Soạn Văn 9 Tập 1 Bài Sử Dụng Một Số Biện Pháp Nghệ Thuật Trong Văn Bản Thuyết Minh / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Soạn Văn 9 Bài: Sử Dụng Một Số Biện Pháp Nghệ Thuật Trong Văn Bản Thuyết Minh

Sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

Đặc điểm, tính chất của văn bản thuyết minh;

Mục đích của văn bản thuyết minh (chú ý phân biệt với mục đích của các phương thức biểu đạt khác như tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận);

Những phương pháp thuyết minh thường dùng.

Gợi ý:

Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản thường gặp trong mọi lĩnh vực đời sống, có chức năng cung cấp tri thức về đặc điểm, tính chất, nguyên nhân,… của các hiện tượng, sự vật trong tự nhiên, xã hội bằng cách trình bày, giới thiệu, giải thích.

Văn bản thuyết minh không giống với các văn bản thuộc loại tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận vì kiểu văn bản này không nhằm kể chuyện, tái hiện, biểu lộ tình cảm hay nghị luận mà nhằm cung cấp tri thức về các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội một cách khách quan, chân thực, có ích cho con người.

Để đạt được hiệu quả giao tiếp gắn với mục đích đặc trưng, ngôn ngữ của văn bản thuyết minh phải đảm bảo tính khoa học, chính xác, rõ ràng, chặt chẽ và hấp dẫn.

b) Đọc văn bản thuyết minh sau và trả lời câu hỏi: HẠ LONG – ĐÁ VÀ NƯỚC Sự kì lạ của Hạ Long là vô tận. Chính là do tài thông minh của Tạo Hoá biết dùng đúng chất liệu hay nhất cho cuộc sáng tạo của mình: Nước. Chính Nước làm cho đá sống dậy, làm cho Đá vốn bất động và vô tri bỗng trở nên linh hoạt, có thể động đến vô tận, và có tri giác, có tâm hồn. Nước tạo nên sự di chuyển. Và di chuyển theo mọi cách. Có thể mặc cho con thuyền của ta mỏng như lá tre tự nó bập bềnh lên xuống theo cho triều; có thể thả trôi theo chiều gió, theo các dòng chảy quanh co phức tạp giữa các đảo; cũng có thể thong thả khua khẽ mái chèo mà lướt đi, trượt nhẹ và êm trên sóng; có thể nhanh tay hơn một chút để tạo một cảm giác xê dịch thanh thoát; có thể bơi nhanh hơn bẳng thuyền buồm, nhanh hơn nữa bằng thuyền máy, cũng như bay trên các ngọn sóng lượn vun vút giữa các đảo trên canô cao tốc; có thể thả sức phóng nhanh hàng giờ, hàng buổi, hàng ngày khắp các trân đồ bát quái đá trộn với nước này. Mà cũng có thể, một người bộ hành tuỳ hứng, lúc đi lúc dừng, lúc nhanh lúc chậm, lúc tiến lúc lùi, thẳng tắp hay quanh co, lao ra những quãng trống hay len lỏi qua các khe hẹp giữa các đảo đá…. Và cái thập loại chúng sinh chen chúc khặp vịnh Hạ Long kia, già đi, tre lại, trang nghiêm hơn hay dỗng nhiên nhí nhảnh tinh nghịch hơn, buồn hơn hay vui hơn,… hoá thân không ngừng. Tuỳ theo góc độ và tốc độ di chuyển của ta trên mặt nước quanh chúng, hoặc độ xa gần và hướng ta tiến đến chúng hay rời xa chúng. Còn tuỳ theo cả hướng ánh sáng rọi vào chúng, hoặc đột nhiên khiến cho mái đầu một nhân vật đá trẻ trung ta chừng đã quen lắm bỗng bạc xoá lên, rõ ràng trước mắt ta là một bậc tiên ông không còn có tuổi. Ánh sáng hắt lên từ mặt nước lung linh chảy khiến những con người bằng đá vây quanh ta trên mặt vịnh càng lung linh, xao động, như đang đi lại, đang tụ lại cùng nhau, hay đang toả ra. Hoặc cũng rất có thể, khi đêm đã xuống, dưới ánh sao chi chít trên bầu trời và chi chít xao động dưới cả mặt nước bí ẩn nữa, sẽ có cuộc họp của cả thế giới người bằng đã sống động đó, biết đâu…! […] Để rồi, khi chân trời đằng đông vừa ửng tím nhạt, rồi từ từ chuyển sang hồng… thì tất cả bọn người đá ấy lại hối hả trở về vị trí của họ. Mà vẫn còn nóng hổi hơi thở cuộc sống đêm chưa muốn dứt. Hạ Long vậy đó, cho ta một bài học, sơ đẳng mà cao sâu: Trên thế gian này, chẳng có gì là vô tri cả. Cho đến cả đá. Ở đây Tạo Hoá đã chọn đá làm một trong hai nguyên liệu chủ yếu và duy nhất của Người để bày nên bản phác thảo của Sự Sống. Chính là Người có ý tứ sâu xa đấy: Người chọn lấy cái vẫn được coi là trơ lì, vô tri nhất để thể hiện cái hồn ríu rít của sự sống. Thiên nhiên bao giờ cũng thông minh đến bất ngờ; nó tạo nên thế giới bằng những nghịch lí đến lạ lùng…

(Nguyên Ngọc, Hạ Long – Đá và Nước, Ban quản lí vịnh Hạ Long, 2002)

Đối tượng thuyết minh của văn bản trên là gì?

Mục đích của văn bản thuyết minh là cung cấp tri thức khách quan về đối tượng, văn bản trên có thể hiện điều này không?

Gợi ý:

Chủ đề của văn bản: sự kì lạ vô tận của vịnh Hạ Long.

Văn bản cung cấp cho người đọc những hiểu biết về vẻ đẹp của một di sản văn hoá thế giới. Để khám phá ra vẻ kì lạ vô tận của Hạ Long, người ta phải có được sự tinh tế, lịch lãm trong cảm nhận, thưởng thức. Bằng sự tinh tế, lịch lãm ấy, Nguyên Ngọc đã đem đến cho chúng ta những tri thức về sự kì lạ của Hạ Long.

c) Nhận xét về phương pháp thuyết minh của văn bản Hạ Long – đá và nước. Ngôn ngữ, cách diễn đạt của văn bản này có gì khác so với các văn bản thuyết minh em đã được đọc?

Gợi ý: Tuỳ từng đối tượng mà người ta lựa chọn cách thuyết minh cho phù hợp, nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp cao nhất. Văn bản Hạ Long – đá và nước thuyết minh về sự kì lạ vô tận của vịnh Hạ Long. Để thuyết minh vẻ đẹp sinh động, kì thú, biến ảo của Hạ Long, người viết không thể chỉ sử dụng các biện pháp thuyết minh thông dụng. Cái “vô tận, có tri giác, có tâm hồn” của Hạ Long không dễ thấy được chỉ qua cách đo đếm, liệt kê, định nghĩa, giải thích, nêu số liệu,… mà phải kết hợp với trí tưởng tượng, liên tưởng.

Tìm các hình ảnh ẩn dụ, so sánh, nhân hoá, liên tưởng trong bài văn.

II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG

– Con là ruồi xanh, thuộc họ côn trùng hai cánh mắt lưới. Họ hàng con rất đông, gồm ruồi trâu, ruồi mắt đỏ, ruồi nhà… Nơi ở là nhà xí, chuồng lợn, chuồng trâu, nhà ăn, quán vỉa hè…, bất kì chỗ nào có thức ăn mà không đậy điệm con đều lấy làm nơi sinh sống. Ngọc Hoàng yêu cầu Thiên Tào tra sổ xác nhận rồi cho đọc cáo trạng: Bị cáo ruồi bị cáo buộc hai tội. Một là sống nơi dơ bẩn, mang nhiều vi trùng gieo rắc bệnh tật. Các nhà khoa học cho biết bề ngoài con ruồi mang 6 triệu vi khuẩn, trong ruột chứa đến 28 triệu vi khuẩn. Chúng gieo rắc bệnh tả, kiết lị, thương hàn, viêm gan B. Tội thứ hai là sinh đẻ nhanh quá mức, vô kế hoạch. Mỗi đôi ruồi, trong một mùa từ tháng 4 đến tháng 8, nếu đều mẹ tròn con vuông sẽ đẻ ra 19 triệu tỉ con ruồi, ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái. Một luật sư biện hộ nói: Ruồi tuy tội nhiều nhưng nó cũng có nét đặc biệt ví như mắt lưới, một mắt chứa hàng triệu mắt nhỏ; chân ruồi có thể tiết ra chất dính làm cho nó đậu được trên mặt kính mà không trượt chân. Nếu con người biết bắt chước mắt ruồi mà làm máy chụp ảnh, mô phỏng chân ruồi mà làm giày leo núi thì cũng hay. Đó đều là tình tiết giảm nhẹ tội cho ruồi. Ngọc Hoàng cân nhắc, tuyên phạt ruồi khổ sai chung thân. Truyền cho chim chóc, cóc, nhái, thằn lằn, kiến, nhện ra sức giết bớt ruồi, không cho đẻ nhiều. Ngọc Hoàng lại nói với Người: “Ruồi có tội mà con người cũng có lỗi. Con người phải thường xuyên làm vệ sinh, đậy điệm thức ăn, nhà xí, chuồng trại phải xây dựng theo lối mới thì mới ngăn chặn ruồi sinh sôi và hạn chế tác hại của ruồi được. Lời tuyên án của Ngọc Hoàng làm cho các loài vật phấn khởi, còn con người thì trầm ngâm nghĩ ngợi.

(Trích báo tường của HS)

Gợi ý: Văn bản trên có phải là văn bản thuyết minh không? Nó cung cấp cho chúng ta những kiến thức gì?

2. Người viết đã sử dụng những phương pháp thuyết minh nào trong bài Ngọc Hoàng xử tội ruồi xanh?

Gợi ý: Văn bản thuyết minh trên đã sử dụng các biện pháp định nghĩa, phân loại, phân tích, liệt kê, nêu số liệu,… như thế nào?

3. Trong văn bản trên, người viết có sử dụng các biện pháp nghệ thuật không? Đó là những biện pháp gì? Hãy phân tích tác dụng thuyết minh của các biện pháp ấy.

Gợi ý:

Mượn hình thức kể chuyện để thuyết minh; Sử dụng triệt để biện pháp nhân hoá;

Việc mượn hình thức kể chuyện để thuyết minh có tác dụng gì? Người viết đã sử dụng biện pháp nhân hoá để làm gì? Hình thức kể chuyện và biện pháp nhân hoá tạo ra sức hấp dẫn cho văn bản thuyết minh như thế nào?

4. Đọc lại văn bản Phong cách Hồ Chí Minh và nhận xét về việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong thuyết minh.

Gợi ý: Tìm các yếu tố miêu tả, so sánh,… trong văn bản này và cho biết chúng có tác dụng như thế nào trong việc khắc hoạ phong cách kết hợp hài hoà giữa truyền thống văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại, giữa vĩ đại và giản dị ở Hồ Chí Minh?

Bài viết khác

Soạn Bài Sử Dụng Một Số Biện Pháp Nghệ Thuật Trong Văn Bản Thuyết Minh Sbt Ngữ Văn 9 Tập 1

NGỌC HOÀNG XỬ TỘI RUỒI XANH

Do loài người phát đơn kiện, Ngọc Hoàng Thượng đế mở phiên toà công khai xử tội loài ruồi. Ngọc Hoàng truyền cho vệ sĩ Nhện điệu Ruồi xanh lên điện, đập bàn thị uy:

– Ruồi kia, loài người kiện mi làm hại chúng sinh, mau mau khai ra tên họ, chủng loại và nơi ở !

Ruồi sợ hãi quỳ thưa trước vành móng ngựa :

– Con là Ruồi xanh, thuộc họ côn trùng hai cánh mắt lưới. Họ hàng con rất đông, gồm Ruồi trâu, Ruồi mắt đỏ, Ruồi nhà… Nơi ở là nhà xí, chuồng lợn, chuồng trâu, nhà ăn, quán vỉa hè…, bất kì chỗ nào có thức ăn mà không đậy điệm con đều lấy làm nơi sinh sống.

Ngọc Hoàng yêu cầu Thiên Tào tra sổ xác nhận rồi cho đọc cáo trạng : “Bị cáo Ruồi bị cáo buộc hai tội. Một là sống nơi dơ bẩn, mang nhiều vi trùng gieo rắc bệnh tật. Các nhà khoa học cho biết bề ngoài con ruồi mang 6 triệu vi khuẩn, trong ruột chứa đến 28 triệu vi khuẩn. Chúng gieo rắc bệnh tả, kiết lị, thương hàn, viêm gan B. Tội thứ hai là sinh đẻ nhanh quá mức, vô kế hoạch. Mỗi đôi ruồi, trong một mùa từ tháng 4 đến tháng 8, nếu đều mẹ tròn con vuông sẽ đẻ ra 19 triệu tỉ con ruồi, ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái”.

Một luật sư biện hộ nói: “Ruồi tuy tội nhiều nhưng nó cũng có nét đặc biệt ví như mắt lưới, một mắt chứa hàng triệu mắt nhỏ; chân ruồi có thể tiết ra chất dính làm cho nó đậu được trên mặt kính mà không trượt chân. Nếu con người biết bắt chước mắt ruồi mà làm máy chụp ảnh, mô phỏng chân ruồi mà làm giày leo núi thì cũng hay. Đó đều là tình tiết giảm nhẹ tội cho ruồi”.

Ngọc Hoàng cân nhắc, tuyên phạt Ruồi khổ sai chung thân ; truyền cho chim chóc, cóc, nhái, thằn lằn, kiến, nhện ra sức giết bớt ruồi, không cho đẻ nhiều. Ngọc Hoàng lại nói với Người: “Ruồi có tội mà con người cũng có lỗi. Con người phải thường xuyên làm vệ sinh, đậy điệm thức ăn, nhà xí, chuồng trại phải xây dựng theo lối mới thì mới ngăn chặn ruồi sinh sôi và hạn chế tác hại của ruồi được”.

Lời tuyên án của Ngọc Hoàng làm cho các loài vật phấn khởi, còn con người thì trầm ngâm nghĩ ngợi.

(Tường Lan)

Câu hỏi :

a) Văn bản có tính chất thuyết minh không ? Tính chất ấy thể hiện ở những điểm nào ? Những phương pháp thuyết minh nào đã được sử dụng ?

b) Văn bản thuyết minh này có nét gì đặc biệt ? Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào ?

c) Các biện pháp nghệ thuật ở đây có tác dụng gây hứng thú và làm nổi bật nội dung cần thuyết minh hay không ?

Trả lời:

Bài văn thuyết minh về loài ruồi, sử dụng các phương pháp định nghĩa, phân loại, thống kê,… Bài văn còn sử dụng biện pháp hư cấu, nhân hoá, vẽ ra một cuộc xử án, có bên nguyên, bên bị, có người bào chữa, lí lẽ có lôgíc, gây hứng thú cho người đọc.

2. Bài tập 2, trang 15, SGK.

Đọc đoạn văn sau và nêu nhận xét về biện pháp nghệ thuật được sử dụng để thuyết minh.

Bà tôi thường kể cho tôi nghe rằng chim cú kêu là có ma tới. Tôi hỏi vì sao thì bà giải thích : “Thế cháu không nghe tiếng cú kêu thường vọng từ bãi tha ma đến hay sao ?”. Sau này học môn Sinh học tôi mđi biết là không phải như vậy. Chim cú là loài chim ăn thịt, thường ăn thịt lũ chuột đồng, kẻ phá hoại mùa màng. Chim cú là giống vật có lợi, là bạn của nhà nông. Sở dĩ chim cú thường lui tới bãi tha ma là vì ở đó có lũ chuột đồng đào hang. Bây giờ mỗi lần nghe tiếng chim cú, tôi chẳng những không sợ mà còn vui vì biết rằng người bạn của nhà nông đang hoạt động.

Trả lời:

Đoạn văn thuyết minh chim cú gắn với hồi ức tuổi thơ, với nhận thức mê tín thuở bé. Tri thức khoa học đã đẩy lùi sự ngộ nhận ngây thơ.

3. Cho tư liệu sau, viết một bài thuyết minh về nghề nuôi tằm, có sử dụng một số biện pháp nghệ thuật:

Để nuôi tằm sơ sinh, người ta chọn lá dâu non, xắt mỏng. Dao xắt là một loại chuyên dùng gọi là dao dâu, có lưỡi dài khoảng 50 cm, to bản, mũi bằng và sắc bén. Cán dao cũng dài tương đương với lưỡi. Tằm trưởng thành ăn rất bạo. Chỉ trong chốc lát, chúng nuốt chửng một lượng lá dâu tương đương với trọng lượng của cơ thể chúng.

Người ta cho tằm ăn bằng cách đổ phủ lá dâu, có khi để nguyên lá với cành vào nong có tằm. Vài giờ sau, tằm ăn lá hết sạch. Tằm ăn từ mép lá ăn vào, tạo thành hình vòng cung.

Trồng dâu và nuôi tằm, người ta luôn giữ vệ sinh môi trường. Điều tối kị hàng đầu là mùi thuốc lá. Gần ruộng dâu, không được trồng thuốc lá, dù là trồng ít. Vì thuốc lá làm cho cây dâu chết hàng loạt. Một điều tối kị khác là mùi súc vật chết. Xác súc vật chết không được bỏ vào ruộng dâu. Tằm ăn lá dâu có bón xác súc vật chết sau đó sẽ không ăn lá dâu khác nữa. Vì vậy khi phát hiện có xác súc vật chết trôi sông gần bãi dâu, người ta phải vớt đem đốt và chôn ở cách xa ruộng dâu, bảo vệ môi trường tinh khiết cho tằm.

Tằm ăn khoảng 15 kg lá dâu sẽ cho khoảng 1 kg kén tươi. Mỗi ổ kén cho một sợi tơ đơn dài chừng 800 m trở lên. Ươm khéo người ta đạt được kết quả : cứ 7 kg kén, có thể thu được 1 kg tơ nõn, tức là 100 tới 130 kg tơ trên 1 ha trồng dâu. Nuôi tằm hiệu quả hơn trồng lúa, cho nên có câu : “Làm ruộng ba năm, không bằng nuôi tằm một lứa”.

(Theo Làng nghề truyền thống Việt Nam)

Trả lời:

Có thể kể lại bằng cách để con tằm tự kể chuyện mình, hoặc hư cấu câu chuyện con tằm bỏ ăn, hỏi nguyên do thì tằm trả lời rằng lá dâu thiêu tính khiết,… Như thế câu chuyện sẽ thú vị.

4. Đọc bài văn sau và chỉ ra các biện pháp nghệ thuật được sử dụng.

Lúc bé dưới nước, áo đen

Lớn khôn áo lục nhẩy lên trên bờ.

Biết bơi, biết hát, biết bò

Có đầu khôngcổ, mắt không lông mi, lông mày.

Đó là một câu đố nêu được một số nét tiêu biểu của con ếch : Khi mới nở là con nòng nọc ếch ở dưới nước, có màu đen. Khi lớn lên, ếch mới có màu xanh lục. Ếch không có cổ, mắt không có lông mi, lông mày.

Ếch là động vật nhỏ sống lưỡng thê, vừa ở nước vừa ở trên cạn. Lưng ếch có màu xanh vàng hay màu nâu xám, điểm một số chấm đen. Ếch có tài giấu mình. Trong đám cỏ xanh hay trong hồ nước nếu không chú ý thì không nhận ra ếch ở đâu. Khi có động, chỉ cần hai ba bước là ếch nhảy tùm xuống nước, hoặc nhanh nhẹn nhảy khỏi mặt nước lao vào đám cỏ rậm.

Cơ thể ếch có cấu tạo đặc biệt. Khi ở dưới nước, nếu cá thở bằng mang thì ếch thở bằng phổi và bằng da, tim ếch có thêm một ngăn. Trên cạn, ếch thở bằng phổi, nhưng da ếch có chất nhầy làm cho da ướt, dù ở nơi khô ráo ếch vẫn thích nghi được.

Chân sau của ếch là một công cụ để bơi. Bàn chân có màng như mái chèo bơi rất đẹp. Chả thế mà con người có kiểu bơi gọi là “bơi ếch”. Lưỡi ếch mới thật đặc biệt. Lưỡi ếch dài hơn lưỡi người, cuống lưỡi gắn với cơ ở răng trước. Đầu lưỡi lại chẻ làm hai, như cái móc cuốn vào trong, mặt lưỡi có chất dính. Côn trùng hễ bị ếch “liếm” trúng là dính ngay vào lưỡi, không chạy thoát được. Miệng ếch lại có một hàm răng nhỏ mà dày, khi côn trùng bị ngậm trong miệng ếch thì hết đường thoát.

Ếch là giống vật ăn các côn trùng có hại, mỗi ngày mỗi con ếch có thể bắt ăn hơn một trăm con côn trùng. Ếch là vệ sĩ của đồng ruộng. Có ếch là đảm bảo đồng ruộng yên lành.

Trả lời:

Các biện pháp nghệ thuật: sử dụng câu đố, yếu tố miêu tả. Các chi tiết về các bộ phận cơ thể con ếch như hai chân sau, da ếch, lưỡi ếch, hàm ếch,… đều rất thú vị, mới lạ.

5. Viết về cái mũ, sao cho thú vị, hấp dẫn. Trả lời:

– Trước hết, hãy nêu câu hỏi tu từ:

“Con người, từ trẻ đến già, từ bé đến lớn, ai mà không dùng mũ, đội mũ ? Vậy mũ có gì đáng chú ý nữa ? Có đây.”

– Tiếp theo, hãy cho biết mũ có công dụng đội đầu, che nắng, che mưa, giữ ấm, làm đẹp. Họ nhà mũ thật hết sức đa dạng về chức năng và kiểu dáng, chất liệu.

– Sau đó hãy kể và tả các loại mũ : về chất liệu có mũ lá, mũ nan, mũ len, mũ dạ, mũ vải, mũ cối, mũ sắt,… về kiểu dáng có mũ rộng vành, mũ ca lô, mũ lưỡi trai, mũ nồi,… về công dụng có mũ che nắng, mũ giữ ấm, mũ làm đẹp, mũ bảo hiểm,…

Kết hợp liệt kê và miêu tả… sẽ làm hiện ra một thế giới mũ phong phú, đa dạng…

chúng tôi

Soạn Bài Lớp 9: Luyện Tập Sử Dụng Một Số Biện Pháp Nghệ Thuật Trong Văn Bản Thuyết Minh

Soạn bài lớp 9: Luyện tập sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh

LUYỆN TẬP SỬ DỤNG MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT TRONG VĂN BẢN THUYẾT MINH

Soạn bài Luyện tập sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh

I. HƯỚNG DẪN CHUẨN BỊ Ở NHÀ 1. Viết dàn ý cho đề bài: Thuyết minh giới thiệu một trong các đồ dùng: cái quạt, cái bút, cái kéo, cái nón. 2. Viết đoạn văn Mở bài cho bài văn với đề bài trên.

Gợi ý: Dàn bài đáp ứng một số yêu cầu sau:

Nội dung thuyết minh:

Lập dàn ý theo bố cục ba phần;

Nêu được công dụng, đặc điểm cấu tạo, lịch sử của vật lựa chọn làm đối tượng thuyết minh.

Hình thức thuyết minh:

Sử dụng các biện pháp thuyết minh thông dụng;

Vận dụng các biện pháp nghệ thuật để tạo sức hấp dẫn cho văn bản thuyết minh (nhân hoá, so sánh, miêu tả, kể chuyện,…).

II. HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP TRÊN LỚP 1. Trình bày dàn ý trước tổ, trước lớp; đọc đoạn văn Mở bài. 2. Trao đổi, tham khảo các dàn ý của các bạn, lắng nghe nhận xét của thầy, cô giáo rồi tự điều chỉnh dàn ý của mình. 3. Đọc các bài văn sau và nhận xét về nội dung thuyết minh, cách thức thuyết minh: HỌ NHÀ KIM

Trong mọi dụng cụ của con người, có lẽ chúng tôi thuộc loại bé nhất. Tuy bé nhưng nhà ai cũng cần đến. Các bạn có biết chúng tôi là ai không? chúng tôi là cái kim khâu, bằng kim loại, bề ngang độ nửa li, bề dài khoảng hai ba phân, một đầu nhọn, một đầu tù, có lỗ chôn để sâu chỉ. Kim phải cứng mới dùng được. Khi đứt cúc, sứt chỉ thế nào cũng có tôi thì mới xong.

Tôi có từ lúc nào, không rõ lắm, nhưng chắc chắn là rất xưa. Từ khi con người biết trồng bông dệt vải may áo, chắc là phải cần đến kim khâu để may áo. Làm ra cây kim lúc đầu hẳn là rất khó khăn, cho nên bây giờ mới có câu tục ngữ “mài sắt nên kim”. Họ nhà kim chúng tôi rất đông. Ngoài kim khâu vải may áo, còn có loại kim bé hơn để thêu thùa, lại có kim khâu trong khi mổ, kim to khâu giày, kim đóng sách,… Công dụng của kim là để luồn chỉ mềm qua các vật dày, mỏng để kết chúng lại. Thiếu chúng tôi thì nhiều nghành sản xuất gặp khó khăn đấy! Nghe nói từ cuối thế kỷ XVIII, một người Anh đã sáng chế ra máy khâu, nhưng máy vẫn cứ phải có kim thì mới khâu được! Cùng họ Kim chúng tôi còn có cây kim châm cứu. Nó bé mà dài, làm bằng bạc, dùng để chích vào huyệt nhằm chữa bệnh. Những cây kim của ông Nguyễn Tài Thu đã nổi tiếng thế giới! Họ kim lại còn có kim tiêm. Vẫn thân hình bé nhỏ, cứng cáp, có đầu nhọn, nhưng trong ruột lại rỗng, dùng để đưa thuốc chữa bệnh vào trong cơ thể con người. Khi ốm nặng, cần tiêm mà không có kim tiêm sạch thì nguy! Chúng tôi bé thật đấy, nhưng không tầm thường tí nào! Chúng tôi làm được những việc mà những kẻ to xác không làm được, có phải là rất đáng tự hào không?

(Bài làm của HS)

CHUYỆN LẠ LOÀI KIẾN Trong các loài vật xung quanh ta có lẽ chẳng ai lạ gì con kiến. Thôi thì kiến vàng, kiến đen, kiến lửa… ai mà chẳng biết? Ấy thế nhưng mà kiến là một loài rất lạ! Cái lạ thứ nhất là kiến không có bộ não, không có mắt, không có tai, không có bộ phận máy phát âm, chỉ nhờ có xúc giác, thế mà cái gì nó cũng biết, lại còn lôi kéo cả đàn làm theo. Thức ăn, bánh kẹo, mật ong…. không cất cẩn thận thế nào nó cũng bu đến! Đặc biệt nó biết rõ thời tiết. Hễ động trời sắp mưa là nó biết ngay, lo tích thức ăn, bịt kín tổ kiến. Cái lạ thứ 2 là nó rất khoẻ. Mỗi con kiến có thể mang một trọng lượng nhiều gấp 40 lần trọng lượng cơ thể nó. Trên thế giới này hẳn không có loài vật nào có sức mạnh như thế. Đã thế kiến là loài vật ném không chết. Người ta ném con kiến từ độ cao gấp hàng nghìn lần cơ thể nó, vậy mà khi rơi xuống nó vẫn bình yên bì đi như không! Cái lại thứ ba: Kiến là một kiến trúc sư tài ba. Bạn đã có dịp thấy tổ kiến chưa? Nếu cắt ra mà xem mới thấy đó là một thành phố có nhiều nhà cao tầng, đường đi lối lại thông suốt, trong đó có cung vua, có hậu cung, có nhà trẻ, kho lương thực, có nhà chung cư! Ở châu Phi có tổ kiến hình trụ hoặc hình kim tự tháp cao mười mấy mét! Chất liệu làm tổ chỉ là đất với nước bọt của chúng mà tổ kiến rất chắc, dùng rìu chặt cũng không đứt! Cái lạ thứ tư: Kiến là loài vật dũng cảm và hung dư vào loại hiếm có. Nếu gặp địch thủ, dù to lớn thế nào, kiến đều xông vào chiến đấu, không sợ hy sinh, cho đến khi hạ gục đối thủ, hoặc là ăn ngay tại trận, hoặc là mang về tổ. Ở châu Mĩ nhiều người bị kiến tấn công, tiêm nọc độc rồi trong chớp mắt, đàn kiến đông bu lại ăn hết thịt! Kiến là động vật có hại, vì nó nuôi rệp, lại hay làm tổ ở chân đê gây vỡ đê khi lũ. Nhưng cũng có nơi lấy kiến làm thức ăn, nghe nói giá trị dinh dưỡng gấp ba lần thịt bò! Vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu loài kiến để hạn chế tác hại, lợi dụng các khả năng của chúng nhằm mưu lợi cho con người.

(Dựa theo Bách khoa loài vật)

Gợi ý:

Về nội dung thuyết minh:

Chủ đề thuyết minh của văn bản là gì?

Văn bản đã giới thiệu, trình bày về đối tượng với những nội dung nào? Có đầy đủ và sâu sắc không?

Về phương pháp thuyết minh:

Văn bản đã sử dụng các biện pháp thuyết minh thông dụng nào?

Văn bản có kết hợp sử dụng các biện pháp nghệ thuật không? Đó là những biện pháp nào? Phân tích tác dụng của các biện pháp nghệ thuật.

Theo chúng tôi

Soạn Bài Sử Dụng Một Số Biện Pháp Nghệ Thuật Trong Văn Bản Thuyết Minh (Siêu Ngắn)

Soạn bài Sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh

I, Tìm hiểu việc sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh

Câu 1 (trang 12 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1): Ôn tập văn bản thuyết minh

– Văn bản thuyết minh là văn bản thông dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống nhằm cung cấp tri thức khách quan về đặc điểm, tính chất, nguyên nhân của các hiện tượng và sự vật trong tự nhiên, xã hội bằng phương thức trình bày, giới thiệu, giải thích.

– Mục đích của văn bản thuyết minh là cung cấp tri thức khách quan về sự vật, hiện tượng, vấn đề được chọn làm đối tượng để thuyết minh.

– Các phương thức thuyết minh thường dùng là: Định nghĩa, nêu ví dụ, liệt kê, dùng số liệu, phân loại, so sánh.

Câu 2 (trang 12 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1): Viết văn bản thuyết minh có sử dụng một số biện pháp nghệ thuật

– Văn bản thuyết minh về “Sự kì lạ của Hạ Long”

– Văn bản đã cung cấp được những tri thức khách quan về đối tượng

– Văn bản sử dụng phương pháp thuyết minh giải thích là chủ yếu

– Văn bản vận dụng phương pháp miêu tả, so sánh, liệt kê, nêu triết lí

Luyện tập

Câu 1 (trang 14 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):

a, – Văn bản trên có tính chất thuyết minh

– Tính chất ấy được thể hiện

+ Nêu ra các chủng loại: Ruồi xanh, ruồi trâu, ruồi vàng, ruồi giấm

+ Nêu ra nơi ở: Bất kì chỗ nào có thức ăn đều lấy làm nơi sinh sống

+ Thời kì sinh nở và tác hại của ruồi: “Bên ngoài mang 6 triệu vi khuẩn… môi trường sinh thái”

+ Đặc điểm tiêu biểu: “mắt ruồi như mắt lưới… không trượt chân”

– Biện pháp thuyết minh, giải thích, nêu số liệu, so sánh được sử dụng

b, – Văn bản thuyết minh này đặc biệt ở chỗ

+ Về hình thức: Giống như văn bản tường thuật một phiên tòa

+ Về cấu trúc: Giống cuộc tranh luận về mặt pháp lí

+ Về nội dung: Giống câu chuyện kể về loài ruồi

– Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật: kể chuyện, miêu tả, ẩn dụ

c, Các biện pháp nghệ thuật có tác dụng gây hứng thú và làm nổi bật nội dung cần thuyết minh

Câu 2 (trang 15 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):

Biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn văn này là nghệ thuật kể chuyện kết hợp với giải thích: Kể câu chuyện ngày bé nghe bà kể chuyện về chim cú (chim cú kêu là có ma tới). Sau này học môn sinh vật mới biết là không phải như vậy.

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k6: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Các bài Soạn văn lớp 9 siêu ngắn được biên soạn bám sát câu hỏi sgk Ngữ Văn lớp 9 Tập 1, Tập 2 giúp bạn dễ dàng soạn bài Ngữ Văn 9 hơn.