curriculum/catalog/default.aspx?o=67658

[5] https://www.law.washington.edu/Writing/

[6] http://www.law.seattleu.edu/academics/foundational/legal-writing-program/program-overview

[7] http://www.undergraduate.study.cam.ac.uk/courses/law

[8] http://www.westminster.ac.uk/courses/subjects/law/postgraduate-courses/full-time/d09fplpc-legal-practice-llm

Học Tiếng Anh Pháp Lý Ở Môi Trường Đại Học

Ngày nay, Tiếng Anh Pháp Lý (TAPL) đã trở thành một bộ phận của ngành ngôn ngữ học hiện đại, hay được gọi là một “Tiểu Ngôn Ngữ” bởi TAPL phân biệt nó rất rõ với Tiếng Anh phổ thông về cấu trúc, từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp,…

I. Tiếng Anh Pháp Lý

1. Khái niệm

Có thể nói sự phát triển vượt bậc của xã hội loài người từ một vài thập kỷ qua đã chia nhỏ các ngành học thành nhiều ngành sâu khác nhau, trong đó có Ngôn Ngữ Luật (cấu thành của ngành Ngôn Ngữ Học). Nếu như bộ xương của kinh tế học (economics) là các mô hình toán, thì với luật học là ngôn ngữ (linguistics). Tại Hoa Kỳ, các học giả gọi đó thứ Tiếng Anh Pháp Lý (Legal English) hay Ngôn Ngữ Luật (Language of the Law). Sở dĩ thứ ngôn ngữ này trở nên đặc biệt chính là vì một số đặc điểm chính như tính riêng biệt (peculiar), tính duy nhất (uniqueness), tính mơ hồ (vagueness), tính uyển chuyển (flexibility) và tính phổ quát (universality). Ngay trong nội tại của ngành Ngôn Ngữ Luật, người ta lại chia nhỏ thành Ngôn Ngữ Hợp Đồng (Contractual Language), Ngôn Ngữ Thẩm Phán (Judge-made Language), Ngôn Ngữ Luật Sư (Language for Lawyers). Trong mỗi phần ngành, người ta nghiên cứu sâu sắc về đặc điểm (character), hình thức (form), cấu trúc (structure), bản chất (nature). Trên thực tế, sự uyển chuyển về ngôn ngữ chiếm đến 99% sự thành công của việc soạn thảo một hợp đồng hay bất kỳ một văn bản mang tính pháp lý nào. Hay nói một cách hoa mỹ của các luật sư thì hợp đồng là một trò chơi về ngôn từ. Cách nói như vậy quả là không có gì ngoa nếu chúng ta nhìn một chút lại quá trình lịch sử phát triển của Ngôn Ngữ Luật (ở đây muốn nói đến cụ thể là Tiếng Anh Pháp Lý).

2. Lịch sử hình thành

Trở lại với nguồn gốc của Hệ Thống Pháp Luật Chung (hay thường gọi ngắn gọn là Thông Luật). Từ thời trước khi Vương Quốc Anh ngày nay ra đời, Thông Luật được viết bằng ngôn ngữ đời thường của các cộng đồng sống rải rác khắp các vùng thuộc nước Anh ngày nay. Thời kỳ La Mã cai trị nước Anh, ngôn ngữ của luật là tiếng Latin (khoảng năm 43 SCN). Sau khi người La Mã rời khỏi nước Anh và người Anglo-Saxon xâm chiếm và cai trị nước Anh bằng hệ thống pháp luật Anglo-Saxon, ngôn ngữ luật cổ là tiếng Giéc-manh (được coi là Tiếng Anh cổ). Sau khi người Norman xâm lược nước Anh, thì ngôn ngữ luật là tiếng Pháp, phổ biến trong khoảng hơn 3 thế kỷ. Kể từ năm 1066, tiếng Latin là ngôn ngữ chính thống của các văn bản pháp luật và mãi tới năm 1730 mới được thay thế bởi Tiếng Anh (lưu ý là Tiếng Anh của ngày đó khác khá nhiều so với Tiếng Anh hiện đại) theo Đạo Luật Tố Tụng Tại Tòa Án Công Lý (1730). Ngày nay trong Tiếng Anh Pháp Lý, chúng ta còn thấy tồn tại nhiều thuật ngữ Latin như Ipso facto (by that very fact itself), force majeure (unavoidable event), ad hoc (for a particular purpose), de facto (existence by law), bona fide (in good faith), inter alia (among other things), ultra vires (beyond powers) vvv. Chúng ta cũng thấy nhiều từ gốc tiếng pháp nay vẫn được dùng để chỉ nhiều thuật ngữ trong Thông Luật như property (properte), estate (état), chattel (chatel), executor (executor) vvv.

3. Phân loại tiếng Anh Pháp Lý Hiện Đại

Ngày nay, Tiếng Anh Pháp Lý (TAPL) đã trở thành một bộ phận của ngành ngôn ngữ học hiện đại, hay được gọi là một “Tiểu Ngôn Ngữ” bởi TAPL phân biệt nó rất rõ với Tiếng Anh phổ thông về cấu trúc, từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp vv. Nó khó hiểu và phức tạp đến độ người ta đặt riêng cho nó một tên gọi là “Legalese” để “bêu rếu” giới luật sư về cách viết và giao tiếp của họ khiến người “ngoại đạo” không thể hiểu nổi họ muốn nói gì, đặc biệt là trong ngôn ngữ của hợp đồng. Mặc dù nhiều nhà ngôn ngữ cũng như nhiều học giả phê bình thứ ngôn ngữ luật mà các luật sư đang dùng là “rối rắm” và đề xuất cải cách TAPL theo hướng đơn giản hóa, trực tiếp về ngữ nghĩa để cho dễ hiểu, nhưng nhìn vào gần như 100% các hợp đồng giao dịch tại các thị trường phát triển như Anh, Hoa Kỳ, và kể cả các hợp đồng có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, chúng ta vẫn nhận thấy một lối hành văn siêu phức tạp mà nếu không có khả năng ngôn ngữ tốt cộng với kiến thức pháp luật sâu, thì thật sự vất vả mới có thể hiểu được, hoặc tưởng là hiểu đúng, nhưng hóa ra lại đang sai mà không biết là mình sai.

Vậy tại sao TAPL lại cứ phải phức tạp như thế? Câu hỏi này thật khó trả lời, thậm chí đối với cả bản thân những người va chạm nhiều với những thứ văn bản pháp lý kiểu như vậy. Để giúp kiến giải phần nào sự phức tạp này, qua kinh nghiệm tích lũy được sau nhiều năm học tập, nghiên cứu tại cả hai nền Thông Luật (Hoa Kỳ) và Dân Luật (Việt Nam), tôi đã thử phân loại Tiếng Anh Pháp Lý ra thành nhiều cấp độ như sau: (i) Tiếng Anh dùng trong các văn bản pháp luật chính thống (Statutes, Treaties etc.,) (ii) Tiếng Anh mà các Thẩm Phán dùng để hành văn khi soạn thảo các phán quyết (Judge-made) (iii) Tiếng Anh dùng trong các hợp đồng (Contractual Language) và (iv) Tiếng Anh dùng giao tiếp pháp lý (legal opinion memo). Sự phân chia này của tôi không cố tình chia theo mức độ phức tạp và khó (mặc dù trên thực tế có sự phân biệt này), mà chỉ để cho chúng ta thấy được một số đặc điểm của từng loại văn bản mà trong đó TAPL được sử dụng.

3.1. Tiếng Anh trong các văn bản pháp lý chính thống (Đạo luật, Hiệp định vvv)

Tiếng Anh dùng trong các đạo luật (ở đây tôi chỉ nói tới các đạo luật của Hoa Kỳ) có một đặc điểm chung là tính khái quát quá cao đến độ đậm đặc và rắc rối. Có người nói tại sao không soạn thảo luật bằng một thứ Tiếng Anh thông thường để ai đọc cũng hiểu, vì mục đích cuối cùng của luật là phải đi vào cuộc sống để một người nông dân Mỹ với trình độ học vấn trung học (high school) đọc và hiểu luật quy định gì. Đơn giản đến mức như: Vỉa hè là dành cho người đi bộ hay đèn đỏ dừng xe lại hay đến ngã tư giảm tốc độ nhìn hai phía rồi đi tiếp. Ai cũng muốn viết đơn giản như thế, nhưng không hiểu sao, các đạo luật ở Mỹ lại không được soạn theo thứ Tiếng Anh đơn giản (Plain English), mà lại cứ phải sử dụng thứ Tiếng Anh phức tạp mà đến cả sinh viên tốt nghiệp đại học đọc còn không hiểu luật muốn nói gì (chưa kể đến cả sinh viên luật còn ngồi đọc nát cả luật còn hiểu chưa rõ). Lấy một ví dụ một đoạn trong Bộ Luật Thương Mại Thống Nhất Hoa Kỳ:

“2-316. Exclusion or Modification of Warranties: (1) Words or conduct relevant to the creation of an express warranty and words or conduct tending to negate or limit warranty shall be construed wherever reasonable as consistent with each other; but subject to the provisions of this Article on parol or extrinsic evidence (Section 2-202) negation or limitation is inoperative to the extent that such construction is unreasonable…”

Tóm lại, khi một người bình thường đọc kiểu ngôn ngữ này sẽ “chau mày” vì khó hiểu. Điều này là đúng sự thật vì đến cả người hành nghề luật, nghiên cứu luật và học trường luật tại Mỹ cùng còn thấy khó hiểu. Đây chỉ là một ví dụ trong muôn ngàn ví dụ có thể kể ra khi đọc luật Mỹ, chưa kể nếu chúng ta có tham vọng dịch Bộ Luật Thương Mại Thống Nhất này ra tiếng Việt để phục vụ mục đích tham khảo cho các nhà làm luật và nghiên cứu pháp luật ở nước ta. Khi không hiểu, thì chắc chắn dịch sẽ sai, và như thế thực sự là tai hại.

Sở dĩ thứ ngôn ngữ này khó hiểu đến vậy vì ẩn trong mỗi đạo luật là những triết lý, những học thuyết pháp luật đã hình thành từ lâu đời mà muốn hiểu rõ thì phải học, phải đọc lại các học thuyết đó, đọc lại các án lệ (precedents) xem quan điểm của các thẩm phán như thế nào và kết luận ra sao. Ngay trong đoạn trên, một sinh viên luật trung bình phải biết tra cứu xem thế nào là warranties, có các dạng warranties nào và ý nghĩa của chúng là gì. Ví dụ, warranties of merchantability hay warranties of fitness, và chúng là “implied” hay “express”. Mỗi dạng lại có một hậu quả pháp lý khác nhau. Hay chúng ta nhìn thay có học thuyết “parol evidence rule” trong đoạn trích trên. Đây là cả một học thuyết về hợp đồng, mà người không học không hiểu được. Đấy là còn chưa kể đến cấu trúc ngữ pháp của câu, đoạn nối tiếp nhau, đoạn này dẫn chiếu tới đoạn kia và ngược lại, bổ sung cho nhau hay loại trừ lẫn nhau. Nói tóm lại, nếu chỉ đọc trên bề mặt thì không sao hiểu được, mà phải đọc từ án lệ điển hình xem cách tiếp cận và diễn giải của các thẩm phán có uy tín mới vỡ ra được.

3.2. Tiếng Anh của Thẩm Phán

Trong cuốn sách nổi tiếng về Legal Writing (Viết Tiếng Anh Pháp Lý), Giáo sư Bryan A. Garner đã phải thốt lên rằng “Mỗi sinh viên luật phải đọc và tiêu hóa cả đống văn bản rải rác khắp nơi. Bạn phải đọc qua các bản án cổ dài tới 50 trang chỉ để nói cái có thể được nói dứt khoát trong 5 trang….”

“And in the outset we may as well be frank enough to confess, and, indeed, in view of the seriousness of the consequences which upon fuller reflection we find would inevitably result to municipalities in the matter of street improvements from the conclusion reached and announced in the former opinion, we are pleased to declare that the arguments upon rehearing have convinced us that the decision upon the ultimate question involved here formerly rendered by this court, even if not faulty in its reasoning from the premises announced or wholly erroneous in conclusions as to some of the questions incidentally arising and necessarily legitimate subjects of discussion in the decision of the main proposition, is, at any rate, one which may, under the peculiar circumstances of this case, the more justly and at the same time, upon reasons of equal cogency, be superseded by a conclusion whose effect cannot be to disturb the integrity of the long and well-established system for the improvement of streets in the incorporated cities and towns of California not governed by freeholders’ charters.”

Tòa muốn nói gì ở đây sau một đoạn văn dài dòng và cách điệu? theo Garner, tòa muốn nói “we made a mistake last time”, có thế thôi.

3.3. Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng

Nguyên tắc tự do hợp đồng (freedom to contract) được thừa nhận rộng rãi ở các nền tài phán theo hệ thống luật chung và đây chính là khoảng trống lớn nhất để các bên thương lượng và đưa vào hợp đồng bất kỳ điều khoản nào (miễn là không trái với pháp luật và đạo đức xã hội). Chính vì thế, đây là “đất diễn” của giới luật sư và đây cũng chính là chỗ để thể hiện “trò trơi pháp luật” bằng ngôn ngữ. Thật không ngoa khi nói luật sư tạo ra thứ pháp luật thứ ba, là Lawyer-Made Law (bên cạnh Hiến Pháp, Luật và Luật do Thẩm Phán tạo ra (Judge-made law dưới dạng các án lệ). Chính vì các bên đều mong muốn đưa ý đồ của mình vào hợp đồng, nên cần có sự thỏa hiệp, và do đó nhiều khi chúng ta thấy một điều khoản dài dòng, đọc không biết đâu là đầu, đâu là cuối, đâu là chủ ngữ và đâu là vị ngữ, và mệnh đề phụ này bổ nghĩa cho mệnh đề chính nào. Cấu trúc giao dịch càng phức tạp thì hợp đồng thể hiện cấu trúc đó càng phức tạp.

Để hiểu được hợp đồng, người học phải có một nền tảng về các nguyên tắc cơ bản. Không có gì xa lạ khi trong các hợp đồng chúng ta thường thấy xuất hiện các từ ngữ như terms and conditions, covenants, conditions precedent, representations and warranties, waivers, successor, survival, deed of accession etc. Thực sự đây là những thứ ngôn ngữ của nền tài phán Thông Luật đang xâm chiếm và được chấp nhận tại nhiều nền tài phán khác nhau, trong đó có Việt Nam. Tất cả những loại điều khoản này đã có khuôn mẫu được nhiều thế hệ luật sư Anh-Mỹ soạn thảo, và các luật sư sau này chỉ cần thêm bớt, chỉnh sửa theo ý đồ đàm phán thực tế của từng giao dịch. Đây là lúc mà luật sư cần thể hiện một thứ ngôn ngữ sao cho chuyên nghiệp để không quá chênh lệch với thứ ngôn ngữ “boilerplate” trong từng điều khoản. Ngoài ra, chúng ta còn thấy nhiều dạng điều khoản như disclaimers of liability, implied and express warranties of merchantability and fitness; rồi nhiều học thuyết ẩn sau hợp đồng như paro evidence rule, promissory estoppels, statute of frauds, statute of limitations; cũng như các biện pháp khắc phục như compensatory and punitive damages, restitution (unjust enrichment) vân vân.

Tại Việt Nam, trong khoảng 10 năm trở lại đây, các luật sư (đặc biệt là những luật sư làm việc trong môi trường hành nghề có yếu tố nước ngoài) đã dần quen với những dạng, kiểu ngôn ngữ như vậy. Những hợp đồng có yếu tố nước ngoài như Share Purchase or Subscription Agreement, Bond, Securities Lending, Guarantee, Purchasing Order, Loan Agreement, là những chỗ chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều những phong cách ngôn ngữ du nhập từ hệ thống luật chung. Điều đáng nói là (có thể) những kiểu hợp đồng và ngôn ngữ này lại không được giảng dậy một cách chính quy tại bất kỳ một trường đại học luật nào ở Việt Nam. Xin thứ lỗi nếu ý kiến của tôi là chưa đúng.

3.4. Ngôn ngữ tư vấn luật

II. Soạn thảo pháp lý

Rất nhiều các bối cảnh pháp lý khác nhau sẽ có những yêu cầu riêng về hình thức văn bản pháp lý đặc thù cần phải sử dụng cho việc giao tiếp bằng văn bản. Trong nhiều trường hợp, văn bản là phương tiện để một luật sư có thể biểu đạt những phân tích của họ về một vấn đề và tìm cách thuyết phục người khác thay mặt cho khách hàng của họ. Bất kỳ một văn bản pháp lý nào được soạn ra đều phải đáp ứng yêu cầu chung là phải súc tích, rõ ràng và phù hợp với các tiêu chuẩn khách quan đã được hình thành đối với nghề luật.

Thông thường sẽ có hai loại soạn thảo pháp lý là phân tích pháp lý (legal analysis) và phác thảo pháp lý (legal drafting). Loại 1 gồm 2 kiểu. Kiểu thứ nhất là việc soạn thảo nhằm phân tích hài hòa về một vấn đề hay sự việc pháp lý. Ví dụ của kiểu 1 này là biên bản ghi nhớ giữa các văn phòng luật sư và thư tư vấn, trao đổi gửi cho khách hàng. Để có thể đạt hiệu quả cao trong kiểu soạn thảo này, người luật sư cần phải nhạy cảm đối với nhu cầu, mức độ quan tâm và lai lịch của các bên mà họ đại diện. Một biên bản ghi nhớ cho một đối tác trong cùng một công ty luật mà ghi chi tiết định nghĩa các khái niệm pháp lý cơ bản sẽ trở nên vô nghĩa và không hiệu quả. Ngược lại, đối với các biên bản ghi nhớ với khách hàng không có kiến thức về luật pháp mà không ghi rõ các định nghĩa trên thì có thể sẽ gây nhầm lẫn và phức tạp hóa một tình huống đơn giản.

Bên cạnh loại 1, còn có loại 2 là hình thức soạn thảo các văn bản pháp lý như hợp đồng hay di chúc. Đối với những thể loại văn bản này, thường sẽ có những mẫu văn bản cụ thể có sẵn để áp dụng, tuy nhiên việc soạn ra các văn bản đặc biệt áp dụng mẫu cho thực tế của sự việc cũng thường được yêu cầu. Soạn thảo pháp lý không tốt có thể sẽ dẫn đến những vụ tranh chấp không cần thiết và ảnh hưởng đến lợi ích của khách hàng[1].

Khác với các khóa đào tạo tiếng Anh pháp lý, khóa đào tạo kỹ năng soạn thảo pháp lý là khóa học không chỉ dành cho sinh viên quốc tế mà còn là khóa học cần thiết dành cho chính các sinh viên luật người bản địa đang theo học tại trường.

III. Hoạt động giảng dạy kỹ năng soạn thảo pháp lý tại Mỹ

Theo mô hình đào luật J.D (Jurist Doctor), các kỹ năng nghề nghiệp được chú trọng đào tạo trong chương trình đào tạo 3 năm. Kỹ năng soạn thảo pháp lý là kỹ năng thách thức nhất đối với sinh viên luật và thường là môn học bắt buộc đối với sinh viên.

1. Trường luật – Đại học Harvard

2. Đại học Luật Washington[5]

Kỹ năng soạn thảo pháp lý được đưa vào giảng dạy trong Chương trình Phân tích, Tra cứu, và Viết pháp lý (LARW) cho sinh viên năm nhất và được thiết kế để dạy cho sinh viên nguyên lý nền tảng về hệ thống pháp luật Mỹ và giới thiệu các kỹ năng cần thiết để phục vụ tư vấn hiệu quả và bào chữa trong hệ thống đó. Mỗi phần LARW giúp học sinh đạt được các mục tiêu và mục đích đó.

Trong kỳ học thu đông, học sinh được chia thành các nhóm nhỏ khoảng 25 học sinh. Mỗi giảng viên sẽ phát triển một loạt các vấn đề và hội thảo thực hành được thiết kế để dạy các kỹ năng phân tích, nghiên cứu, và viết pháp lý cho sinh viên. Ngoài việc phải thường xuyên liên hệ chặt chẽ với các giảng viên, sinh viên còn phải nhờ cậy các sinh viên năm thứ hai và thứ ba để học hỏi kinh nghiệm và thay đổi mình từ nghiệp dư thành chuyên gia trong ngành văn bản quy phạm pháp luật. Tất cả học sinh tham gia vào một loạt các dự án nghiên cứu và viết trong hai quý đầu năm, bao gồm cả việc soạn thảo các hình thức khác nhau của biên bản ghi nhớ nghiên cứu. Học sinh cũng có thể có cơ hội để dự thảo biên bản ghi nhớ tư pháp băng ghế dự bị hoặc ý kiến, thư từ khách hàng, điều khoản hợp đồng, hoặc biện hộ pháp lý.

Ngoài ra, tất cả các sinh viên phải tiếp tục theo học các khóa học về tra cứu và soạn thảo pháp lý trong những năm tiếp theo đại học để có thể hoàn thành các yêu cầu về viết pháp lý nâng cao để có thể được xét công nhận lấy bằng J.D. Các khóa học nâng cao về viết pháp lý cho sinh viên năm hai và năm ba sẽ tập trung vào bào chữa bằng văn bản, viết bài phân tích và nghiên cứu. Thêm vào đó, trường còn tổ chức một Trung tâm về soạn thảo pháp lý trong trường với sự tham gia của chính các sinh viên năm hai và ba trong trường dưới sự dẫn dắt của Khoa Viết & Nghiên cứu Phân tích Pháp lý. Có thể nói, Trườn luật – Đại học Washington cung cấp cho sinh viên của mình rất nhiều sự lựa chọn và mở ra các cơ hội cho sinh viên được học, trau dồi và thực hành kỹ năng soạn thảo pháp lý khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường.

3. Đại học luật Seattle (Mỹ)[6]

Chương trình soạn thảo pháp lý tại Đại học luật Seattle được đánh giá là chương trình soạn thảo pháp lý tốt nhất tại Mỹ theo xếp hạng của trang U.S. News. Chương trình này là một bộ môn bắt buộc cho sinh viên từ năm nhất đại học bao gồm các môn sau:

Soạn thảo pháp lý 1: Tra cứu, Phân tích, Soạn thảo (4 tín chỉ) (Legal Writing I: Research Analysis, Writing)

Soạn thảo pháp lý 2: Bào chữa bằng lời và bằng văn bản (3 tín chỉ) (Legal Writing II: Written & Oral Advocacy)

Chuyên đề Nghiên cứu Viết Nâng cao (2 tín chỉ) (Advanced Writing Seminar)

Thực hành Soạn thảo (1 tín chỉ)

Nghiên cứu Pháp lý Nâng cao (2 tín chỉ)

Khoa Soạn thảo pháp lý tại Đại học Seattle sử dụng cả phương pháp trong và ngoài lớp học nhằm nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên. Mỗi lớp học sẽ được trang bị hệ thống thiết bị tân tiến nhất cho phép giáo viên sử dụng máy tính và tất cả các loại văn bản giấy tờ bản cứng để trình chiếu cho sinh viên. Ngoài ra, các phòng học còn được lắp đặt hệ thống mạng internet không dây tốc độ cao. Sinh viên có thể gửi bài làm nháp của mình ngay và lập cho giáo viên thông qua bằng email để từ đó giáo viên có thể sử dụng chính bài của sinh viên và trình chiếu trên hệ thống máy chiếu, và hệ thống này cũng giúp sinh viên và giáo viên trao đổi được thuận tiện và nhanh chóng đối với các tiết học dạy từ xa.

IV. Hoạt động giảng dạy kỹ năng soạn thảo pháp lý tại Anh

Tương tự như Mỹ và hầu hết các quốc gia thuộc Khối Thịnh Vượng Chung, Anh cũng sử dụng hệ thống Thông luật. Tại Anh, kỹ năng soạn thảo pháp lý đa phần không được các trường đưa vào chương trình khung như là một môn học bắt buộc đối với các sinh viên đại học, mà các sinh viên chỉ được học kỹ năng viết pháp lý trong quá trình học các khóa học ngắn hạn khác như Tiếng Anh pháp lý hay môn Luật EU và Viết báo cáo (European Union Law and Report Writing) ở năm đầu đại học. Tuy nhiên, việc giảng dạy kỹ năng soạn thảo pháp lý lại được quan tâm và chú trọng nhiều hơn cho các đối tượng học Thạc sĩ Luật (LLM) hay chương trình Thực hành nghề luật LPC (Legal Practice Course).

1. Khoa luật – Đại học Cambridge[7]

Khoa luật Đại học Cambridge là một trong những trường luật hàng đầu trên thế giới, đứng thứ 2 trên thế giới theo xếp hạng của trang Top Universities. Đại học Cambridge còn là nơi cung cấp chương trình đào tạo và thi lấy chứng chỉ tiếng Anh pháp lý ILEC (International Legal English Certificate) cho luật sư và những người học nghề luật trên toàn thế giới. Tuy nhiên, các khóa học về soạn thảo pháp lý lại không phải là một trong những trọng tâm được giảng dạy riêng thành một khấu phần trong chương trình giảng dạy của nhà trường. Trong chương trình giảng dạy cho sinh viên đại học, kỹ năng soạn thảo pháp lý chỉ được giảng dạy kết hợp trong khấu phần về Phương pháp và Các Kỹ năng pháp lý (Freshfields Legal Skills and Methodology) của sinh viên năm thứ nhất. Ngoài ra, kỹ năng soạn thảo pháp lý cũng chưa được cụ thể thành một khóa học riêng trong các chương trình học khác tại trường.

2. Trường luật – Đại học Westminster[8]

Trường luật – Đại học Westminster là một ngôi trường có danh tiếng trong việc đào tạo, bồi dưỡng nghề cho các luật sư tư vấn và chương trình đào tạo Thạc sĩ Luật với việc cung cấp cho người học các kỹ năng và kiến thức cần thiết để trở thành một luật sư thành công trong xã hội với sự quốc tế hóa ngày càng sâu rộng như hiện nay. Như phần lớn các trường luật khác tại Anh Quốc, Đại học Westminster cung cấp chương trình đào tạo kỹ năng soạn thảo pháp lý trong chuỗi các kỹ năng mà sinh viên phải học trong chương trình Thực hành nghề luật LPC và Thạc sĩ luật LLM. Kỹ năng viết và soạn thảo pháp lý sẽ được giảng dạy cùng với nhóm các kỹ năng khác như Nghiên cứu pháp lý thực hành, Phỏng vấn và Tư vấn, và kỹ năng bào chữa.

V. Kết luận

[1] https://www.law.cornell.edu/wex/legal_writing

[2] http://hls.harvard.edu/dept/lrw/

[3] http://hls.harvard.edu/aca…/curriculum/catalog/default.aspx…

[4] http://hls.harvard.edu/aca…/curriculum/catalog/default.aspx…

[5] https://www.law.washington.edu/Writing/

[6] http://www.law.seattleu.edu/…/legal-writin…/program-overview

[7] http://www.undergraduate.study.cam.ac.uk/courses/law

[8] http://www.westminster.ac.uk/…/…/d09fplpc-legal-practice-llm

Tác giả: Nguyễn Bá Trường Giang

Tác giả từng học kinh tế tại Cornell và luật tại Đại học Boston (Mỹ), anh là cựu luật sư cao cấp của Baker & McKenzie.

Học Tiếng Anh Pháp Lý Cho Người Mới Bắt Đầu

Các hoạt động pháp lý ngày càng năng động trong bối cảnh các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng và xu hướng toàn cầu hóa ngày cảng rõ ràng. Trong đó, tiếng Anh pháp lý có vai trò không thể thiếu và quan trọng, đảm bảo là môi trường để các giao dịch, trao đổi, thậm chí giải quyết tranh chấp (nếu có) được thông suốt và hiệu quả, Tiếng Anh pháp lý, một thuật ngữ và cũng là một vũ khí cho những người làm việc trong lĩnh vực pháp luật, tại Việt Nam cũng như trên thế giới nói chung, vai trò của tiếng Anh pháp lý, học tiếng Anh pháp lý như thế nào

Các hoạt động pháp lý ngày càng năng động trong bối cảnh các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng và xu hướng toàn cầu hóa ngày cảng rõ ràng. Trong đó, tiếng Anh pháp lý có vai trò không thể thiếu và quan trọng, đảm bảo là môi trường để các giao dịch, trao đổi, thậm chí giải quyết tranh chấp (nếu có) được thông suốt và hiệu quả.

Nội dung bài viết bằng tiếng Anh và nhiều bài viết về pháp lý khác được cập nhật thường xuyên tại trang web: anhdolawyer.com.

Tiếng Anh pháp lý, một thuật ngữ và cũng là một vũ khí cho những người làm việc trong lĩnh vực pháp luật, tại Việt Nam cũng như trên thế giới nói chung.

a) Giúp cho bạn có thể hiểu những thuật ngữ pháp lý cơ bản;

b) Hiểu được sơ bộ về các ngành luật;

c) Tiếp cận và làm quen với một vài vấn đề pháp lý cơ bản và cách nó vận hành như thế nào;

d) Xây dựng và có thể sử dụng được một phạm vi từ vựng nhỏ trong lĩnh vực pháp lý (chưa sử dụng được các thuật ngữ chuyên biệt riêng có của ngành luật);

e) Hỗ trợ bạn có thể thoát khỏi tình trạng chỉ có thể diễn tả vấn đề pháp lý bằng tiếng Anh hoàn toàn thông dụng.

a) Đáp ứng được các yêu cầu cơ bản như ở cấp độ sơ cấp;

b) Có khả năng nghiên cứu và tìm hiểu sâu hơn các bản án hoặc các phiên xét xử;

c) Mở rộng vốn từ vựng, hiểu biết và sử dụng được các thuật ngữ chuyên biệt nói trên, các thuật ngữ có nguồn gốc La tinh, như: vượt thẩm quyền, và ngược lại, giữa các vấn đề này/đó, theo tỷ lệ, v.v…;

e) Bắt đầu xây dựng và hoàn tất một Hợp đồng với các điều khoản, điều kiện chung một cách tương đối đơn giản, như: phần bối cảnh tạo lập hơp đồng, Định nghĩa và giải thích, Cam kết và đảm bảo, Chấm dứt Hợp đồng, Giải quyết tranh chấp, v.v…;

f) Tiếp cận một số loại Hợp đồng cụ thể trong các lĩnh vực: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, xây dựng, dịch vụ, v.v…

a) Đáp ứng các yêu cầu ở cấp độ cơ bản và trung cấp;

b) Quen thuộc và nhuần nhuyễn với một vài loại Hợp đồng được nêu tại Mục 2.f nêu trên và có kiến thức và hiểu biết sâu hơn về các loại hợp đồng khác;

c) Hiểu biết, có khả năng nghiên cứu và áp dụng các học thuyết trong lĩnh vực nào đó vào thực tiễn vụ việc, như Học thuyết gian dối trong lĩnh vực chứng khoán;

d) Sở hữu một vốn từ vựng tiếng Anh pháp lý khổng lồ bao gồm các thuật ngữ chuyên biệt, thuât ngữ có nguồn gốc La tinh, và có thể sử dụng một cách tự nhiên và thuần thục.

4. Sử dụng tiếng Anh thông thường trước, rồi cố gắng đưa các thuật ngữ, từ vựng tiếng Anh pháp lý vào thay thế cho các từ/cụm từ tiếng Anh thông thường khi có thể.

5. Viết các câu ngắn, với cấu trúc đơn giản trước: Bạn có thể luyện tập bằng cách tách các câu rất dài/dài ra thành các câu đơn giản hơn. Mục đích là để tránh hoặc giảm thiểu các lỗi ngữ pháp, diễn tả ý một cách dể hiểu hơn, tránh hiểu không đúng ngữ nghĩa của một vấn đề nào đó khi sử dụng tiếng Anh pháp lý chưa tốt.

6. Hiểu được cấu trúc cơ bản và cách dùng từ tiếng Anh pháp lý, đôi khi khác với nghĩa thông thường của chính từ đó.

7. Một số tài liệu gợi ý ( Tác giả xin giữ nguyên tiêu đề sách bằng tiếng Anh để các bạn dễ dàng tìm kiếm chính xác cuốn sách đó):

(i) Introduction to International Legal English;

(ii) International Legal English;

(iii) Black Law (Dictionary);

(iv) How to understand and master language of law;

(v) Legal English Process;

(vi) Profesional English in use – Law;

(vii) Check your English vocabulary for Law;