Bài viết: Phương pháp học tiếng Anh và tiếng Anh chuyên ngành pháp lý cho sinh viên Đại học Luật TP.HCM
Tác giả: Lê Hà Huy Phát – Võ Thị Cẩm Giang
Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04(116)/2018 – 2018, Trang 74-80
TÓM TẮT
ABSTRACT:
Studying and researching general English and legal English must meet specific purposes about knowledge and skills. To achieve these purposes, teachers and students need particular preparations and actions. This article will describe pratical status as well as propose efficient methods, appliable routine and useful documents for studying general English and legal English for students in Ho Chi Minh City University of Law.
TỪ KHÓA: Anh văn pháp lý, học tập, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh,
KEYWORDS: study, Ho Chi Minh University of Law, legal English,
Thực hiện chuẩn đầu ra ngoại ngữ của sinh viên, theo kết quả tổng hợp việc nộp chứng chỉ ngoại ngữ của sinh viên Khóa 38 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (tốt nghiệp tháng 8 năm 2017) thì đến cuối tháng 7 năm 2017, vẫn còn đến 473 sinh viên trong tổng số 1567 sinh viên toàn trường (chiếm tỉ lệ 30.19%) chưa nộp chứng chỉ đủ chuẩn tốt nghiệp.[5] Đây đã được xem là một trong những kết quả tốt nhất trong những năm vừa qua của trường. Điều đó cho thấy rằng, một bộ phận không nhỏ sinh viên còn chưa thực sự quan tâm cũng như tập trung vào việc học tiếng Anh bên cạnh việc học ở trường và các hoạt động ngoại khóa. Trong bài viết, tác giả sẽ làm rõ: (i) Thực trạng học tiếng Anh chưa hiệu quả của sinh viên Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; (ii) Đề xuất phương pháp học hiệu quả tiếng Anh phổ thông và tiếng Anh pháp lý cho sinh viên Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Thực trạng học tiếng Anh chưa hiệu quả của sinh viên Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
1.1. Các phương pháp học tiếng Anh
a. Phương pháp tự học
Hiện nay, nhiều sinh viên đang áp dụng phương pháp tạm gọi là phương pháp tự học. Ở đây, sinh viên là người nắm thế chủ động. Cụ thể, sinh viên sẽ tự tìm kiếm các nguồn tài liệu thông qua sách, website uy tín hoặc mạng xã hội. Hầu hết các tài liệu này đều có sẵn đáp án, một vài tài liệu vừa có đáp án vừa có giải thích kèm theo. Sinh viên cũng dễ dàng tìm kiếm các video clip hướng dẫn tự học trên mạng và học tập từ đó. Nói cách khác, sinh viên chủ động hoàn toàn từ khâu chuẩn bị tài liệu, tìm hiểu nội dung, tự nghiên cứu. Phương pháp này rèn luyện một số kỹ năng cho sinh viên như chủ động làm việc chứ không thụ động tiếp thu Anh văn. Vì phải chuẩn bị bài nên phương pháp này giúp sinh viên phát triển kỹ năng tìm kiếm, chọn lọc và vận dụng nguồn tài liệu. Tuy nhiên, phương pháp này rất hạn chế về mặt kiến thức. Khi chỉ dựa vào kiến thức cá nhân để tự thẩm thấu một lượng kiến thức đồ sộ, rộng lớn mà chính bản thân mình chưa vững thì dễ dẫn đến hiểu không rõ, không sâu. Từ đó sẽ gây tiêu tốn nhiều thời gian hoặc trầm trọng nhất là sai lầm trong lựa chọn lộ trình và tài liệu học.
b. Phương pháp học truyền thống
Bên cạnh phương pháp tự học, phương pháp học truyền thống cũng được rất nhiều sinh viên lựa chọn. Ở đây, sinh viên sẽ tìm hiểu và lựa chọn một trung tâm ngoại ngữ phù hợp với các tiêu chí của bản thân (uy tín, học phí, địa điểm, chương trình học…). Ở mỗi chương trình học, sinh viên sẽ được hướng dẫn kiểm tra năng lực và xếp vào các lớp phù hợp trình độ của mình. Sinh viên sẽ được tiếp cận với các giáo viên dày dạn kinh nghiệm, giáo trình được chọn lọc và học trong môi trường chung, tạo cơ hội phát triển tốt các kỹ năng, nhất là kỹ năng nghe và nói. Sau khi học và thi cuối kỳ ở mỗi khóa, sinh viên sẽ được tiếp tục các chương trình học cao hơn. Đây là phương pháp truyền thống nên sinh viên sẽ tiếp nhận dễ dàng, quen thuộc. Tuy nhiên, phương pháp này vẫn có nhược điểm.
Cụ thể, thỉnh thoảng các giáo trình được chuẩn bị sẵn sẽ dạy lại các kiến thức sinh viên đã được học ở bậc phổ thông, điều này dễ dẫn đến tâm lý chán nản. Thêm vào đó, sinh viên đôi khi thụ động tiếp thu kiến thức từ giáo viên nên không đảm bảo được khả năng tự học (tìm kiếm thêm tài liệu, nghiên cứu thêm tài liệu…). Trong trường hợp sinh viên không nghiêm túc thì còn tận dụng thời gian làm việc riêng tại lớp. Các trung tâm hiện nay thường không có các biện pháp chế tài xử lý sinh viên nghỉ học nhiều hoặc không làm bài tập nên chất lượng đôi lúc phụ thuộc rất nhiều vào ý thức của sinh viên. Cuối cùng, mức học phí tại các trung tâm uy tín hiện nay khá cao là một trở ngại cho một lượng lớn sinh viên muốn học tốt tiếng Anh nhưng lại gặp khó khăn về tài chính.
c. Phương pháp học kèm
1.2. Nguyên nhân sinh viên học tiếng Anh chưa hiệu quả
a. Về khách quan
Người Việt Nam khá bất lợi khi học tiếng Anh so với người nước khác. Sự bất lợi này xuất phát từ lý do người Việt phải sử dụng cơ miệng theo một cách hoàn toàn khác để phát âm được tiếng Anh. So với tiếng Anh, tiếng Việt là một ngôn ngữ vô cùng độc đáo vì vừa có âm điệu vừa có dấu. Hai yếu tố này làm cho tiếng Việt trở nên đặc biệt so với 6.500 ngôn ngữ khác trên thế giới. Ví dụ, tiếng Anh là ngôn ngữ đa âm tiết (nhiều âm trong một từ) và trong mỗi từ đa phần chỉ có một trọng âm chính. Khái niệm này không có trong tiếng Việt, do đó, sinh viên Việt Nam thường đọc sai trọng âm hoặc quên đọc trọng âm. Thêm nữa là việc phát âm âm cuối, trong tiếng Việt hầu như không có âm cuối, nên khi nói tiếng Anh, đặc biệt các âm cuối /s/, /t/, /ch/, /k/… sinh viên thường có thói quen biến đổi âm hoặc nuốt âm (“does” sẽ đọc thành “đơ”, “park” sẽ đọc thành “pác”). Phát âm sai dẫn đến kỹ năng nghe và nói đều yếu.
b. Về nhận thức
Sinh viên hiện nay chưa thực sự đánh giá đúng tầm quan trọng và sự cần thiết của Anh văn trong cuộc sống, học tập và công việc, do đó không chú trọng vào việc rèn luyện Anh văn bên cạnh các môn học ở trường, các hoạt động ngoại khóa.[6] Trên thực tế, chúng ta cần hiểu rằng, nhận thức đúng đắn về vai trò của việc học tiếng Anh trong giao tiếp, hội nhập quốc tế, du lịch… mới có thể tạo nên nguồn cảm hứng, động lực đúng đắn để nâng cao khả năng tiếng Anh.[7] Chưa nhận thức đúng đắn về vấn đề này làm cho phần lớn người học thiếu kiên nhẫn, dễ nản chí. Một số học viên luôn mang tâm lý tự ti rằng mình không thể học tiếng Anh, cộng thêm sự nôn nóng, vội vàng muốn đạt kết quả mà không kiên trì theo đuổi một lộ trình lâu dài. Nhiều sinh viên có tâm lý học chỉ để thi mà không phải để ứng dụng. Từ đó sinh viên học với tâm lý đối phó, chỉ muốn học vừa đủ vì nghĩa vụ hoàn thành chỉ tiêu tốt nghiệp, không quan tâm đến việc biến kiến thức thành kỹ năng để sử dụng nhuần nhuyễn vào thực tế.
c. Về lộ trình
Qua quá trình giảng dạy tiếng Anh, tác giả nhận thấy rất nhiều sinh viên hiện nay chưa có một phương pháp bài bản và một lộ trình hợp lý để có thể nâng cao hiệu quả học tập. Điều này dẫn đến việc học nhiều nhưng lại không tiến bộ, không đạt kết quả mong muốn. Từ ý thức học đối phó, sinh viên đã không phát huy tối đa 04 kỹ năng mà chỉ chú trọng 02 kỹ năng đọc và nghe. Vì tâm lý học để thi chứ không để ứng dụng, sinh viên đã chỉ chú trọng vào “mẹo làm bài”[8] mà không chú trọng kiến thức, dễ rơi vào trường hợp “dục tốc bất đạt”. Bên cạnh đó, hiện nay phần lớn sinh viên Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa dành sự quan tâm đến việc học và rèn luyện tiếng Anh chuyên ngành luật, dẫn đến thực trạng là: chưa kể những em không tập trung học tiếng Anh mà ngay cả những em đã có ngoại ngữ tốt vẫn không thể ứng dụng những kỹ năng nghe – nói – đọc – viết trong lĩnh vực pháp lý để học tập và có cơ hội việc làm tốt hơn.
2. Đề xuất phương pháp học hiệu quả tiếng Anh phổ thông và tiếng Anh pháp lý cho sinh viên Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
2.1. Phương pháp và lộ trình học hiệu quả kỹ năng nghe tiếng Anh
– Nghe thụ động (“tắm ngôn ngữ”): Sinh viên cần nghe ở trình độ phù hợp của bản thân, sau đó nâng cao dần lên, ban đầu chỉ nghe, không cần hiểu. Khi rảnh rỗi, sinh viên mở các bài nghe và cứ lặp đi lặp lại những bài nghe ấy. Sinh viên không cần chú ý đến bài nghe, cứ làm việc của mình (học bài, đọc sách…) song song với tiếng phát ra của bài tiếng Anh. Ngoài ra, những chương trình truyền hình về du lịch (Star World), giải trí (Discovery), học thuật (Tedtalk) cũng là những nguồn tư liệu luyện nghe thú vị và bổ ích. Thậm chí, sinh viên có thể nghe chính các bài thi TOEIC hoặc IELTS. Công việc “tắm ngôn ngữ” này rất quan trọng vì nó cho phép chúng ta nghe đúng với từng âm của một ngôn ngữ khác tiếng Việt, giai đoạn này có thể kéo dài từ 3 đến 6 tháng.
– Nghe chủ động: Sau bước nghe bị động, chúng ta nên tiến hành nghe chủ động theo các bước sau đây:
Bước 1: Lấy nội dung của những bài mình từng nghe, đọc lại và nhớ lại, từ nào không hiểu nghĩa thì tra từ điển.
Bước 2: Mở bài nghe lại, vừa nghe vừa tra từ vựng theo nội dung.
Bước 3: Cố gắng nghe rồi chép chính tả lại. Từ nào không biết hoặc không nghe được thì bỏ qua, chép được bao nhiêu thì chép như cách học tiếng Việt thời tiểu học qua môn chính tả. Ở giai đoạn này, ngoài việc nghe và nhớ được mặt chữ, chúng ta sẽ dễ dàng phát hiện lỗi phát âm sai của mình. Ví dụ từ “audition” thường được phát âm là [au đí sần] nên có thể khi nghe sẽ không hiểu được. Hầu hết trong tiếng Anh, chúng ta cần đọc âm [au] thành âm [o]. Như vậy nó sẽ phải là [o đí sần], tương tự từ “august” hay từ “audience” cũng vậy. Mỗi ngày hãy thực hành với 1 – 2 bài nghe theo cách trên (từ 1 – 2 tiếng) trong 3 – 6 tháng.
Sau khi kỹ năng nghe đã khá lên, sinh viên nên tham gia các hội thảo, các buổi trao đổi học thuật được trình bày bằng tiếng Anh bởi những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực pháp lý được tổ chức tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh hoặc tham gia, tham dự các phiên tòa giả định, cuộc thi Moot Court Competition để phát triển tiếng Anh chuyên ngành. Tại nhà, sinh viên có thể luyện nghe các bản tin pháp lý từ chuỗi chương trình VOA Learning English với giọng đọc rõ ràng, phát âm chuẩn, tốc độ vừa đủ cùng với minh họa phụ đề. Chỉ cần mỗi ngày nghe 2 – 3 bản tin là đủ để não bộ tư duy và thích ứng với tiếng Anh chuyên ngành pháp lý.
2.2. Phương pháp và lộ trình học hiệu quả kỹ năng nói tiếng Anh
Nhiều sinh viên thậm chí người hành nghề luật thường phân vân nên học tiếng Anh giao tiếp phổ thông hay tiếng Anh chuyên ngành pháp lý vì hầu hết họ nhầm lẫn tiếng Anh giao tiếp phổ thông và tiếng Anh chuyên ngành khác hẳn nhau. Trên thực tế, tiếng Anh giao tiếp phổ thông và tiếng Anh chuyên ngành có phần chung chiếm đến 90% là phục vụ công việc (trừ việc tiếp khách hàng, đặt lịch hẹn qua điện thoại, đến việc tham gia các cuộc họp, đàm phán…). Phần khác nhau là từ vựng chuyên ngành và chiếm khoảng 10% tổng lượng kiến thức cần trau dồi. Như vậy, dù là tiếng Anh giao tiếp phổ thông hay tiếng Anh chuyên ngành thì khả năng phát âm và phản xạ nghe nói là yếu tố quyết định, sau đó là từ vựng. Sinh viên nên áp dụng linh hoạt phương pháp tự học và phương pháp học truyền thống để học tập kỹ năng này. Việc rèn luyện kỹ năng nói nên thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Rèn luyện kỹ năng nghe. Với mỗi bài luyện kỹ năng nghe, sinh viên nên đọc theo để làm quen với cách phát âm cũng như ngữ điệu nói của người bản xứ.[9]
Bước 2: Học cách phát âm một cách chính xác.[10]
Bước 3: Tìm một người bạn có cùng mục tiêu để có thể luyện tập giao tiếp, nghe nói bất cứ khi nào. Tốt hơn hết là một người có thể nhìn thấy những lỗi sai cho mình, không ngần ngại chỉnh sửa và hoàn thiện chúng.[11]
2.3. Phương pháp và lộ trình học hiệu quả kỹ năng đọc tiếng Anh
Để phát triển kỹ năng đọc, điều kiện tiên quyết là vốn từ vựng. Cách học từ vựng sẽ được trình bày ở phần sau. Ở phần này, để bắt đầu học tập tốt kỹ năng đọc, sinh viên cần tham khảo các bước sau đây:
Bước 1: Giai đoạn mới bắt đầu, sinh viên nên đọc từ các mẩu chuyện dành cho trẻ em, vì đây là các văn bản đơn giản, trong sáng, dễ đọc, dễ nhớ. Cố gắng đọc to văn bản đó, như vậy, kỹ năng đọc được phát triển và tai cũng sẽ nghe nên đồng thời tốt cho kỹ năng nghe. Giai đoạn này kéo dài cỡ một tháng, mỗi ngày luyện một tiếng.
Bước 2: Ở bước này, sinh viên nên tìm đọc các văn bản có độ khó cao hơn, ví dụ như các bài thi TOEIC (phần 7), đề thi IELTS, báo nước ngoài. Khi đọc, sinh viên cố gắng đọc lướt qua toàn bài để nắm được các mục, nếu bài đó có phần tóm tắt thì nên đọc phần tóm tắt kỹ (ví dụ trong Tạp chí Khoa học Pháp lý luôn có phần tóm tắt trước mỗi bài viết). Sau đó, hãy dừng đọc, nhớ lại và tự đặt các câu hỏi về ý của tác giả muốn viết gì trong văn bản đó. Lưu ý, nếu có từ mới chưa biết, hãy bỏ qua nó. Chúng ta sẽ xem cách đọc và nghĩa ở từ điển (và học thuộc chúng) sau khi chúng ta đã đọc hết đoạn văn bản. Đừng cố dừng lại dò từng từ, nó sẽ làm chúng ta quên hầu hết những gì đã đọc trước đó và không nắm được ý của toàn bài.
2.4. Phương pháp và lộ trình học hiệu quả kỹ năng viết tiếng Anh
– Bước 1: Thu thập các bài viết hay. Việc sưu tầm các bài viết tiếng Anh có thể được thực hiện thông qua nhiều nguồn tư liệu: sách báo, mạng xã hội, website… được tích lũy qua quá trình luyện đọc hằng ngày. Bước này giúp sinh viên học hỏi được những cấu trúc, từ vựng phong phú, mới lạ để vận dụng vào bài viết của mình.
– Bước 2: Luyện viết mỗi ngày. Bài viết có thể dựa trên bất cứ nội dung nào sinh viên thích và sáng tạo ra như: dựa trên những câu chuyện hằng ngày, nhận định về một tin tức, sự kiện xã hội, giải trí… được quan tâm, hay thậm chí chỉ là những mẩu truyện ngắn tự sáng tác. Việc luyện tập hằng ngày không chỉ giúp phát huy trí tưởng tượng, cải thiện khả năng tư duy nhạy bén mà còn tạo thói quen viết một cách tự nhiên. Khi viết, sinh viên cần xác định rõ ràng mục đích của bài viết rồi lập dàn bài chi tiết. Giai đoạn này có thể kéo dài 3 tháng, mỗi ngày luyện viết khoảng 2 tiếng.
– Bước 3: Kiểm tra và đánh giá. Sau khi hoàn thành bài viết, sinh viên nhất định phải đọc lại, rà soát những lỗi sai về ngữ pháp, từ vựng, trau chuốt câu từ. Bài viết có thể được hoàn thiện sau ít nhất 3 lần chỉnh sửa khi ý tứ, cách hành văn trở nên rõ ràng, mạch lạc, súc tích.[12] Ngoài việc tự kiểm tra chính tả, sinh viên còn có thể sử dụng chức năng chính tả, ngữ pháp được tích hợp sẵn trong phần mềm soạn thảo văn bản hoặc nhờ đến các website kiểm tra ngữ pháp như: Grammarly, Grammar Check và Grammar Book…
– Bước 4: Nhờ người khác đọc bài viết của mình. Hãy nhờ một người có kỹ năng viết tốt để nhận xét một cách khách quan, nhìn thấy những lỗi sai mà bản thân không thể tự nhận ra. Khi kỹ năng viết đã khá tốt, sinh viên có thể học và làm việc theo nhóm hoặc xin thực tập tại các văn phòng luật sư để thực hành soạn các văn bản pháp lý, hợp đồng, vận dụng các thuật ngữ chuyên ngành.
2.5. Phương pháp và lộ trình học hiệu quả từ vựng tiếng Anh
Sinh viên cần luyện tập nghiêm ngặt cách học từ vựng sau đây:
Bước 2: Dùng từ điển điện tử để nghe cách phát âm của một từ vựng 30 lần. Sau đó tự phát âm lại 50 lần từ đó. Như vậy, sinh viên có thể vừa nhớ được từ, vừa hiểu nghĩa, vừa biết cách phát âm. Cách làm này sẽ có những tác động tích cực đến kỹ năng nghe và nói.
CHÚ THÍCH
[1] Quyết định số 1938/TCHC-ĐHL ngày 30/10/2012 của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về chuẩn đầu ra ngoại ngữ.
[2] Quyết định số 1110/QĐ-ĐHL ngày 16/9/2010 của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về chuẩn trình độ tiếng Anh theo chương trình TOEIC cho sinh viên hệ chính quy thuộc các Khóa tuyển sinh từ năm 2009.
[3] Quyết định số 108/QĐ-ĐHL ngày 14/01/2016 của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về việc quy định và áp dụng chuẩn trình độ tiếng Anh theo chương trình TOEIC cho sinh viên hệ chính quy ngành Quản trị – Luật khóa 40 (Khóa học 2015 – 2020).
[4] Quyết định số 2993/QĐ-ĐHL ngày 22/12/2016 của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về việc quy định và áp dụng chuẩn trình độ tiếng Anh cho sinh viên hệ chính quy ngành Ngôn ngữ Anh từ khóa 41 trở đi.
[5] Tổng hợp danh sách sinh viên Khóa 38 và Quản trị – Luật khóa 37 nộp chứng chỉ ngoại ngữ, cập nhật đến hết 26/07/2017.
[6] Theo thống kê, hiện nay có khoảng 1,5 tỷ người nói tiếng Anh trên khắp thế giới và con số này ngày càng tăng lên. Tiếng Anh là ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi và là ngôn ngữ quốc tế nhưng lại không thay thế các ngôn ngữ khác. Thay vào đó, nó có chức năng hỗ trợ các ngôn ngữ khác.
[7] Benny Lewis, TED Talk on Rapid Language.Hacking,. https://www.youtube.com/watch?v=HZqUeWshwMs, truy cập ngày 06/01/2018.
[8] Sinh viên học theo dạng này thường không chú trọng đến ngữ pháp và từ vựng mặc dù đây là những kiến thức đóng vai trò nền tảng nhằm cải thiện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết một cách vững vàng và nhanh chóng nhất.
[9] Sinh viên có thể thực hành ban đầu với clip “Why I must come out” – Tedtalk, https://www.ted.com/talks/geena_rocero_why_i_must_come_out – Truy cập ngày 06/01/2018.
[10] Sinh viên có thể tham khảo chương trình dạy phát âm theo link này: https://www.youtube.com/watch?v=84c0rUgtBzA. – Kênh này có rất nhiều bài dạy và hướng dẫn cách phát âm chuẩn, chính xác và mở rộng vốn từ vựng mỗi ngày.
[11] Sid Efromovich, 5 Techniques to speak any foreign language,.https://www.youtube.com/watch?v=-WLHr1_EVtQ&t=23s, truy cập ngày 06/01/2018.
[12] Chẳng hạn, khi muốn diễn đạt bằng tiếng Anh câu: “Đối với tôi, vượt qua kỳ thi TOEIC là điều quan trọng nhất”. Sinh viên có thể viết: “Passing the TOEIC test is the most important thing to me”. Đây là một câu đúng ngữ pháp, nhưng lại khá bình thường. Sinh viên có thể viết hay hơn: “Passing the TOEIC test is the most essential stuff for me”. Để trau chuốt thành câu hay hơn nữa, sinh viên phải biết sử dụng thành ngữ “be at the top of one’s agenda” để thay thế cho cụm từ “the most essential stuff for somebody”. Do đó, câu trên có thể viết rất hay thành: “Passing the TOEIC test is at the top of my agenda”.
[14] Benny Lewis, TEDx Talk on Rapid Langage.Hacking,.https://www.youtube.com/watch?v=HZqUeWshwMs&t=102s, truy cập ngày 06/01/2018.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Quyết định số 2993/QĐ-ĐHL ngày 22 tháng 12 năm 2016 về việc quy định và áp dụng chuẩn trình độ tiếng Anh cho sinh viên hệ chính quy ngành Ngôn ngữ Anh từ Khóa 41 trở đi [trans: Decision No.2993/ QD-DHKdated December 22, 2016 on the regulation and application of standard English for regular English students from course 41]
Quyết định số 108/QĐ-ĐHL ngày 14 tháng 01 năm 2016 về việc quy định và áp dụng chuẩn trình độ tiếng Anh theo chương trình TOEIC cho sinh viên hệ chính quy ngành Quản trị – Luật Khóa 40 (Khóa học 2015 – 2020) [trans: Decision No. 108 / QD-DHL dated January 14, 2016 on the regulation and application of TOEIC level standard for regular students of Management&Law course 40 (2015-2020)]
Quyết định số 1938/TCHC-ĐHL ngày 30 tháng 10 năm 2012 về chuẩn đầu ra ngoại ngữ [trans: Decision No. 1938/TCHC-DHL dated October 30, 2012 on the standard of foreign language output]
Quyết định số 1110/QĐ-ĐHL ngày 16 tháng 9 năm 2010 về việc quy định chuẩn trình độ tiếng Anh theo chương trình TOEIC cho sinh viên hệ chính quy thuộc các Khóa tuyển sinh từ năm 2009 [trans: Decision No. 1110/QD-DHL dated September 16, 2010 on setting English standard under the TOEIC program for full-time students under the enrollment courses from 2009]
Gordon W.Brown and Kent D.Kauffman, Legal Terminology (Sixth Edition), Publishing House Pearson, 2013
Benny Lewis, TED Talk on Rapid Language.Hacking,.https://www.youtube.com/watch?v=HZqUeWshwMs, access on 06/01/2018