Tự Học Tiếng Anh Như Thế Nào / Top 13 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Tôi Tự Học Tiếng Anh Như Thế Nào?

Chúng ta phải thừa nhận rằng dân khối A là “chúa lười.” Tôi cũng không ngoại lệ, phải nói là lười “chảy thây” ra đấy. Lười như thế thì học Tiếng Anh cái nỗi gì? Đến bao giờ mới giỏi được? Liệu dân khối A có thể giỏi Tiếng Anh được không? Tại sao dân khối A phải thua dân khối D môn Tiếng Anh? Liệu dân khối A có “qua mặt” dân khối D về môn Tiếng Anh không? Đó là những câu hỏi luôn “lai vãng” trong đầu khi Tôi còn là sinh viên năm 1, thời mà trình độ Tiếng Anh của Tôi chỉ đang ở mức “siêu gà” nếu không muốn nói là “mù.” Bài viết sau là kinh nghiệm học Tiếng Anh của Tôi không những giúp ích cho các bạn mất căn bản mà nó còn mở ra hướng đi tích cực cho những ai mới bắt đầu học Tiếng Anh trong việc trau dồi kỹ năng Tiếng Anh của mình. Nếu muốn nhận lời tư vấn học Tiếng Anh hiệu quả, vui lòng để lại email bên dưới.

1. Bài giải chi tiết môn Anh thi TN THPT 2014.2. Bài giải chi tiết môn Anh thi TSĐH Khối A1-2014.3. Bài giải chi tiết môn Anh thi TSĐH Khối D-2014.4. Bài giải chi tiết môn Anh thi Cao Đẳng Khối A1&D-2014.5. Bài giải chi tiết môn Anh thi HSGQG 2014.6. Bài giải chi tiết môn Anh thi HSGQG 2013.7. Tổng hợp chuyên đề luyện thi đại học & HSG.

Thời gian đầu học 2 lớp ở trung tâm Đại Học Sư Phạm chúng tôi (học 2 lớp Tôi trốn học phí được 1 lớp, vì nghèo quá nên làm liều :)) nhưng Tôi thấy không hiệu quả, trình độ Tiếng Anh của Tôi vẫn dậm chân tại chỗ. Không phải do giáo viên dạy không tốt, mà lỗi là do chính Tôi bởi bản chất lười nó luôn đeo bám khó mà dứt được. Đi học thì chép bài đầy đủ nhưng về nhà chẳng bao giờ nhìn lại, bài tập “Nghe” thầy cô giao cũng không hoàn thành, vô lớp thì mượn vở bạn chép để đối phó. Nhận ra không những mình đang tự lừa dối bản thân mà còn lãng phí tiền bạc vô ích. Tôi quyết định nghỉ học ở trung tâm để ra kế hoạch tự học nhằm “đánh bại” tật lười của mình. Ý thức được việc tự học làm cho bản thân mình rất thoải mái, không áp lực, và cũng không bị ràng buộc bởi nhiều yếu tố khác như: giáo viên, thời gian, không gian…, mà đôi khi còn mang lại kết quả thưc tế nữa bởi mình có thể học mọi lúc mọi nơi, bất cứ khi nào hứng mà không phải lo lắng gì cả. Là dân khối A, tôi tâm niệm việc học Tiếng Anh chỉ để phòng khi sử dụng đến; tuy nhiên, Tôi cũng ý thức được tầm quan trọng của Tiếng Anh trong thời kì hội nhập, nhất là ở cái thời “Nhất Thân, Nhì Thế, Tam Tiền” đang thống trị mối quan hệ xã hội thì chỉ có con đường học vấn mới giúp Tôi thoát nghèo và có chỗ đứng trong xã hội mà thôi bởi “Thân, Thế, và Tiền” Tôi đều không có. Ý thức được điều đó, Tôi bắt đầu vạch ra cho mình một kế hoạch tự học Tiếng Anh với mục tiêu phải giỏi bằng được, tất nhiên đây là “kế hoạch lười.” Tại sao Tôi lại gọi nó là “kế hoạch lười?” Bởi Tôi biết bản chất mình đã lười sẵn rồi, mà đa phần dân khối A ai cũng giống ai, lười là “căn bệnh” chung và là “căn bệnh” kinh niên khó mà “chữa” được. Bởi nếu Tôi siêng thì Tôi đã là dân khối D hay C rồi. Vì thế “kế hoạch lười” của Tôi là học Tiếng Anh theo kiểu “tùy hứng”, tức lúc nào thấy hứng lên thì vác sách ra học mà không có thời gian cụ thể, không hứng thì vứt xó; tuy nhiên, “một khi học thì phải học nghiêm túc và chắc rằng phải hiệu quả.” Tôi tâm niệm như thế.

Tôi bắt đầu lang thang lên mạng, nướng phần lớn thời gian của mình vào chát chít, nhưng Tôi lại vào những forums nước ngoài để tập nói Tiếng Anh. Ở đây, Tôi học được rất nhiều từ bạn chat, từ cách nói chuyện đến cách viết Tiếng Anh của những người ở những quốc gia khác nhau, chẳng hạn như: ASL plz là Age, Sex, Location please, cái mà trước đây Tôi không bao giờ biết được. Tôi chỉ tận dụng thời gian rãnh của mình để nói chuyện với người nước ngoài nhằm trau dồi vốn Tiếng Anh vốn rất khiêm tốn của mình. Tôi chỉ tham gia chat thôi chứ voice chat thì Tôi chịu, bởi có nói được đâu mà voice chat.

Thấy người ta nói Tiếng Anh lưu loát mà Tôi thấy ức chế, vì thế, kế hoạch của Tôi là phải tìm cho được một môi trường luyện nói Tiếng Anh để tập phản xạ, còn vấn đề Nghe, Đọc, Viết thì tự luyện ở nhà cũng được, và tất nhiên những việc này cũng nằm trong “kế hoạch lười” của Tôi bởi cách học của Tôi chẳng giống ai, Tôi học tùy hứng nhưng luôn có mục tiêu cuối cùng là phải sử dụng được Tiếng Anh chứ không phải học để lấy bằng này bằng kia treo trong nhà nhằm “lòe” người khác.

3 kỹ năng này Tôi gộp lại học một lần. Tài liệu của Tôi đơn giản chỉ là 3 trang web:

Còn đọc và viết thì Tôi chọn cho mình một quyển sổ khác để ghi chép. Khi nghe chán thì Tôi chuyển sang đọc báo bằng Tiếng Anh (cái này Tôi cực kì thích). Tôi thường đọc to chứ không đọc thầm bởi đọc to nó giúp cho Tôi cải thiện kỹ năng nói và phát âm. Trong quá trình đọc, Tôi luôn chú ý văn phong viết của họ (Anh lẫn Mỹ). Nhiều câu họ viết rất hay (điều này chắc chắn bạn không thể học được ở trường hay trung tâm). Với những cấu trúc hay đó cộng với vốn ngữ pháp đã được tích lũy của mình, Tôi cẩn thận ghi chép lại và tự đặt thêm vài câu tương tự để nhớ cách dùng. Trong quá trình đọc, có từ nào không hiểu, Tôi highlight từ đó và đọc cho hết bài báo (chú ý: đừng dừng lại để tra từ điển nhá, vì nó sẽ làm cho bạn mất hứng và giảm kỹ năng đọc.) Sau đó Tôi quay lại , dùng từ điển Oxford Advanced Learner Dictionary (cũng đơn ngữ nhá) để tra cứu những từ mà mình highlight trước đó. Tôi dùng Flashcards để ghi chép từ mới ở mặt trước kèm “họ hàng nhà nó” tức nếu Tôi có động từ là “authorize” thì Tôi tìm danh từ, tính từ, trạng từ, từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa của nó. Còn mặt sau thì Tôi ghi nghĩa bằng Tiếng Anh. Học như thế, khả năng Tiếng Anh của Tôi lên nhanh như “diều gặp gió.” Tôi muốn nhấn mạnh với bạn đọc về lợi ích của việc đọc báo bằng Tiếng Anh rằng nó giúp cải thiện vốn từ vựng của bạn một cách đáng kể ở tất cả các lĩnh vực như: Chính Trị, Kinh Tế, Văn Hóa, Giáo Dục, Khoa Học, Giải Trí, Tôn Giáo… điều mà chắc chắn bạn sẽ không bao giờ có được khi bạn chỉ học ở nhà trường, trung tâm, hay chỉ chăm chăm vào một quyển sách Tiếng Anh nào đó. Từ vốn từ vựng đa dạng đó, nó sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều trong việc cải thiện kỹ năng nói và viết của mình. Ngoài việc đọc báo bằng Tiếng Anh, bạn đọc cũng có thể chọn cho mình một quyển tiểu thuyết Tiếng Anh nào đó để “gối đầu giường”, hi vọng một ngày nào đó, kỹ năng đọc và viết của bạn sẽ tiến bộ nhanh chóng.

Cũng nói thêm, trong quá trình học Tiếng Anh ở trường ĐH Sư Phạm chúng tôi tình cờ lang thang sang khoa Anh, Tôi thấy bảng thông báo thời khóa biểu lớp Sư Phạm Anh năm 3, môn nói – môn này do một giáo viên người Úc đảm nhiệm. Tôi nghĩ đây chính là cơ hội vàng để mình luyện nói rồi. Tôi theo chỉ dẫn của thời khóa biểu vào đúng lớp 3h chiều ngày hôm đó. Điều đầu tiên làm Tôi ngạc nhiên nhất là 1 lớp Tiếng Anh chỉ có vỏn vẹn 30 sinh viên, không giống như mấy trường ĐH khác, một lớp có thể lên đến 200 sinh viên. Ban đầu, Tôi cũng hơi lo, nhưng Tôi vẫn đánh bạo vào học thử xem sao. Vào lớp lúc sinh viên còn đang lao nhao, giảng viên chưa có mặt, Tôi chọn một góc cuối lớp ngồi cho an toàn. 5 phút sau, một bà giáo người Úc với “thân hình đồ sộ” tiến vào, cả lớp đứng dậy chào. Sau màn chào cô, cô bắt đầu đưa mắt quan sát cả lớp như muốn điểm danh. Khi mắt cô dừng lại ngay chỗ Tôi ngồi, Tôi cảm nhận có điều chẳng lành xảy ra. Cô gọi Tôi đứng dậy và hỏi tên Tôi, học lớp nào? Bảo, lớp Toán – Tôi đáp. Sau đó cô nói chuyên với lớp trưởng bla bla… mà Tôi chẳng hiểu gì cả (trình độ Tiếng Anh của Tôi đang ở mức “siêu gà” mà :D). Sau khi nói chuyện với lớp trưởng xong, mắt cô hướng về phía Tôi và phán: “you may get out now.” Tôi nghe đúng như in câu đó nhưng vẫn đứng như trời tròng bởi Tôi chẳng hiểu cô đang nói gì? Hiểu được việc gì đang xảy ra, lớp trưởng tiến lại gần và giải thích rằng cô không đồng ý cho Tôi ngồi trong lớp học này. Thế là Tôi lẳng lặng chào cô và ra khỏi lớp. Tôi biết Tôi thích Tiếng Anh nhưng không ai giúp Tôi, còn đi học trung tâm thì không có khả năng. Hơi tủi thân, nhưng đó cũng là lý do khiến Tôi phải hạ quyết tâm tự học Tiếng Anh cho bằng được.

Còn bây giờ thì sao? Bây giờ thì đã khác xưa rồi, Tôi có thể xem truyền hình Mỹ, xem phim Mỹ không cần phụ đề, đọc báo bằng Tiếng Anh như Tiếng Việt, viết Essay như làm “Tập làm văn,” nói chuyện với người bản xứ một cách tự nhiên, tự tin thuyết trình bằng Tiếng Anh. Tất cả những điều mà Tôi có được hoàn toàn là nhờ tự học mà không phải trải qua trung tâm này trung tâm nọ, và tất nhiên không tốn triệu này, triệu nọ. Phải nói, số tiến mà Tôi bỏ ra học Tiếng Anh chỉ bằng số tiền bạn uống café 1 tháng nhưng vẫn mang lại kết quả thiết thực. Bạn có muốn vậy không? Tất cả những gì bạn cần là:

Một xấp Flashcards để học từ vựng. (tầm 50K)

2 quyển sổ nhỏ (1 cho Ngữ Pháp, 1 cho Viết) (tầm 20K)

Vài websites sau, bạn thích trang nào thì chọn trang ấy:

Have a good one!

Tự Học Tiếng Trung Như Thế Nào?

Nếu bạn không tự học được theo sách (vì bất kì lý do bất khả kháng nào đó), bạn cũng cần học phát âm đầu tiên. Nhiều bạn học để thi HSK, nên cho rằng học nói k quan trọng. Nhưng phát âm chuẩn chính là tiền đề để bạn nghe chuẩn. Nên dù thế nào cũng vẫn phải học phát âm đầu tiên (đừng học tiếng bồi vì bất kì lý do gì trừ việc bạn chỉ cần đi XKLĐ và thực sự k có thời gian để học cho bài bản).

Các bạn nên dành ít nhất 2 -3 tuần đầu để học hết tất cả thanh mẫu và vận mẫu trong tiếng Trung, đọc chuẩn các ghép vần và dấu. Chỉ cần những ngày đầu kiên trì, bạn có thể yên tâm đọc đc bất kì chữ Hán nào mà bạn biết phiên âm về sau.

Tự học tiếng Trung như thế nào để luyện khẩu ngữ hiệu quả?

Học xong phát âm, bạn có thể luyện nghe và học nói những mẫu câu cơ bản trước. Nên có 1 quyển vở và hãy luyện cả viết chữ – nếu bạn có thể, lúc đầu bạn sẽ thấy viết chữ vừa khó vừa k để làm gì, nhưng luyện viết nhiều, đọc nhiều sẽ giúp ích nhiều cho bạn về việc học cả việc xin việc sau này.

Có nhất thiết phải học bộ thủ không?

Để nhớ chữ nhanh, chỉ có cách là bạn phải viết nhiều và đọc nhiều. Khi học chữ, bạn có thể học theo bộ thủ, nhưng k nhất thiết phải học thuộc lòng cả 214 bộ. Bạn chỉ cần học theo từng chữ.

VD: chữ 你 có bộ chính là bộ nhân đứng, chữ 好 là bộ nữ. Bạn cũng nên học theo âm Hán Việt, đây cũng là cách phát triển từ vựng rất tốt. Tuy nhiên, cần để cách dùng của từ, tránh trường hợp cách dùng của người TQ k giống với mình. VD từ ‘vô duyên’ trong tiếng Trung k dùng để chỉ cách nói, cử chỉ của 1 ng với nghĩa xấu, mà chỉ để nói về vc k có duyên phận.

Học theo những cách vui vẻ khác

Tự học tiếng Trung như thế nào để học ngữ pháp và tự vựng hiệu quả?. Từ vựng không chỉ học được từ trong sách, mà còn có thể từ rất nhiều nguồn khác. Hai trong số đó là: nghe nhạc và xem phim.

– Nghe nhạc: Mới học, bạn đương nhiên nghe sẽ không hiểu ngta hát gì, vì bạn k thể tự dưng hiểu đc lời ngta hát. Bạn cần tìm lyric của nó, tìm cả phần pinyin và đọc cả dịch tiếng Việt nữa. Sau đấy hãy tra từng từ, ghi lại, học thuộc bài hát và hát mỗi khi bạn rảnh. Bạn sẽ nhớ chữ rất nhanh. 1 điều đặc biệt nữa là sau này bạn học cao lên rồi, bạn sẽ phát hiện ra bài hát năm xưa bạn k hiểu j h đã dễ dàng với bạn hơn rất nhiều rồi (đó chính là cảm xúc của mình bh đấy ^^ )

– Nếu bạn thích đọc sách, tham gia mạng xã hội, bạn cũng có thể dùng cách này để học. Tuy nhiên, đừng ép buộc mình học quá nhiều thứ một lúc, nó chỉ khiến bạn thêm căng thẳng và cảm thấy việc học sao mà đáng sợ đến thế mà thôi ^^

Tự Học Tiếng Anh Online Như Thế Nào Để Hiệu Quả?

Trước khi bước vào tự học tiếng Anh online, bạn cần phải biết trình độ của mình. Đây là điều quan trọng bởi nếu không biết trình độ, bạn sẽ không biết học từ đâu. Bạn sẽ bị mông lung giữa bạt ngàn thông tin trên Internet. Khi đó, việc học online không những không hiệu quả mà còn có thể khiến bạn nản chí.

Các bạn có thể DOWNLOAD TRỌN BỘ SÁCH HỌC IELTS HAY NHẤT

Hiện nay, trên mạng có vô số các website chia sẻ kiến thức để giúp bạn tự học tiếng Anh online. Tuy nhiên, bạn cũng cần chọn lọc bởi có nhiều website thiếu uy tín có thể chia sẻ các kiến thức sai lệch. Bên cạnh đó, việc có quá nhiều website sẽ khiến bạn thiếu tập trung. Và khi mà bạn chuyển hết website này đến website khác, bạn có thể bị Facebook, Youtube làm xao nhãng.

Lời khuyên của mình đó là bạn chỉ nên lựa chọn từ 1-5 website chủ đạo để học tiếng Anh. Các website này phải giúp bạn nâng kiến thức tổng quát, đầy đủ nhất. Đừng chỉ lệch về 1 kỹ năng nào. Ví dụ như bạn học nghe qua BBC, CNN thì cũng cần lựa chọn thêm các website học ngữ pháp, từ vựng…

Universal xin giới thiệu tới bạn đọc Top 10 website học IELTS online miễn phí tốt nhất. Đó là các website như IELTS Mentor, IELTS Simons, IELTS Liz…

Việc tự học tiếng Anh online có thể khiến bạn xao nhãng, mất tập trung do Internet có rất nhiều thứ thú vị. Bạn cũng có thể bị mông lung sau một thời gian học, không biết mình tiến bộ đến đâu, mình học có hiệu quả không. Do vậy, điều quan trọng để có thể tự học hiệu quả, bạn cần sắp xếp lịch trình thời gian học phù hợp.

Ví dụ:

Thứ 2,4,6: Sáng học từ vựng, chiều học ngữ pháp, tối học Listening.

3,5,7: Sáng học Writing, chiều học Reading, tối học Speaking.

Và điều quan trọng là bạn cần tuân thủ theo lịch trình đó, và làm các bài test kiểm tra trình độ thường xuyên để biết được mình có đang tiến bộ hay không.

Học tiếng Anh, cũng như IELTS, TOEIC cần phải có lộ trình nhất định. Từ việc biết trình độ của mình, bạn nên xây dựng một lộ trình phù hợp và học theo lộ trình đó. Ví dụ như bạn là người mất gốc, bạn sẽ học theo lộ trình:

2 tháng đầu: Học cơ bản từ vựng, ngữ pháp

3 tháng tiếp theo: Học IELTS cơ bản, mục tiêu 4.5+

2 tháng tiếp theo: Học IELTS các kỹ năng, chú trọng Reading và Listening, mục tiêu 5.5+

3 tháng tiếp theo: Học IELTS chú trọng nâng cao kỹ năng Speaking, học các mẹo để điểm cao, mục tiêu 6.5+

3 tháng tiếp theo: Học IELTS chú trọng nâng cao kỹ năng Writing, học các mẹo để điểm cao, mục tiêu 7.5+

Với một lộ trình phù hợp, bạn sẽ dễ dàng đo lường được hiệu quả. Điều này giúp việc tự học tiếng Anh online không bị mông lung, mà bạn tốn thời gian nhưng vẫn không tiến bộ.

Để học hiệu quả, bạn cũng sẽ cần phải thật chăm chỉ. Tuân thủ theo đúng lịch trình và lộ trình đề ra. Dành toàn thời gian cho việc học. Đó là cách duy nhất để có thể tự học tiếng Anh online hiệu quả.

Học Tiếng Anh Pháp Lý Như Thế Nào?

HOẠT ĐỘNG GIẢNG DẠY KỸ NĂNG SOẠN THẢO PHÁP LÝ BẰNG TIẾNG ANH TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TRÊN THẾ GIỚI I. Tiếng Anh Pháp Lý

Có thể nói sự phát triển vượt bậc của xã hội loài người từ một vài thập kỷ qua đã chia nhỏ các ngành học thành nhiều ngành sâu khác nhau, trong đó có Ngôn Ngữ Luật (cấu thành của ngành Ngôn Ngữ Học). Nếu như bộ xương của kinh tế học (economics) là các mô hình toán, thì với luật học là ngôn ngữ (linguistics). Tại Hoa Kỳ, các học giả gọi đó thứ Tiếng Anh Pháp Lý (Legal English) hay Ngôn Ngữ Luật (Language of the Law). Sở dĩ thứ ngôn ngữ này trở nên đặc biệt chính là vì một số đặc điểm chính như tính riêng biệt (peculiar), tính duy nhất (uniqueness), tính mơ hồ (vagueness), tính uyển chuyển (flexibility) và tính phổ quát (universality). Ngay trong nội tại của ngành Ngôn Ngữ Luật, người ta lại chia nhỏ thành Ngôn Ngữ Hợp Đồng (Contractual Language), Ngôn Ngữ Thẩm Phán (Judge-made Language), Ngôn Ngữ Luật Sư (Language for Lawyers). Trong mỗi phần ngành, người ta nghiên cứu sâu sắc về đặc điểm (character), hình thức (form), cấu trúc (structure), bản chất (nature). Trên thực tế, sự uyển chuyển về ngôn ngữ chiếm đến 99% sự thành công của việc soạn thảo một hợp đồng hay bất kỳ một văn bản mang tính pháp lý nào. Hay nói một cách hoa mỹ của các luật sư thì hợp đồng là một trò chơi về ngôn từ. Cách nói như vậy quả là không có gì ngoa nếu chúng ta nhìn một chút lại quá trình lịch sử phát triển của Ngôn Ngữ Luật (ở đây muốn nói đến cụ thể là Tiếng Anh Pháp Lý).

Trở lại với nguồn gốc của Hệ Thống Pháp Luật Chung (hay thường gọi ngắn gọn là Thông Luật). Từ thời trước khi Vương Quốc Anh ngày nay ra đời, Thông Luật được viết bằng ngôn ngữ đời thường của các cộng đồng sống rải rác khắp các vùng thuộc nước Anh ngày nay. Thời kỳ La Mã cai trị nước Anh, ngôn ngữ của luật là tiếng Latin (khoảng năm 43 SCN). Sau khi người La Mã rời khỏi nước Anh và người Anglo-Saxon xâm chiếm và cai trị nước Anh bằng hệ thống pháp luật Anglo-Saxon, ngôn ngữ luật cổ là tiếng Giéc-manh (được coi là Tiếng Anh cổ). Sau khi người Norman xâm lược nước Anh, thì ngôn ngữ luật là tiếng Pháp, phổ biến trong khoảng hơn 3 thế kỷ. Kể từ năm 1066, tiếng Latin là ngôn ngữ chính thống của các văn bản pháp luật và mãi tới năm 1730 mới được thay thế bởi Tiếng Anh (lưu ý là Tiếng Anh của ngày đó khác khá nhiều so với Tiếng Anh hiện đại) theo Đạo Luật Tố Tụng Tại Tòa Án Công Lý (1730). Ngày nay trong Tiếng Anh Pháp Lý, chúng ta còn thấy tồn tại nhiều thuật ngữ Latin như Ipso facto (by that very fact itself), force majeure (unavoidable event), ad hoc (for a particular purpose), de facto (existence by law), bona fide (in good faith), inter alia (among other things), ultra vires (beyond powers) vvv. Chúng ta cũng thấy nhiều từ gốc tiếng pháp nay vẫn được dùng để chỉ nhiều thuật ngữ trong Thông Luật như property (properte), estate (état), chattel (chatel), executor (executor) vvv.

3. Phân loại tiếng Anh Pháp Lý Hiện Đại

Ngày nay, Tiếng Anh Pháp Lý (TAPL) đã trở thành một bộ phận của ngành ngôn ngữ học hiện đại, hay được gọi là một “Tiểu Ngôn Ngữ” bởi TAPL phân biệt nó rất rõ với Tiếng Anh phổ thông về cấu trúc, từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp vv. Nó khó hiểu và phức tạp đến độ người ta đặt riêng cho nó một tên gọi là “Legalese” để “bêu rếu” giới luật sư về cách viết và giao tiếp của họ khiến người “ngoại đạo” không thể hiểu nổi họ muốn nói gì, đặc biệt là trong ngôn ngữ của hợp đồng. Mặc dù nhiều nhà ngôn ngữ cũng như nhiều học giả phê bình thứ ngôn ngữ luật mà các luật sư đang dùng là “rối rắm” và đề xuất cải cách TAPL theo hướng đơn giản hóa, trực tiếp về ngữ nghĩa để cho dễ hiểu, nhưng nhìn vào gần như 100% các hợp đồng giao dịch tại các thị trường phát triển như Anh, Hoa Kỳ, và kể cả các hợp đồng có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, chúng ta vẫn nhận thấy một lối hành văn siêu phức tạp mà nếu không có khả năng ngôn ngữ tốt cộng với kiến thức pháp luật sâu, thì thật sự vất vả mới có thể hiểu được, hoặc tưởng là hiểu đúng, nhưng hóa ra lại đang sai mà không biết là mình sai.

Vậy tại sao TAPL lại cứ phải phức tạp như thế? Câu hỏi này thật khó trả lời, thậm chí đối với cả bản thân những người va chạm nhiều với những thứ văn bản pháp lý kiểu như vậy. Để giúp kiến giải phần nào sự phức tạp này, qua kinh nghiệm tích lũy được sau nhiều năm học tập, nghiên cứu tại cả hai nền Thông Luật (Hoa Kỳ) và Dân Luật (Việt Nam), tôi đã thử phân loại Tiếng Anh Pháp Lý ra thành nhiều cấp độ như sau: (i) Tiếng Anh dùng trong các văn bản pháp luật chính thống (Statutes, Treaties etc.,) (ii) Tiếng Anh mà các Thẩm Phán dùng để hành văn khi soạn thảo các phán quyết (Judge-made) (iii) Tiếng Anh dùng trong các hợp đồng (Contractual Language) và (iv) Tiếng Anh dùng giao tiếp pháp lý (legal opinion memo). Sự phân chia này của tôi không cố tình chia theo mức độ phức tạp và khó (mặc dù trên thực tế có sự phân biệt này), mà chỉ để cho chúng ta thấy được một số đặc điểm của từng loại văn bản mà trong đó TAPL được sử dụng.

3.1. Tiếng Anh trong các văn bản pháp lý chính thống (Đạo luật, Hiệp định vvv)

Tiếng Anh dùng trong các đạo luật (ở đây tôi chỉ nói tới các đạo luật của Hoa Kỳ) có một đặc điểm chung là tính khái quát quá cao đến độ đậm đặc và rắc rối. Có người nói tại sao không soạn thảo luật bằng một thứ Tiếng Anh thông thường để ai đọc cũng hiểu, vì mục đích cuối cùng của luật là phải đi vào cuộc sống để một người nông dân Mỹ với trình độ học vấn trung học (high school) đọc và hiểu luật quy định gì. Đơn giản đến mức như: Vỉa hè là dành cho người đi bộ hay đèn đỏ dừng xe lại hay đến ngã tư giảm tốc độ nhìn hai phía rồi đi tiếp. Ai cũng muốn viết đơn giản như thế, nhưng không hiểu sao, các đạo luật ở Mỹ lại không được soạn theo thứ Tiếng Anh đơn giản (Plain English), mà lại cứ phải sử dụng thứ Tiếng Anh phức tạp mà đến cả sinh viên tốt nghiệp đại học đọc còn không hiểu luật muốn nói gì (chưa kể đến cả sinh viên luật còn ngồi đọc nát cả luật còn hiểu chưa rõ). Lấy một ví dụ một đoạn trong Bộ Luật Thương Mại Thống Nhất Hoa Kỳ: “2-316. Exclusion or Modification of Warranties: (1) Words or conduct relevant to the creation of an express warranty and words or conduct tending to negate or limit warranty shall be construed wherever reasonable as consistent with each other; but subject to the provisions of this Article on parol or extrinsic evidence (Section 2-202) negation or limitation is inoperative to the extent that such construction is unreasonable…”

Tóm lại, khi một người bình thường đọc kiểu ngôn ngữ này sẽ “chau mày” vì khó hiểu. Điều này là đúng sự thật vì đến cả người hành nghề luật, nghiên cứu luật và học trường luật tại Mỹ cùng còn thấy khó hiểu. Đây chỉ là một ví dụ trong muôn ngàn ví dụ có thể kể ra khi đọc luật Mỹ, chưa kể nếu chúng ta có tham vọng dịch Bộ Luật Thương Mại Thống Nhất này ra tiếng Việt để phục vụ mục đích tham khảo cho các nhà làm luật và nghiên cứu pháp luật ở nước ta. Khi không hiểu, thì chắc chắn dịch sẽ sai, và như thế thực sự là tai hại.

Sở dĩ thứ ngôn ngữ này khó hiểu đến vậy vì ẩn trong mỗi đạo luật là những triết lý, những học thuyết pháp luật đã hình thành từ lâu đời mà muốn hiểu rõ thì phải học, phải đọc lại các học thuyết đó, đọc lại các án lệ (precedents) xem quan điểm của các thẩm phán như thế nào và kết luận ra sao. Ngay trong đoạn trên, một sinh viên luật trung bình phải biết tra cứu xem thế nào là warranties, có các dạng warranties nào và ý nghĩa của chúng là gì. Ví dụ, warranties of merchantability hay warranties of fitness, và chúng là “implied” hay “express”. Mỗi dạng lại có một hậu quả pháp lý khác nhau. Hay chúng ta nhìn thay có học thuyết “parol evidence rule” trong đoạn trích trên. Đây là cả một học thuyết về hợp đồng, mà người không học không hiểu được. Đấy là còn chưa kể đến cấu trúc ngữ pháp của câu, đoạn nối tiếp nhau, đoạn này dẫn chiếu tới đoạn kia và ngược lại, bổ sung cho nhau hay loại trừ lẫn nhau. Nói tóm lại, nếu chỉ đọc trên bề mặt thì không sao hiểu được, mà phải đọc từ án lệ điển hình xem cách tiếp cận và diễn giải của các thẩm phán có uy tín mới vỡ ra được.

3.2. Tiếng Anh của Thẩm Phán

Trong cuốn sách nổi tiếng về Legal Writing (Viết Tiếng Anh Pháp Lý), Giáo sư Bryan A. Garner đã phải thốt lên rằng “Mỗi sinh viên luật phải đọc và tiêu hóa cả đống văn bản rải rác khắp nơi. Bạn phải đọc qua các bản án cổ dài tới 50 trang chỉ để nói cái có thể được nói dứt khoát trong 5 trang….”

“And in the outset we may as well be frank enough to confess, and, indeed, in view of the seriousness of the consequences which upon fuller reflection we find would inevitably result to municipalities in the matter of street improvements from the conclusion reached and announced in the former opinion, we are pleased to declare that the arguments upon rehearing have convinced us that the decision upon the ultimate question involved here formerly rendered by this court, even if not faulty in its reasoning from the premises announced or wholly erroneous in conclusions as to some of the questions incidentally arising and necessarily legitimate subjects of discussion in the decision of the main proposition, is, at any rate, one which may, under the peculiar circumstances of this case, the more justly and at the same time, upon reasons of equal cogency, be superseded by a conclusion whose effect cannot be to disturb the integrity of the long and well-established system for the improvement of streets in the incorporated cities and towns of California not governed by freeholders’ charters.”

Tòa muốn nói gì ở đây sau một đoạn văn dài dòng và cách điệu? theo Garner, tòa muốn nói “we made a mistake last time”, có thế thôi.

3.3. Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng

Nguyên tắc tự do hợp đồng (freedom to contract) được thừa nhận rộng rãi ở các nền tài phán theo hệ thống luật chung và đây chính là khoảng trống lớn nhất để các bên thương lượng và đưa vào hợp đồng bất kỳ điều khoản nào (miễn là không trái với pháp luật và đạo đức xã hội). Chính vì thế, đây là “đất diễn” của giới luật sư và đây cũng chính là chỗ để thể hiện “trò trơi pháp luật” bằng ngôn ngữ. Thật không ngoa khi nói luật sư tạo ra thứ pháp luật thứ ba, là Lawyer-Made Law (bên cạnh Hiến Pháp, Luật và Luật do Thẩm Phán tạo ra (Judge-made law dưới dạng các án lệ). Chính vì các bên đều mong muốn đưa ý đồ của mình vào hợp đồng, nên cần có sự thỏa hiệp, và do đó nhiều khi chúng ta thấy một điều khoản dài dòng, đọc không biết đâu là đầu, đâu là cuối, đâu là chủ ngữ và đâu là vị ngữ, và mệnh đề phụ này bổ nghĩa cho mệnh đề chính nào. Cấu trúc giao dịch càng phức tạp thì hợp đồng thể hiện cấu trúc đó càng phức tạp.

Để hiểu được hợp đồng, người học phải có một nền tảng về các nguyên tắc cơ bản. Không có gì xa lạ khi trong các hợp đồng chúng ta thường thấy xuất hiện các từ ngữ như terms and conditions, covenants, conditions precedent, representations and warranties, waivers, successor, survival, deed of accession etc. Thực sự đây là những thứ ngôn ngữ của nền tài phán Thông Luật đang xâm chiếm và được chấp nhận tại nhiều nền tài phán khác nhau, trong đó có Việt Nam. Tất cả những loại điều khoản này đã có khuôn mẫu được nhiều thế hệ luật sư Anh-Mỹ soạn thảo, và các luật sư sau này chỉ cần thêm bớt, chỉnh sửa theo ý đồ đàm phán thực tế của từng giao dịch. Đây là lúc mà luật sư cần thể hiện một thứ ngôn ngữ sao cho chuyên nghiệp để không quá chênh lệch với thứ ngôn ngữ “boilerplate” trong từng điều khoản. Ngoài ra, chúng ta còn thấy nhiều dạng điều khoản như disclaimers of liability, implied and express warranties of merchantability and fitness; rồi nhiều học thuyết ẩn sau hợp đồng như paro evidence rule, promissory estoppels, statute of frauds, statute of limitations; cũng như các biện pháp khắc phục như compensatory and punitive damages, restitution (unjust enrichment) vân vân.

Tại Việt Nam, trong khoảng 10 năm trở lại đây, các luật sư (đặc biệt là những luật sư làm việc trong môi trường hành nghề có yếu tố nước ngoài) đã dần quen với những dạng, kiểu ngôn ngữ như vậy. Những hợp đồng có yếu tố nước ngoài như Share Purchase or Subscription Agreement, Bond, Securities Lending, Guarantee, Purchasing Order, Loan Agreement, là những chỗ chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều những phong cách ngôn ngữ du nhập từ hệ thống luật chung. Điều đáng nói là (có thể) những kiểu hợp đồng và ngôn ngữ này lại không được giảng dậy một cách chính quy tại bất kỳ một trường đại học luật nào ở Việt Nam. Xin thứ lỗi nếu ý kiến của tôi là chưa đúng.

Rất nhiều các bối cảnh pháp lý khác nhau sẽ có những yêu cầu riêng về hình thức văn bản pháp lý đặc thù cần phải sử dụng cho việc giao tiếp bằng văn bản. Trong nhiều trường hợp, văn bản là phương tiện để một luật sư có thể biểu đạt những phân tích của họ về một vấn đề và tìm cách thuyết phục người khác thay mặt cho khách hàng của họ. Bất kỳ một văn bản pháp lý nào được soạn ra đều phải đáp ứng yêu cầu chung là phải súc tích, rõ ràng và phù hợp với các tiêu chuẩn khách quan đã được hình thành đối với nghề luật.

Thông thường sẽ có hai loại soạn thảo pháp lý là phân tích pháp lý (legal analysis) và phác thảo pháp lý (legal drafting). Loại 1 gồm 2 kiểu. Kiểu thứ nhất là việc soạn thảo nhằm phân tích hài hòa về một vấn đề hay sự việc pháp lý. Ví dụ của kiểu 1 này là biên bản ghi nhớ giữa các văn phòng luật sư và thư tư vấn, trao đổi gửi cho khách hàng. Để có thể đạt hiệu quả cao trong kiểu soạn thảo này, người luật sư cần phải nhạy cảm đối với nhu cầu, mức độ quan tâm và lai lịch của các bên mà họ đại diện. Một biên bản ghi nhớ cho một đối tác trong cùng một công ty luật mà ghi chi tiết định nghĩa các khái niệm pháp lý cơ bản sẽ trở nên vô nghĩa và không hiệu quả. Ngược lại, đối với các biên bản ghi nhớ với khách hàng không có kiến thức về luật pháp mà không ghi rõ các định nghĩa trên thì có thể sẽ gây nhầm lẫn và phức tạp hóa một tình huống đơn giản.

Bên cạnh loại 1, còn có loại 2 là hình thức soạn thảo các văn bản pháp lý như hợp đồng hay di chúc. Đối với những thể loại văn bản này, thường sẽ có những mẫu văn bản cụ thể có sẵn để áp dụng, tuy nhiên việc soạn ra các văn bản đặc biệt áp dụng mẫu cho thực tế của sự việc cũng thường được yêu cầu. Soạn thảo pháp lý không tốt có thể sẽ dẫn đến những vụ tranh chấp không cần thiết và ảnh hưởng đến lợi ích của khách hàng[1].

Khác với các khóa đào tạo tiếng Anh pháp lý, khóa đào tạo kỹ năng soạn thảo pháp lý là khóa học không chỉ dành cho sinh viên quốc tế mà còn là khóa học cần thiết dành cho chính các sinh viên luật người bản địa đang theo học tại trường.

III. Hoạt động giảng dạy kỹ năng soạn thảo pháp lý tại Mỹ

Theo mô hình đào luật J.D (Jurist Doctor), các kỹ năng nghề nghiệp được chú trọng đào tạo trong chương trình đào tạo 3 năm. Kỹ năng soạn thảo pháp lý là kỹ năng thách thức nhất đối với sinh viên luật và thường là môn học bắt buộc đối với sinh viên.

1. Trường luật – Đại học Harvard

2. Đại học Luật Washington[5]

Kỹ năng soạn thảo pháp lý được đưa vào giảng dạy trong Chương trình Phân tích, Tra cứu, và Viết pháp lý (LARW) cho sinh viên năm nhất và được thiết kế để dạy cho sinh viên nguyên lý nền tảng về hệ thống pháp luật Mỹ và giới thiệu các kỹ năng cần thiết để phục vụ tư vấn hiệu quả và bào chữa trong hệ thống đó. Mỗi phần LARW giúp học sinh đạt được các mục tiêu và mục đích đó. Trong kỳ học thu đông, học sinh được chia thành các nhóm nhỏ khoảng 25 học sinh. Mỗi giảng viên sẽ phát triển một loạt các vấn đề và hội thảo thực hành được thiết kế để dạy các kỹ năng phân tích, nghiên cứu, và viết pháp lý cho sinh viên. Ngoài việc phải thường xuyên liên hệ chặt chẽ với các giảng viên, sinh viên còn phải nhờ cậy các sinh viên năm thứ hai và thứ ba để học hỏi kinh nghiệm và thay đổi mình từ nghiệp dư thành chuyên gia trong ngành văn bản quy phạm pháp luật. Tất cả học sinh tham gia vào một loạt các dự án nghiên cứu và viết trong hai quý đầu năm, bao gồm cả việc soạn thảo các hình thức khác nhau của biên bản ghi nhớ nghiên cứu. Học sinh cũng có thể có cơ hội để dự thảo biên bản ghi nhớ tư pháp băng ghế dự bị hoặc ý kiến, thư từ khách hàng, điều khoản hợp đồng, hoặc biện hộ pháp lý.

Ngoài ra, tất cả các sinh viên phải tiếp tục theo học các khóa học về tra cứu và soạn thảo pháp lý trong những năm tiếp theo đại học để có thể hoàn thành các yêu cầu về viết pháp lý nâng cao để có thể được xét công nhận lấy bằng J.D. Các khóa học nâng cao về viết pháp lý cho sinh viên năm hai và năm ba sẽ tập trung vào bào chữa bằng văn bản, viết bài phân tích và nghiên cứu. Thêm vào đó, trường còn tổ chức một Trung tâm về soạn thảo pháp lý trong trường với sự tham gia của chính các sinh viên năm hai và ba trong trường dưới sự dẫn dắt của Khoa Viết & Nghiên cứu Phân tích Pháp lý. Có thể nói, Trườn luật – Đại học Washington cung cấp cho sinh viên của mình rất nhiều sự lựa chọn và mở ra các cơ hội cho sinh viên được học, trau dồi và thực hành kỹ năng soạn thảo pháp lý khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường.

3. Đại học luật Seattle (Mỹ)[6]

Chương trình soạn thảo pháp lý tại Đại học luật Seattle được đánh giá là chương trình soạn thảo pháp lý tốt nhất tại Mỹ theo xếp hạng của trang U.S. News. Chương trình này là một bộ môn bắt buộc cho sinh viên từ năm nhất đại học bao gồm các môn sau:

– Soạn thảo pháp lý 1: Tra cứu, Phân tích, Soạn thảo (4 tín chỉ) (Legal Writing I: Research Analysis, Writing)

– Soạn thảo pháp lý 2: Bào chữa bằng lời và bằng văn bản (3 tín chỉ) (Legal Writing II: Written & Oral Advocacy)

– Chuyên đề Nghiên cứu Viết Nâng cao (2 tín chỉ) (Advanced Writing Seminar)

– Thực hành Soạn thảo (1 tín chỉ)

– Nghiên cứu Pháp lý Nâng cao (2 tín chỉ)

Khoa Soạn thảo pháp lý tại Đại học Seattle sử dụng cả phương pháp trong và ngoài lớp học nhằm nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên. Mỗi lớp học sẽ được trang bị hệ thống thiết bị tân tiến nhất cho phép giáo viên sử dụng máy tính và tất cả các loại văn bản giấy tờ bản cứng để trình chiếu cho sinh viên. Ngoài ra, các phòng học còn được lắp đặt hệ thống mạng internet không dây tốc độ cao. Sinh viên có thể gửi bài làm nháp của mình ngay và lập cho giáo viên thông qua bằng email để từ đó giáo viên có thể sử dụng chính bài của sinh viên và trình chiếu trên hệ thống máy chiếu, và hệ thống này cũng giúp sinh viên và giáo viên trao đổi được thuận tiện và nhanh chóng đối với các tiết học dạy từ xa.

IV – Hoạt động giảng dạy kỹ năng soạn thảo pháp lý tại Anh

Tương tự như Mỹ và hầu hết các quốc gia thuộc Khối Thịnh Vượng Chung, Anh cũng sử dụng hệ thống Thông luật. Tại Anh, kỹ năng soạn thảo pháp lý đa phần không được các trường đưa vào chương trình khung như là một môn học bắt buộc đối với các sinh viên đại học, mà các sinh viên chỉ được học kỹ năng viết pháp lý trong quá trình học các khóa học ngắn hạn khác như Tiếng Anh pháp lý hay môn Luật EU và Viết báo cáo (European Union Law and Report Writing) ở năm đầu đại học. Tuy nhiên, việc giảng dạy kỹ năng soạn thảo pháp lý lại được quan tâm và chú trọng nhiều hơn cho các đối tượng học Thạc sĩ Luật (LLM) hay chương trình Thực hành nghề luật LPC (Legal Practice Course).

1. Khoa luật – Đại học Cambridge[7]

Khoa luật Đại học Cambridge là một trong những trường luật hàng đầu trên thế giới, đứng thứ 2 trên thế giới theo xếp hạng của trang Top Universities. Đại học Cambridge còn là nơi cung cấp chương trình đào tạo và thi lấy chứng chỉ tiếng Anh pháp lý ILEC (International Legal English Certificate) cho luật sư và những người học nghề luật trên toàn thế giới. Tuy nhiên, các khóa học về soạn thảo pháp lý lại không phải là một trong những trọng tâm được giảng dạy riêng thành một khấu phần trong chương trình giảng dạy của nhà trường. Trong chương trình giảng dạy cho sinh viên đại học, kỹ năng soạn thảo pháp lý chỉ được giảng dạy kết hợp trong khấu phần về Phương pháp và Các Kỹ năng pháp lý (Freshfields Legal Skills and Methodology) của sinh viên năm thứ nhất. Ngoài ra, kỹ năng soạn thảo pháp lý cũng chưa được cụ thể thành một khóa học riêng trong các chương trình học khác tại trường.

2. Trường luật – Đại học Westminster[8]

Trường luật – Đại học Westminster là một ngôi trường có danh tiếng trong việc đào tạo, bồi dưỡng nghề cho các luật sư tư vấn và chương trình đào tạo Thạc sĩ Luật với việc cung cấp cho người học các kỹ năng và kiến thức cần thiết để trở thành một luật sư thành công trong xã hội với sự quốc tế hóa ngày càng sâu rộng như hiện nay. Như phần lớn các trường luật khác tại Anh Quốc, Đại học Westminster cung cấp chương trình đào tạo kỹ năng soạn thảo pháp lý trong chuỗi các kỹ năng mà sinh viên phải học trong chương trình Thực hành nghề luật LPC và Thạc sĩ luật LLM. Kỹ năng viết và soạn thảo pháp lý sẽ được giảng dạy cùng với nhóm các kỹ năng khác như Nghiên cứu pháp lý thực hành, Phỏng vấn và Tư vấn, và kỹ năng bào chữa.

Tác giả: Nguyễn Bá Trường Giang Tác giả từng học kinh tế tại Cornell và luật tại Đại học Boston (Mỹ), anh là cựu luật sư cao cấp của Baker & McKenzie.

[1] https://www.law.cornell.edu/wex/legal_writing

[2] http://hls.harvard.edu/dept/lrw/

[3] http://hls.harvard.edu/academics/curriculum/catalog/default.aspx?o=68707

[4] http://hls.harvard.edu/academics/curriculum/catalog/default.aspx?o=67658

[5] https://www.law.washington.edu/Writing/

[6] http://www.law.seattleu.edu/academics/foundational/legal-writing-program/program-overview

[7] http://www.undergraduate.study.cam.ac.uk/courses/law

[8] http://www.westminster.ac.uk/courses/subjects/law/postgraduate-courses/full-time/d09fplpc-legal-practice-llm