Soạn Văn 9 Tập 1 Bài Chiếc Lược Ngà / Top 3 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Soạn Bài: Chiếc Lược Ngà – Ngữ Văn 9 Tập 1

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Nguyễn Quang Sáng trong SGK Ngữ văn 9 Tập 1).

2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Truyện ngắn Chiếc lược ngà được viết năm 1966 (khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ) và được đưa vào tập truyện cùng tên.

* Tóm tắt:

Truyện kể về gia đình bé Thu, cha của bé là anh Sáu đi kháng chiến xa nhà. Cho đến tận năm bé 8 tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Nhưng trớ trêu thay, bé Thu không nhận cha vì vết thẹo trên mặt làm cho cha không giống trong bức hình chụp chung với má của bé. Chính vì thế, em đối xử với cha như người xa lạ, luôn né tránh cha. Cho đến khi bé Thu nhận ra cha thì cũng đến lúc anh Sáu phải lên đường. Tại căn cứ, anh Sáu dồn hết công sức làm cho con gái mình một chiếc lược bằng ngà voi. Nhưng đáng tiếc, trong một trận càn, anh đã hi sinh, trước lúc nhắm mắt, anh vẫn kịp trao cây lược ngà cho người bạn chiến đấu để gửi cho con gái.

* Bố cục:

Văn bản có thể được chia làm 2 phần:

Phần 2: còn lại: Tại khu căn cứ, anh Sáu làm chiếc lược ngà tặng con.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

* Kể tóm tắt đoạn trích (mục trên).

* Tình huống đã bộc lộ sâu sắc và cảm động tình cha con của ông Sáu và bé Thu là:

Tình huống bé Thu không nhận cha, cho đến lúc bé đã chịu nhận thì ông Sáu đã đến lúc phải lên đường.

Tình huống ông Sáu hứa sẽ mang về tặng cho con một chiếc lược. Trong những ngày ở căn cứ, ông Sáu cặm cụi làm cho con chiếc lược ngà, nhưng trớ trêu thay, chưa kịp trao tận tay cho con thì ông đã hi sinh.

Câu 2:

* Diễn biến tâm lí và hành động của bé Thu trong lần gặp cha cuối cùng, khi ông Sáu được về phép:

Khi đã nhận ra cha: bé Thu nằm trằn trọc suy nghĩ khi nghe bà ngoại giải thích về vết thẹo trên mặt cha. Cho đến lúc ông Sáu chào bé và chuẩn bị ra đi thì bé mới chạy đến ôm cha thắm thiết. Tiếng gọi đó như thể hiện cảm xúc bị dồn nén từ rất lâu nay vỡ òa ra, thể hiện tình yêu sâu sắc mà Thu cất từ trong sâu thẳm tâm hồn mình.

* Tính cách của nhân vật bé Thu:

Tình cảm của bé mạnh mẽ, sâu sắc nhưng cũng rất dứt khoát và rạch ròi.

Bé có nét cá tính rắn rỏi đến mức ương ngạnh nhưng vẫn là một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ.

* Nghệ thuật miêu tả tâm lí của tác giả: rất thành công, bé Thu từ hoảng sợ cho đến lạnh lùng và cuối cùng là sự bùng nổ những yêu thương đã bị dồn nén bấy lâu. Qua đó, chúng ta thấy được tác giả phải là một con người yêu quý trẻ em, am hiểu tâm lí trẻ em và trân trọng những tình cảm của trẻ thơ.

Câu 3:

* Tình cảm sâu nặng và cao đẹp của ông Sáu đối với con đã được thể hiện qua những chi tiết, sự việc là: nôn nóng khi được gặp mặt con, khao khát được nghe con gái gọi hai tiếng “Ba ơi !”, tìm kiếm kỉ vật tặng cho con.

* Nét đẹp tâm hồn của người cán bộ cách mạng ấy: họ không chỉ là người có tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ Tổ quốc, mà còn là một người cha, một người chồng, người con có trách nhiệm với gia đình, yêu thương con cái hết mực bằng tình yêu vô cùng đẹp đẽ và cao thượng.

Câu 4:

* Truyện được kể theo lời trần thuật của nhân vật “tôi” – một người bạn thân của ông Sáu.

* Cách chọn vai kể như vậy đã góp phần làm cho câu chuyện thật hơn và đáng tin cậy hơn. Không những thế, nhân vật sẽ được nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, người kể chuyện thì có thể linh hoạt hơn trong việc sắp xếp những sự việc diễn ra với nhân vật.

4.9

/

5

(

7

bình chọn

)

Soạn Bài Chiếc Lược Ngà (Trích) Sách Bài Tập Ngữ Văn 9 Tập 1

1. Những tình huống nào trong truyện đã bộc lộ thật sâu sắc và xúc động tình cha con của ông Sáu và bé Thu ? Nhận xét về nghệ thuật sáng tạo tình huống của tác giả.

Trả lời:

Truyện đã thể hiện tình cha con sâu sắc của ông Sáu và bé Thu trong hai tình huống :

– Cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi. Đây là tình huống cơ bản của truyện.

– Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và lòng mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái.

Nếu tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với cha thì tình huống thứ hai lại biểu lộ tình cảm sâu sắc của người cha với con.

Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện của tác giả (đặc biệt là tình huống thứ nhất) tạo ra sự bất ngờ mà vẫn tự nhiên, hợp lí.

2. Thái độ và hành động của bé Thu đối với ba trong những ngày đầu khi ông Sáu về thăm nhà và lúc ông sắp ra đi rất trái ngược, nhưng vẫn nhất quán trong tính cách của nhân vật. Em hãy thuật lại thái độ, hành động của bé Thu và giải thích sự trái ngược mà vẫn thống nhất đó.

Trả lời:

Em thuật lại và chỉ ra sự trái ngược trong thái độ, hành động của bé Thu với cha khi ông Sáu mới về thăm nhà và lúc ông chia tay gia đình để trở lại chiến khu.

Sự trái ngược trong thái độ và hành động của bé Thu lại thể hiện sự nhất quán, rõ ràng trong tình cảm và tính cách của nhân vật. Lúc trước, vì chưa nhận ra và không thừa nhận ông Sáu là cha nên bé Thu xa lánh, lạnh lùng, không gọi “ba”, thậm chí khước từ mọi sự chăm sóc của ông. Đến khi nhận ra và tin ông Sáu là cha thì bé Thu biểu lộ tình cảm với cha một cách hết sức mạnh mẽ, nồng nhiệt, vì đã đến lúc phải chia tay với cha và còn do cả sự hối hận vì những ngày trước đó đã đối xử không đúng với cha.

Qua biểu hiện tâm lí và hành động của bé Thu, tác giả đã làm nổi rõ một số nét tính cách của nhân vật. Tình cảm đó ở em thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Ở Thu còn có nét cá tính cứng cỏi đến mức tưởng như ương ngạnh, nhưng Thu vẫn là một đứa trẻ với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ.

3. Chi tiết “chiếc lược ngà” có vai trò như thế nào trong truyện ?

Trả lời:

Chi tiết “chiếc lược ngà” (cũng được lấy làm tên truyện) có một ý nghĩa quan trọng trong tác phẩm. “Chiếc lược ngà” đã nối kết hai cha con ông Sáu và bé Thu trong sự xa cách của hai người, và cả sau khi ông Sáu đã hi sinh. Chiếc lược ngà là biểu hiện cụ thể của tình thương yêu, nỗi nhớ mong của ông Sáu với con và nó trở thành kỉ vật thiêng liêng, thành biểu tượng của tình cha con sâu nặng.

4. Em hãy viết lại đoạn truyện kể về cuộc chia tay cuối cùng của cha con ông Sáu theo lời hồi tưởng của một nhân vật khác (ông Sáu hoặc bé Thu).

Trả lời:

Em tự viết đoạn văn thuật lại cuộc chia tay lần cuốĩ của hai cha con ông Sáu theo hồi tưởng của một trong hai nhân vật : ông Sáu hoặc bé Thu. Chú ý lời và giọng kể phải thể hiện được những tình cảm đầy xúc động ở mỗi nhân vật. Nếu kể theo lời bé Thu thì nên để nhân vật hồi tưởng lại sự việc ấy sau khi em đã lớn mới có thể kể được rõ ràng một kỉ niệm không thể quên trong thời thơ bé.

5. Câu chuyện của cha con ông Sáu trong truyện gợi cho em cảm nghĩ gì về tình người, nhất là tình cảm gia đình trong hoàn cảnh chiến tranh ?

Trả lời:

Có thể nêu cảm nghĩ của mình một cách tự do, nhưng cần chú ý hai khía cạnh nổi bật trong ý nghĩa của truyện :

– Những éo le, mất mát do chiến tranh gây nên cho con người, cho mỗi gia đình.

– Vượt lên những mất mát đó của chiến tranh (thậm chí cả cái chết) là sức mạnh bền chặt của tình người : tình cha con, tình bạn và tình đồng chí sâu sắc, thắm thiết. Trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh, trân trọng những tình cảm tự nhiên, đẹp đẽ của con người (như : tình cảm gia đình, tình cha con).

Soạn Văn 9 Ngắn Nhất Bài: Chiếc Lược Ngà

Câu 1: Em hãy kể tóm tắt cốt truyện của đoạn trích. Tình huống nào đã bộc lộ sâu sắc và cảm động tình cha con của ông Sáu và bé Thu?

Câu 2: Tìm hiểu và phân tích diễn biến tâm lí, hành động của bé Thu trong lần gặp cha cuối cùng, khi ông Sáu được về phép. Qua đó hãy nhận xét về tính cách nhân vật bé Thu và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả?

Câu 3: Tình cảm sâu nặng và cao đẹp của ông Sáu đối với con đã được thể hiện qua những chi tiết, sự việc nào? Điều đó đã bộc lộ thêm nét đẹp gì trong tâm hồn của người cán bộ cách mạng ấy?

Câu 4: Truyện được kể theo lời trần thuật của nhân vật nào? Cách chọn vai kể như vậy có tác dụng gì trong việc xây dựng nhân vật và thể hiện nội dung tư tưởng của truyện?

Luyện tập

Câu 1: Thái độ và hành động của nhân vật bé Thu đối với ba rất trái ngược trong những ngày đầu khi ông Sáu về thăm nhà và lúc ông sắp ra đi, nhưng vẫn nhất quán trong tính cách của nhân vật. Em hãy giải thích điều đó.

Câu 2: Em hãy viết lại đoạn truyện kể về cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai cha con ông Sáu theo lời hồi tưởng của một nhân vật khác (ông Sáu hoặc bé Thu).

Phần tham khảo mở rộng

Câu 1: Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Chiếc lược ngà.

Câu 2: Viết đoạn truyện kể về cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai cha con ông Sáu theo lời hồi tưởng của một nhân vật ông Sáu.

Câu 3: Viết đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về tình cảm cha con ông Sáu trong truyện ngắn Chiếc lược ngà

Câu 1: Tóm tắt cốt truyện của đoạn trích: Ông Sáu xa nhà tham gia kháng chiến suốt tám năm trời, khao khát mong mỏi đến ngày được trở về gia đình gặp mặt con gái. Nhưng bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm cho em không giống với cha trong bức ảnh chụp chung với má. Em đối xử với ba như người xa lạ. Đến lúc Thu nhận ra cha, lúc tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi trở lại nơi chiến đấu. Tại khi căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Nhưng món quà chưa kịp trao cho con thì trong một trận càn, ông đã hy sinh. Trước lúc nhắm mắt ông còn kịp trao cây lược cho người bạn để gửi cho con gái.

Tình huống bộc lộ sâu sắc và cảm động tình cha con:

Thứ nhất, khi bé Thu không nhận cha. Vì cuộc kháng chiến mà người cha đi biền biệt suốt tám năm, từ khi bé Thu chưa đầy một tuổi.

Thứ hai, khi anh Sáu hứa sẽ mang về tặng con một cây lược. Chiếc lược đã làm xong nhưng chưa kịp trao cho con gái thì anh hi sinh trong chiến trường.

Câu 2: Diễn biến tâm lí, hành động của bé Thu trong lần gặp cha cuối cùng:

Khi ông Sáu bồi hồi nhận con thì bé Thu lại tròn mắt ngơ ngác lạ lùng.

Bé Thu cự tuyệt mọi sự quan tâm của ông Sáu dành cho mình.

Khi được bà ngoại giải thích, bé Thu đã hiểu ra mọi việc và chịu nhận ông Sáu là ba.

Câu 3: Tình cảm sâu nặng và cao đẹp của ông Sáu với con gái được thể hiện qua các chi tiết:

Ông chạy đến ôm bé Thu vào lòng.

Dù bé Thu không chịu nhận mình nhưng ông Sáu vẫn luôn quan tâm, tìm cách để được gần gũi với con.

Vô cùng hối hận khi đánh con và trước lúc hi sinh ông vẫn giữ lời hứa nhờ bạn trao giúp chiếc lược cho Thu.

Qua đó ta thấy ông Sáu luôn nghĩ về gia đình, thương yêu con cái hết mực.

Khi vào chiến trường, ông vẫn giữ lời hứa tặng con chiếc lược.

Câu 4: Truyện được kể theo ngôi thứ nhất, nhân vật xưng “tôi” là người bạn thân của ông Sáu.

Cách chọn vai kể như vậy có tác dụng: tạo cho câu truyện tính khách quan chân thực và thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa những người đồng chí trong chiến đấu.

Luyện tập

Câu 1: Thái độ và hành động của nhân vật bé Thu là:

Bé ngạc nhiên, sợ hãi vì người đàn ông lạ mặt ôm và tự nhận là ba của bé.

Khi nhận ra ba thì tình cảm trào dâng, Thu nhất quyết không cho ba đi

Câu 2: Cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai cha con ông Sáu (lời kể bé Thu)

Bài viết tham khảo

Tôi rất nhớ buổi sáng hôm đó, sau khi theo ngoại về nhà, hàng xóm và cả họ hàng đếm nhà tôi rất đông. Má tôi lo chuẩn bị đồ đạc, tư trang để ba chuẩn bị lên đường, ba tôi đang tiếp chuyện mọi người. Dường như chẳng ai chú ý đến sự có mặt của tôi lúc này. Tâm trí tôi lúc này rối bời, biết bao suy nghĩ đang bủa vây lấy tôi. Mấy lần mình định lao ra ôm lấy ba nhưng không dám.

Đến giờ phút chuẩn bị lên đường, khoác ba lô trên vai, ánh mắt của ba hướng về phía tôi. Có lẽ ba cũng như tôi, rất muốn lại gần nhưng sợ tôi sẽ bỏ chạy như ngày hôm trước. Cái nhìn âu yếm, buồn đau khó tả, bao nhiêu năm qua trong ký ức non nớt của tôi vẫn ghi đậm hình ảnh đôi mắt ấy, đôi mắt buồn thương mênh mông. Không thấy ba nói gì, chỉ biết mình sắp phải xa người thân yêu nhất, tôi thét lên : “B…a….ba….” rồi ôm chặt lấy ba khóc nức nở. Mình vừa khóc, vừa hôn khắp nơi trên khuôn mặt ba mình. Mình hôn cả vết thẹo dài bên bá ba mình nữa. Rồi tay tôi giữ ghì chặt cổ ba, chân cấu lấy người ba, mình không cho ba đi. Hai ba con tôi cũng khóc. Mãi sau, mọi người dỗ dành mãi, mình mới cho ba đi. Tôi đâu ngờ rằng, lần gặp đó cũng là lần gặp sau cuối của tôi với ba. Dù đi xa nhưng những kí ức về ba và chiếc lược ngà sẽ đi theo tôi đến suốt cuộc đời.

Phần tham khảo mở rộng

Câu 1: Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Chiếc lược ngà:

Với bé Thu: chiếc lược ngà là kỷ vật , là tình cảm yêu mến nhớ thương của người cha chiến sĩ

Với ông Sáu: Chiếc lược ngà là bao tâm tư tình cảm, yêu thương ông dành cho cô con gái bé bỏng

Câu 2: Cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai cha con ông Sáu theo lời hồi tưởng của một nhân vật ông Sáu

Bài viết tham khảo

Những ngày phép ngắn ngủi về thăm nhà của tôi cũng đã kết thúc, tôi phải trở lại chiến trường để tiếp tục chiến đấu. Sáng hôm sau, bà con bên nội, bên ngoại đến rất đông. Thu – con gái tôi cũng theo bà ngoại về nhà. Tôi phải lo tiếp khách nên không chú ý đến con. Vợ tôi thì lo chuẩn bị đồ đạc, xếp cẩn thận từng chiếc áo cho tôi mang đi. Con gái tôi như bị bỏ rơi, nó đứng ở góc nhà và cứ nhìn mọi người đang vây quanh tôi. Thời gian nhanh chóng trôi qua, đến lúc chia tay, mang ba lô trên vai, sau khi bắt tay hết mọi người, tôi mới đưa mắt nhìn con, nó vẫn đứng ở góc nhà. Lòng tôi buồn rười rượi, tràn ngập nỗi thương con, vì chiến tranh xa cách mà con không nhận ra cha. Tôi muốn lại gần mà ôm con, hôn con nhưng lại sợ nó sợ hãi, giẫy lên mà bỏ chạy nên chỉ dám đứng nhìn với tất cả tình yêu thương dành cho nó. Nhưng thật lạ lùng và đầy bất ngờ với tôi và mọi người xung quanh, con gái tôi bỗng thét lên tiếng mà tôi chờ đợi suốt bao năm qua:”Ba…a…a…ba!”. Tiếng kêu của con như tiếng xé, xé tan cả ruột gan tôi. Vừa thét nó vừa chạy thót lên ôm chặt cổ tôi, vừa ôm tôi con vừa khóc. Tôi bế nó lên, nó hôn lên tóc, lên cổ và cả vết thẹo dài bên má tôi. Lúc này, bà ngoại mới kể cho tôi biết lí do vì sao không nhận cha và bà đã giải thích cho con gái tôi hiểu về vết thẹo tôi bị bọn Tây bắn. Không ghìm được xúc động, những giọt nước mắt tôi lăn trào trên má. Một tay ôm con, một tay tôi rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc của con. Tôi âu yếm nói với con: “Ba đi rồi ba về với con”. Bé Thu hét lên không đồng ý và siết chặt lấy tôi, từng vết dao như cứa vào trái tim tôi. Đến giờ phải đi mà lòng tôi không muốn rời bước, con bé mếu máo và dặn tôi mua cho con chiếc lược. Tôi tự nhủ sẽ tự tay làm một chiếc lược thật đẹp dành tặng cho con gái yêu của mình.

Câu 3: Viết đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về tình cảm cha con ông Sáu

Bài văn tham khảo

Truyện ngắn Chiếc lược ngà là câu chuyện cảm động về tình cảm cha con ông Sáu. Truyện xoay quanh những thay đổi trong tâm trạng của nhân vật ông Sáu và bé Thu. Sau bao năm chiến đấu xa nhà, ông Sáu trở về nhà tron sự háo hức gặp lại đứa con gái bé bỏng. Nhưng sự háo hức đó bỗng chốc trở thanh hụt hẫng bởi sự sợ hãi của con, một vết cứa sâu trong tâm hồn người cha. Những ngày nghỉ phép ngắn ngủi, ông cố gắng vỗ về, dỗ dành và gần gũi con nhưng càng vỗ về nó thì nó càng đẩy ra. Mong được nghe một tiếng “ba” mà con chẳng bao giờ chịu gọi, và không kìm được, ông đã đánh con. Cái đánh là sự bất lực về thái độ ương bướng của con nhưng nó cũng là sự khao khát tinh yêu từ người con bởi thời gian bên con của ông chẳng thể kéo dài. Ngày ra đi đã đến, người cha chỉ dám đứng nhìn con từ xa với ánh mắt yêu thương trìu mến. Bỗng tiếng thét của Thu: “Ba…a…a” đã xé tan sự im lặng, xé tan ruột gan lòng người lính sắp đi xa. Nó chạy lại ôm chặt và hôn khắp người cha. Bao tình cảm kìm nén, bao mong mỏi được gặp cha trong nó giờ đây như tuôn trào, nó khao khát được gọi tiếng cha và được đôi bàn tay cha vỗ về. Ấn tượng hằn sâu trong tâm trí nó về người cha tlà bức ảnh cũ kĩ nó luôn nâng niu, trân trọng. Vậy mà chỉ vì vết thẹo trên má đã khiến nó nghi ngờ về cha, trong lòng nó giờ đây là yêu thương, ân hận, day dứt và cả những tiếc nuôi về quãng thời gian ngắn ngủi vừa qua. Những ngày xa con ở chiến khu, bao nhiêu nhớ thương, ân hận và cả niềm khát khao được gặp con, ông Sáu dồn cả vào việc làm chiếc lược ngà rất tỉ mẩn, rất cẩn thận. Câu chuyện đã để lại trong lòng người sự nỗi xúc động về tình cha con hết sức sâu nặng, thiêng liêng và cao đẹp dù là trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh khắc nghiệt.

Câu 1: Tóm tắt:

Ông Sáu xa nhà tham gia kháng chiến suốt tám năm trời, khao khát mong mỏi đến ngày được trở về gia đình gặp mặt con gái. Nhưng bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm cho em không giống với cha trong bức ảnh chụp chung với má.

Em đối xử với ba như người xa lạ. Đến lúc Thu nhận ra cha, lúc tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi trở lại nơi chiến đấu.

Tại khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Nhưng món quà chưa kịp trao cho con thì trong một trận càn, ông đã hy sinh. Trước lúc nhắm mắt ông còn kịp trao cây lược cho người bạn để gửi cho con gái.

Tình huống bộc lộ sâu sắc và cảm động tình cha con của ông Sáu và bé Thu: Khi bé Thu không nhận ra cha vì không giống trong hình và khi anh Sáu hứa sẽ mang về tặng con một cây lược nhưng chưa kịp trao cho con thì anh đã hi sinh.

Câu 2: Những biểu hiện tâm lí và hành động của bé Thu trong lần gặp cha cuối cùng là: Khi ông Sáu bồi hồi nhận con thì bé Thu lại tròn mắt ngơ ngác lạ lùng. Sau đó bé Thu cự tuyệt mọi sự quan tâm của ông Sáu dành cho mình và khi được bà ngoại giải thích, bé Thu đã hiểu ra mọi việc và chịu nhận ông Sáu là ba.

Câu 3: Tình cảm sâu nặng và cao đẹp của ông Sáu chính là cái ôm con lúc mới gặp, vẫn luôn quan tâm, tìm cách để được gần gũi với con dù con không nhận ra mình, vô cùng hối hận khi đánh con và vẫn giữ lời hứa tặng con chiếc lược khi vào chiến trước, cuối cùng trước lúc ra đi lời trăn trối cuối cùng là nhờ ông Ba mang cây lược về cho bé Thu.

Câu 4: Trong nhân vật xưng “tôi”, đó là người bạn thân của ông Sáu, truyện được kể theo ngôi thứ nhất. Câu chuyện về hai cha con thông qua lời kể của người bạn ông Sáu, đã tạo cho câu truyện tính khách quan chân thực và thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa những người đồng chí trong chiến đấu.

Câu 2: Cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai cha con ông Sáu (lời kể bé Thu)

Bài viết tham khảo

Ngày tôi nhận ra ba cũng là ngày ông tiếp tục đi ra nơi chiến trường chiến đấu. Tâm trí tôi lúc này rối bời, biết bao suy nghĩ đang bủa vây lấy tôi. Tôi rất nhớ buổi sáng hôm đó, sau khi theo ngoại về nhà, hàng xóm và cả họ hàng đếm nhà tôi rất đông. Má tôi lo chuẩn bị đồ đạc, tư trang để ba chuẩn bị lên đường, ba tôi đang tiếp chuyện mọi người. Dường như chẳng ai chú ý đến sự có mặt của tôi lúc này. Mấy lần mình định lao ra ôm lấy ba nhưng không dám.

Lúc ba chuẩn bị đi, tôi luôn muốn nói với ba rằng tôi yêu ba. Cái nhìn âu yếm, buồn đau khó tả, bao nhiêu năm qua trong ký ức non nớt của tôi vẫn ghi đậm hình ảnh đôi mắt ấy, đôi mắt buồn thương mênh mông. Không thấy ba nói gì, chỉ biết mình sắp phải xa người thân yêu nhất, tôi thét lên : “B…a….ba….” rồi ôm chặt lấy ba khóc nức nở. Mình vừa khóc, vừa hôn khắp nơi trên khuôn mặt ba mình. Mình hôn cả vết thẹo dài bên bá ba mình nữa. Rồi tay tôi giữ ghì chặt cổ ba, chân cấu lấy người ba, mình không cho ba đi. Hai ba con tôi cũng khóc. Tôi tự nhũ rằng “Nhất định ba sẽ về, sẽ trao tận tay con cây lược”. Tôi yêu ba tôi rất nhiều.

Phần tham khảo mở rộng

Câu 1: Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Chiếc lược ngà: chiếc lược ngà là kỷ vật , là tình cảm yêu mến nhớ thương của người cha chiến sĩ của bé Thu và là bao tâm tư tình cảm, yêu thương ông dành cho cô con gái bé bỏng của ông Sáu.

Câu 2: Cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai cha con ông Sáu theo lời hồi tưởng của một nhân vật ông Sáu

Bài viết tham khảo

Đã đến lúc trở lại chiến trường tiếp tục chiến đấu. Thế là tui phải xa đứa con gái bẻ bỏng của tôi. Sáng hôm đó phải lo tiếp khách nên không chú ý đến con. Vợ tôi thì lo chuẩn bị đồ đạc, xếp cẩn thận từng chiếc áo cho tôi mang đi. Con gái tôi như bị bỏ rơi, nó đứng ở góc nhà và cứ nhìn mọi người đang vây quanh tôi. Lòng tôi buồn rười rượi, tràn ngập nỗi thương con, vì chiến tranh xa cách mà con không nhận ra cha. Thời gian nhanh chóng trôi qua, đến lúc chia tay, mang ba lô trên vai, sau khi bắt tay hết mọi người, tôi mới đưa mắt nhìn con, nó vẫn đứng ở góc nhà. Tôi muốn lại gần mà ôm con, hôn con nhưng lại sợ nó sợ hãi sau đó tôi nghe tiếng “Ba…a…a…ba!”. Tiếng kêu của con như tiếng xé, xé tan cả ruột gan tôi. Vừa thét nó vừa chạy thót lên ôm chặt cổ tôi, vừa ôm tôi con vừa khóc. Tôi bế nó lên, nó hôn lên tóc, lên cổ và cả vết thẹo dài bên má tôi. Lúc này, bà ngoại mới kể cho tôi biết lí do vì sao không nhận cha và bà đã giải thích cho con gái tôi hiểu về vết thẹo tôi bị bọn Tây bắn. Cuối cùng thì bé Thu – con gái yêu đã nhận ra tôi. Tôi rất vui mừng, Thu hôn lên má tôi và hôn cả vết sẹo của tôi. Tôi sẽ nhớ mãi khoảnh khắc này. Thu à ba yêu con, tôi sẽ tặng cho con gái một chiếc lược.

Câu 3: Viết đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về tình cảm cha con ông Sáu

Bài văn tham khảo

Chiếc lược ngà là kỷ vật , là tình cảm yêu mến nhớ thương của người cha chiến sĩ của bé Thu và là bao tâm tư tình cảm, yêu thương ông dành cho cô con gái bé bỏng của ông Sáu. Có thể nói truyện đã nói lên tình cảm sâu đậm của hai cha con. Sau bao năm chiến đấu xa nhà, ông Sáu trở về nhà tron sự háo hức gặp lại đứa con gái bé bỏng. Nhưng sự háo hức đó bỗng chốc trở thanh hụt hẫng bởi sự sợ hãi của con, một vết cứa sâu trong tâm hồn người cha. Những ngày nghỉ phép ngắn ngủi, ông cố gắng vỗ về, dỗ dành và gần gũi con nhưng càng vỗ về nó thì nó càng đẩy ra. Mong được nghe một tiếng “ba” mà con chẳng bao giờ chịu gọi, và không kìm được, ông đã đánh con. Cái đánh là sự bất lực về thái độ ương bướng của con nhưng nó cũng là sự khao khát tinh yêu từ người con bởi thời gian bên con của ông chẳng thể kéo dài. Ngày ra đi đã đến, người cha chỉ dám đứng nhìn con từ xa với ánh mắt yêu thương trìu mến. Bỗng tiếng thét của Thu: “Ba…a…a” đã xé tan sự im lặng, xé tan ruột gan lòng người lính sắp đi xa. Nó chạy lại ôm chặt và hôn khắp người cha. Bao tình cảm kìm nén, bao mong mỏi được gặp cha trong nó giờ đây như tuôn trào, nó khao khát được gọi tiếng cha và được đôi bàn tay cha vỗ về. Ấn tượng hằn sâu trong tâm trí nó về người cha tlà bức ảnh cũ kĩ nó luôn nâng niu, trân trọng. Vậy mà chỉ vì vết thẹo trên má đã khiến nó nghi ngờ về cha, trong lòng nó giờ đây là yêu thương, ân hận, day dứt và cả những tiếc nuôi về quãng thời gian ngắn ngủi vừa qua. Những ngày xa con ở chiến khu, bao nhiêu nhớ thương, ân hận và cả niềm khát khao được gặp con, ông Sáu dồn cả vào việc làm chiếc lược ngà rất tỉ mẩn, rất cẩn thận. Qua câu chuyện đã khiến người đọc cảm động về tình cha con của ông Sáu và bé Thu.

Câu 1: Đoạn trích được tóm tắt qua các giai đoạn:

2. Trong thời gian ông Sáu ở nhà bé Thu xem ông Sáu như người xa lạ. Đến lúc Thu nhận ra cha, lúc tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi trở lại nơi chiến đấu.

Câu 2: Ta thấy câu chuyện sâu sắc, tinh tế và logic. Qua diễn biến tâm lí, hành động của bé Thu trong lần gặp cha cuối cùng ta thấy được tình cảm của 2 cha con khiến cho người đọc xúc động:

Đầu tiên, Bé Thu sợ hãi, khóc và chạy về nhà.

Sau đó, bé Thu cự tuyệt mọi sự quan tâm của ông Sáu dành cho mình.

Cuối cùng, Khi được bà ngoại giải thích, bé Thu đã hiểu ra mọi việc và chịu nhận ông Sáu là ba.

Câu 3: Ta thể thấy ông Sáu là một chiến sĩ cách mạng xa nhà nhưng trong lòng luôn nghĩ về gia đình, thương yêu con cái hết mực, qua những chi tiết sau đây:

Dù bé Thu không chịu nhận mình nhưng ông Sáu vẫn luôn quan tâm con

Ông Sáu đã vô cùng hối hận khi đánh con và luôn nhớ làm tặng con chiếc lược ngà, trước lúc ra đi ông vẫn luôn nhớ về điều đó.

Câu 4: Truyện được trần thuật lại qua lời người bạn thân của ông Sáu

Tính khách quan, chân thực.

Thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa những người đồng chí trong chiến đấu.

Luyện tập

Câu 1: Hành động trái ngược của bé Thu đối với ông Sáu:

Câu 2: Cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai cha con ông Sáu (lời kể bé Thu)

Bài viết tham khảo

Đến giờ tôi vẫn còn nhớ cái ngày định mệnh đó, ngày tôi nhận ra ba cũng chính là lúc ông phải chuẩn bị lên đường. Má tôi lo chuẩn bị đồ đạc, tư trang để ba chuẩn bị lên đường, ba tôi đang tiếp chuyện mọi người. Mọi người đều vây bên ba tôi để chúc thượng lộ bình an. Tôi rất muốn nói với ba rằng tôi yêu ba nhung không có can đảm.

Có lẽ ba cũng như tôi, rất muốn lại gần nhưng sợ tôi sẽ bỏ chạy như ngày hôm trước. Đến giờ phút chuẩn bị lên đường, khoác ba lô trên vai, ánh mắt của ba hướng về phía tôi. Tôi vừa khóc vừa hét lên “B…a….ba….” rồi ôm chặt lấy ba khóc nức nở. Mình vừa khóc, vừa hôn khắp nơi trên khuôn mặt ba mình. Mình hôn cả vết thẹo dài bên bá ba mình nữa. Rồi tay tôi giữ ghì chặt cổ ba, chân cấu lấy người ba, mình không cho ba đi. Hai ba con tôi cũng khóc. Mãi sau, mọi người dỗ dành mãi, mình mới cho ba đi. Tôi đâu ngờ rằng, lần gặp đó cũng là lần gặp sau cuối của tôi với ba.

Phần tham khảo mở rộng

Câu 1: Chiếc lược ngà là một đồ dùng thân thuộc, giản dị với mỗi người con gái nhưng ở đây, chiếc lược ngà trở thành kỉ vật thiêng liêng của tình cha con sâu nặng.

Câu 2: Cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai cha con ông Sáu theo lời hồi tưởng của một nhân vật ông Sáu

Bài viết tham khảo

Thời gian trôi qua nhanh quá, mấy ngày phép đã hết, tôi lại tiếp tục chiến đấu. Tôi phải xa bé Thu và gia đình. Sáng hôm sau, bà con bên nội, bên ngoại đến rất đông. Thu – con gái tôi cũng theo bà ngoại về nhà. Tôi phải lo tiếp khách nên không chú ý đến con. Vợ tôi thì lo chuẩn bị đồ đạc, xếp cẩn thận từng chiếc áo cho tôi mang đi. Con gái tôi như bị bỏ rơi, nó đứng ở góc nhà và cứ nhìn mọi người đang vây quanh tôi. Thời gian nhanh chóng trôi qua, đến lúc chia tay, mang ba lô trên vai, sau khi bắt tay hết mọi người, tôi mới đưa mắt nhìn con, nó vẫn đứng ở góc nhà. Lòng tôi buồn rười rượi, tràn ngập nỗi thương con, vì chiến tranh xa cách mà con không nhận ra cha. Tôi muốn lại gần mà ôm con, hôn con nhưng lại sợ nó sợ hãi, giẫy lên mà bỏ chạy nên chỉ dám đứng nhìn với tất cả tình yêu thương dành cho nó. Nhưng thật lạ lùng và đầy bất ngờ với tôi và mọi người xung quanh, con gái tôi bỗng thét lên tiếng mà tôi chờ đợi suốt bao năm qua:”Ba…a…a…ba!”. Tiếng kêu của con như tiếng xé, xé tan cả ruột gan tôi. Vừa thét nó vừa chạy thót lên ôm chặt cổ tôi, vừa ôm tôi con vừa khóc. Tôi bế nó lên, nó hôn lên tóc, lên cổ và cả vết thẹo dài bên má tôi. Lúc này, bà ngoại mới kể cho tôi biết lí do vì sao không nhận cha và bà đã giải thích cho con gái tôi hiểu về vết thẹo tôi bị bọn Tây bắn. Không ghìm được xúc động, những giọt nước mắt tôi lăn trào trên má. Một tay ôm con, một tay tôi rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc của con. Tôi âu yếm nói với con: “Ba đi rồi ba về với con”. Thấy bé Thu như vậy tôi thật sự xúc động lắm, tôi sẽ nhớ con lắm. Và tôi đã hứa sẽ tặng Thu một chiếc lược ngà thật đẹp.

Câu 3: Viết đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về tình cảm cha con ông Sáu

Bài viết tham khảo

Chiếc lược ngà đã để lại trong lòng người sự nỗi xúc động về tình cha con hết sức sâu nặng, thiêng liêng và cao đẹp dù là trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh khắc nghiệt. . Qua diễn biến tâm lí, hành động của bé Thu trong lần gặp cha cuối cùng ta thấy được tình cảm của 2 cha con khiến cho người đọc xúc động. Trong thời gian ông Sáu ở nhà bé Thu xem ông Sáu như người xa lạ. Đến lúc Thu nhận ra cha, lúc tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi trở lại nơi chiến đấu. Những ngày xa con ở chiến khu, bao nhiêu nhớ thương, ân hận và cả niềm khát khao được gặp con, ông Sáu dồn cả vào việc làm chiếc lược ngà rất tỉ mẩn, rất cẩn thận. Chiếc lược ngà là một đồ dùng thân thuộc, giản dị với mỗi người con gái nhưng ở đây, chiếc lược ngà trở thành kỉ vật thiêng liêng của tình cha con sâu nặng. Câu chuyện đã cho ta thấy tình cảm cha con thiêng liêng cao cả đến mức nào qua diễn biến tâm lí của cả 2 nhân vật.

Soạn Văn 9 Vnen Bài 15: Chiếc Lược Ngà

1. Hãy đọc một bài thơ/ đoạn thơ hoặc một câu chuyện kể về tình cha con

Một số bài thơ viết về tình cha con:

Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười. Người đồng mình yêu lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời. Người đồng mình thương lắm con ơi Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục. Con ơi tuy thô sơ da thịt Không bao giờ nhỏ bé được Lục bát về Cha Cánh cò cõng nắng qua sông Chở luôn nước mắt cay nồng của cha Cha là một dải ngân hà Con là giọt nước sinh ra từ nguồn Quê nghèo mưa nắng trào tuôn Câu thơ cha dệt từ muôn thăng trầm Thương con cha ráng sức ngâm Khổ đau hạnh phúc nảy mầm từ hoa Lúa xanh xanh mướt đồng xa Dáng quê hòa với dáng cha hao gầy Cánh diều con lướt trời mây Chở câu lục bát hao gầy tình Cha.

B. Hoạt động hình thành kiến thức

1. Đọc văn bản “Chiếc lược ngà”

a) Em hãy kể tóm tắt cốt truyện của đoạn trích. Tình huống nào đã bộc lộ sâu sắc và cảm động tình cha con của ông Sáu và bé Thu?

Tóm tắt truyện:

Ông Sáu xa nhà tham gia kháng chiến suốt tám năm trời, khao khát mong mỏi đến ngày được trở về gia đình gặp mặt con gái. Nhưng bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm cho em không giống với cha trong bức ảnh chụp chung với má. Em đối xử với ba như người xa lạ. Đến lúc Thu nhận ra cha, lúc tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi trở lại nơi chiến đấu. Tại khi căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Nhưng món quà chưa kịp trao cho con thì trong một trận càn, ông đã hy sinh. Trước lúc nhắm mắt ông còn kịp trao cây lược cho người bạn để gửi cho con gái.

Tình huống bộc lộ sâu sắc và cảm động tình cha con:

– Tình huống thứ nhất là khi bé Thu không nhận cha. Vì cuộc kháng chiến mà người cha đi biền biệt suốt tám năm, từ khi bé Thu chưa đầy một tuổi. Sau tám năm xa cách, anh trở về, đứa con gái không chịu nhận ba. Đến lúc con nhận ra và gọi anh Sáu bằng ba là lúc anh phải ra đi nhận nhiệm vụ mới.

– Tình huống thứ hai là khi anh Sáu hứa sẽ mang về tặng con một cây lược. Những ngày chiến đấu trong rừng, anh Sáu cặm cụi làm chiếc lược bằng ngà cho con gái bằng tất cả tình yêu thương. Chiếc lược đã làm xong nhưng chưa kịp trao cho con gái thì anh hi sinh trong chiến trường.

b) Tìm hiểu và phân tích diễn biến tâm lí, hành động của bé Thu trong lần gặp cha, khi ông Sáu được về phép. Qua đó hãy nhận xét về tính cách nhân vật bé Thu và nghệ thuật miêu tả tâm lí của tác giả.

– Khi ông Sáu bồi hồi nhận con thì bé Thu lại tròn mắt ngơ ngác lạ lùng. Bé Ngạc nhiên, sợ hãi vì người đàn ông lạ mặt ôm và tự nhận là ba của bé. Vết sẹo dài trên mặt ông Sáu vì xúc động mà đỏ ứng, giật giật khiến cho bé Thu sợ hãi, khóc và chạy về nhà. Bé nhìn ba như người xa lạ, mặt tái đi chạy đi kêu má làm cho ông Sáu rất đau khổ.

– Sau đó, bé Thu cự tuyệt mọi sự quan tâm của ông Sáu dành cho mình, ăn nói cộc lốc, trống không với ba. Đỉnh điểm của hành động ngang bướng, kiên quyết không chịu nhận ba của bé Thu là trong bữa ăn gia đình, bé Thu đã hất cái trứng mà ông Sáu gắp vào bát mình.

– Khi được bà ngoại giải thích, bé Thu đã hiểu ra mọi việc và chịu nhận ông Sáu là ba. Lúc thấy ba chuẩn bị ra đi khuôn mặt bé Thu buồn rầu nghĩ ngợi xa xăm, đằng sau đôi mắt ấy xáo trộn biết bao ý nghĩ. Hình ảnh bé Thu chạy lại nhận ba vào giây phút ông Sáu lên đường là chi tiết cảm động nhất của truyện ngắn này.

– Qua những hành động, suy nghĩ của bé Thu, người đọc càng thêm xúc động về tình cha con. Bé Thu không chịu nhận ba bởi vì rất yêu ba, người ba trong tiềm thức, suy nghĩ của bé Thu không hề giống với người ba thực tại. Vì vậy hành động chống đối chính là sự bảo vệ hình ảnh người cha trong trái tim mình. Khi nhận ra ông Sáu chính là cha mình, em đã bật khóc nghẹn ngào, hôn ba nó cùng khắp, cổ, vai và kể cả vết thẹo dài trên má.

– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật: Sâu sắc, tinh tế và phù hợp với logic của câu chuyện. Nhà văn như hoá thân vào trong nhân vật để biểu hiện những diễn biến tâm lí của một cô bé tám tuổi một cách chân thật xúc động.

c) Tình cảm sâu nặng và cao đẹp của ông Sáu đối với con đã được thể hiện qua những chi tiết, sự việc nào? Điều đó đã bộc lộ thêm nét đẹp gì trong tâm hồn của người cán bộ cách mạng ấy?

Tình cảm sâu nặng và cao đẹp của ông Sáu với con gái được thể hiện qua các chi tiết:

– Về nghỉ phép với tâm trạng nôn nao, hồi hộp, mong ngóng vì biết sắp được gặp con

– Ông chạy đến ôm bé Thu vào lòng và nói “Thu, con”. Cái ôm chất chứa bao nhiêu tình yêu, nỗi nhớ của người cha.

– Dù bé Thu không chịu nhận mình nhưng ông Sáu vẫn luôn quan tâm, tìm cách để được gần gũi với con.

– Ông Sáu đã vô cùng hối hận khi đánh con

– Khi vào chiến trường, ông vẫn giữ lời hứa tặng con chiếc lược. Tìm kiếm kỉ vật tặng cho con: ông đã cố công tìm được khúc ngà để làm cho con gái một chiếc lược thật đẹp, ông thận trọng tỉ mỉ cưa từng chiếc răng lược như một người thợ bạc rồi còn khắc lên đó những dòng chữ đầy yêu thương. Suốt ngày, ông ngắm chiếc lược và gửi gắm trong đó biết bao nhớ thương về người con gái bé nhỏ. Ông luôn mang chiếc lược bên mình.

– Trước khi hi sinh, lời trăn trối cuối cùng là nhờ ông Ba mang cây lược về cho bé Thu

– Qua những chi tiết trong truyện, có thể thấy ông Sáu là một chiến sĩ cách mạng tha thiết tình yêu quê hương đất nước, dù nhiệm vụ chiến đấu gian nan nhưng trong lòng luôn nghĩ về gia đình, thương yêu con cái hết mực. Ông luôn muốn bù đắp những thiệt thòi cho đứa con trong những ngày không có tình thương của ba bên cạnh.

d) Truyện được kể theo lời trần thuật của nhân vật nào? Cách chọn ngôi kể như vậy có tác dụng gì trong việc xây dựng nhân vật và thể hiện nội dung tư tưởng của truyện?

– Truyện được kể theo ngôi thứ nhất, nhân vật xưng “tôi” là người bạn thân của ông Sáu.

– Câu chuyện về hai cha con thông qua lời kể của người bạn ông Sáu, đã tạo cho câu truyện tính khách quan chân thực và thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa những người đồng chí trong chiến đấu.

được viết và đăng báo trên tạp chí Văn nghệ năm 1948 – giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Truyện thể hiện chân thực, sinh động tình cảm yêu làng quê thống nhất với lòng yêu đất nước ở nhân vật ông Hai.

– Tác giả sáng tạo tình huống truyện có tính căng thẳng, thử thách.

– Xây dựng cốt truyện tâm lí (đó là chú trọng vào các tình huống bên trong nội tâm nhân vật).

– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tự nhiên mà sâu sắc, tinh tế.

– Ngôn ngữ đặc sắc, sinh động, mang đậm chất khẩu ngữ, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân.

sáng tác năm 1970, trong chuyến đi thực tế của tác giả ở Lào Cai.

Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” khắc họa thành công hình ảnh những con người lao động bình thường, mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng ở một mình trên đỉnh núi cao. Qua đó, truyện khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.

Phương thức tự sự kết hợp với miêu tả, biểu cảm.

Tình huống truyện hợp lí, cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn.

Nhân vật chính được miêu tả qua cái nhìn của các nhân vật khác.

Lời văn trong sáng, giàu chất thơ. Tiêu đề đậm chất trữ tình.

năm 1966 -khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ những năm kháng chiến chống Mĩ

Truyện “Chiếc lược ngà” đã thể hiện một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

– Xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí.

– Xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp.

– Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, nhất là đối với nhân vật bé Thu.

– Ngôn ngữ truyện mang đậm chất địa phương Nam Bộ.

Truyện còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau thương, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.

Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào đầu năm 1948 – sau chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947).

Bài thơ đã ca ngợi tình đồng chí hết sức thiêng liêng, như là một ngọn lửa vẫn cháy mãi, bập bùng không bao giờ tắt, ngọn lửa thắp sáng đêm đen của chiến tranh.

Thể thơ tự do với những câu dài ngắn đan xen đã giúp cho nhà thơ diễn tả hiện thực và bộc lộ cảm xúc một cách linh hoạt.

Hình ảnh thơ cụ thể,xác thực mà giàu sức khái quát.

Ngôn ngữ thơ hàm súc, cô đọng, giàu sức biểu cảm.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Thể thơ tự do ( kết hợp thể thơ 7 chữ và 8 chữ).

Ra đời năm 1969, nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969. Chùm thơ đã khẳng định giọng thơ riêng của của ông. Sau này bài thơ được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” (1970) của tác giả.

Bài thơ khắc họa hình ảnh lạ mắt: chiếc xe không kính, từ đó làm nổi bật hình ảnh của những người lính lái xe ở Trường Sơn với tư thế ung dung hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn cùng niềm lạc quan của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.

Giọng thơ ngang tàn, nghịch ngợm, rất gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, lời nói thường ngày nhưng vẫn thú vị và giàu chất thơ.

Hình ảnh thơ độc đáo, đặc sắc.

Phương thức biểu đạt: biểu cảm

Thể thơ 7 chữ.

Bài thơ được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới.

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.

Cảm hứng vũ trụ, cảm hứng lãng mạn.

Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo; có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan.

Phương thức biểu đạt: biểu cảm kết hợp miêu tả.

Thể thơ 8 chữ kết hợp với 7 chữ, 9 chữ.

Sáng tác năm 1963, khi nhà thơ đang là sinh viên theo học ngành Luật tại nước Nga.

Bài thơ là những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, nhớ lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu. Qua đó, bộc lộ những tình cảm sâu nặng đối với gia đình, quê hương, đất nước.

Giọng điệu tâm tình, thiết tha, tự nhiên, chân thành.

Sáng tạo hình ảnh bếp lửa – hình ảnh vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng.

Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ

Bài thơ được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971 – những năm tháng quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ.

Bài thơ bộc lộ tình yêu thương đằm thắm của người mẹ đối với con, tình cảm gắn bó với quê hương, với cuộc sống lao động và chiến đấu nơi núi rừng chiến khu, dù còn gian nan vất vả; đồng thời gửi gắm ước vọng con mau lớn khôn, khỏe mạnh, trở thành công dân của một đất nước tự do.

Cấu trúc lặp đi lặp lại của lời ru vừa tạo giọng điệu trữ tình, tha thiết, vừa mở rộng và xoáy sâu vào lòng người đọc sự ngọt ngào, trìu mến.

– Thể thơ 5 chữ

Nguyễn Duy viết bài thơ “Ánh trăng” vào năm 1978 ,tại thành phố Hồ Chí Minh -nơi đô thị của cuộc sống tiện nghi hiện đại, nơi những người từ trận đánh trở về đã để lại sau lưng cuộc chiến gian khổ mà nghĩa tình.

Bài thơ là một lời tự nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Qua đó, gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

Giọng thơ mang tính tự bạch, tâm tình, nhỏ nhẹ và chân thành sâu sắc.

Hình ảnh vầng trăng – “ánh trăng” mang nhiều tầng ý nghĩa.

Ngôn ngữ thơ giản dị nhưng vô cùng hàn sức và mang ý nghĩa sâu xa.

-Phương thức biểu đạt tự sự kết hợp với trữ tình.

Học sinh tự nghiên cứu.

3. Luyện tập về Tiếng Việt

a) Đọc đoạn trích và trả lời câu hỏi

Nghe mẹ nó bảo gọi ba vào ăn cơm thì nó bảo lại:

– Thì má cứ kêu đi

Mẹ nó đâm nổi giận quơ đũa bếp dọa đánh, nó phải gọi nhưng lại nói trổng:

– Vô ăn cơm!

(Nguyễn Quang Sáng, Chiếc lược ngà)

(1) Câu “Vô ăn cơm!” của bé Thu vi phạm phương châm hội thoại nào? Hãy sửa lại câu trên để đảm bảo phương châm hội thoại khi giao tiếp.

Câu “Vô ăn cơm!” của bé Thu vi phạm phương châm lịch sự.

Sửa lại:

VD: – Con mời ba vô ăn cơm!

(2) Bằng hiểu biết của mình sau khi đọc truyện ngắn Chiếc lược ngà, hãy giải thích lí do vì sao bé Thu vi phạm phương châm hội thoại trong đoạn trích trên.

Bé Thu cố tình vi phạm phương châm lịch sự vì lúc này bé chưa nhận ra ông sáu là ba mình nên bé không muốn dùng từ “ba” để gọi ông Sáu.

b) Vận dụng một số kiến thức đã học về một số phép tu từ từ vựng để phân tích nét nghệ thuật độc đáo trong những đoạn trích sau:

(1)

Một dãy núi mà hai màu mây Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khác Như anh với em, như Nam với Bắc Như đông với tây một dải rừng liền. (Phạm Tiến Duật, Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây)

(2) Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó.

(Nguyễn Quang Sáng, Chiếc lược ngà)

(3)

Đồng chiêm phả nắng lên không(Nguyễn Duy, Tiếng hát mùa gặt) “Như anh với em, như Nam với Bắc Như đông với tây một dải rừng liền.” Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàngGió nâng tiếng hát chói changLong lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời.

(1) Tác giả sử dụng biện pháp so sánh trong hai câu thơ:

Thông qua phép tu từ, tác giả muốn khẳng định giữa anh và em, giữa hai miền Nam và Bắc tuy khác nhau mà là một, giống như mây, mưa, khí trời, … của hai bên Trường Sơn tuy khác nhau mà lại liền một dải núi.

(2) Câu văn sử dụng những biện pháp tu từ:

So sánh: “Tiếng kêu của nó như tiếng xé”

Điệp từ: “xé”

Nói quá: “xé cả ruột gan mọi người”

Những biện pháp nghệ thuật trên giúp thể hiện tình cảm mãnh liệt của bé Thu – tình yêu và nỗi mong nhớ người cha xa cách bấy lâu nay bùng lên thật mạnh mẽ. Đồng thời còn bộc lộ được niềm xúc động của người kể chuyện và mọi người khi được chứng kiến cảnh chia tay đó.

(3) Trong đoạn thơ, tác giả đã sử dụng một loạt các biện pháp tu từ đặc sắc sau:

Nhân hóa: Đồng chiêm phả nắng; cánh cò dẫn gió; gió nâng tiếng hát; lưỡi hái liếm ngang.

Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: “Tiếng hát chói chang”

(Nguyễn Quang Sáng, Chiếc lược ngà)

Đảo trật tự từ: “Long lanh lưỡi hái”

Nói quá: “Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời.”

Các biện pháp tu từ trên kết hợp với cách sử dụng nhiều hình ảnh đẹp với màu sắc tươi tắn rực rỡ, với cách sử dụng nhiều động từ độc đáo, nhà thơ đã khắc họa bức tranh về mùa vàng bội thu. Bức tranh ấy vừa có vẻ đẹp của thiên nhiên khoáng đạt, rộng lớn, vừa toát lên niềm vui, niềm hăng say lao động của con người.

4. Luyện tập về tập làm văn

a) Đọc đoạn trích và trả lời câu hỏi

Con bé thấy lạ quá, nó chớp mắt nhìn tôi như muốn hỏi đó là ai, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má!”. Còn anh, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy.

(1) Đoạn trích trên được kể theo ngôi kể nào?

Đoạn trích được kể theo ngôi kể thứ nhất.

(2) Tác giả sử dụng đối thoại, độc thoại hay độc thoại nội tâm? Vai trò. Tác dụng của yếu tố này trong đoạn trích trên?

Tác giả đã sử dụng hình thức độc thoại nội tâm.

Yếu tố này có tác dụng thể hiện được sự đồng cảm và cảm xúc của người kể chuyện – người chứng kiến cuộc gặp lại của hai cha con ông Sáu.

(3) Lẽ ra, cuộc gặp mặt sau tám năm xa cách sẽ ngập tràn niềm vui và hạnh phúc nhưng trong câu chuyện, cuộc gặp ấy lại khiến nhân vật “anh” đau đớn. Vì sao vậy? Hãy lí giải bằng một đoạn văn ngắn (trong đó có sử dụng yếu tố miêu tả nội tâm và nghị luận).

Ông Sáu đi chiến đấu xa nhà đã lâu, nay ông được về thăm nhà, khao khát đốt cháy lòng ông là được gặp con, được nghe con gọi tiếng “ba” để được ôm con vào lòng và sống những giây phút hạnh phúc bấy lâu ông mong đợi. Nhưng thật éo le, con bé không những không nhận ông là ba mà còn tỏ thái độ rất sợ hãi. Chính điều đó đã khiến ông hụt hẫng và đau đớn tột cùng.

b) Hệ thống lại kiến thức tập là, văn trong chương trình Ngữ văn lớp 9, học kì I một số nội dung lớn:

(1) Văn bản thuyết minh: các yếu tố miêu tả, tự sự trong văn bản thuyết minh.

* Sử dụng miêu tả trong thuyết minh giúp người đọc (nghe) hình dung cụ thể, sinh động hơn về đối tượng, làm tăng sức hấp dẫn cho văn bản thuyết minh. Miêu tả là dựa vào đặc điểm, tính chất khách quan của đối tượng, phát huy trí tưởng tượng, hư cấu; sử dụng nhiều yếu tố so sánh, liên tưởng, ít sử dụng số liệu cụ thể; dùng nhiều trong sáng tác văn học nghệ thuật; ngôn ngữ thường đa nghĩa.

* Các biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, điệp ngữ… góp phần làm sinh động, cụ thể cho nội dung thuyết minh.

* Ví dụ khi văn bản thuyết minh về ngôi trường. Yếu tố miêu tả sẽ chỉ rõ những đặc điểm về số phòng học, số lớp học, màu sơn của ngôi trường… Các yếu tố biện pháp nghệ thuật sẽ góp phần miêu tả sinh động, cụ thể, qua đó thể hiện được cảm xúc của người viết.

(2) Văn bản tự sự:

– Các yếu tố miêu tả nội tâm và nghị luận trong văn bản tự sự.

– Vai trò, tác dụng, hình thức thể hiện của các yếu tố đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự.

– Người kể chuyện trong văn bản tự sự.

Văn bản tự sự:

– Các yếu tố miêu tả nội tâm và nghị luận trong văn bản tự sự.

+ Con người trong thực tiễn đời sống bên cạnh những biểu hiện bên ngoài như hành động, cử chỉ, lời nói,… thì còn có đời sống nội tâm, tinh thần thầm kín bên trong như những suy nghĩ, cảm xúc, tư tưởng,… Mà một trong những yêu cầu quan trọng của văn tự sự đó là phải khắc hoạ được những diễn biến tâm trạng, trạng thái tâm lí nhân vật. Vì vậy, yếu tố miêu tả nội tâm là yếu tố cần thiết và quan trọng trong văn tự sự.

+ Trong lời kể, có khi người kể chuyện muốn thể hiện một sự đánh giá, nhận xét hoặc suy luận nào đó trước đối tượng, khi đó nghị luận được sử dụng. Nghị luận là một thao tác quan trọng giúp cho người kể bộc lộ tư tưởng, quan điểm của mình; hoặc được dùng để xây dựng tình huống triết lí nào đó trong truyện.

– Vai trò, tác dụng, hình thức thể hiện của các yếu tố đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự.

+ Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm là những hình thức quan trọng để thể hiện nhân vật trong văn bản tự sự.

+ Đối thoại là hình thức đối đáp, trò chuyện giữa hai hoặc nhiều người.

+ Trong văn bản tự sự, đối thoại được thể hiện bằng các gạch đầu dòng ở đầu lời trao và lời đáp (mỗi lượt lời là một lần gạch đầu dòng).

+ Vai trò: làm cho câu chuyện sống động như trong cuộc sống.

+ Độc thoại là lời của một người nào đó nói với chính mình hoặc với một ai đó trong tưởng tượng. Trong văn bản tự sự, khi người độc thoại nói thành lời thì phía trước câu nói có gạch đầu dòng.

+ Vai trò: bộc lộ trực tiếp thái độ, cảm xúc, tâm lí của nhân vật.

+ Độc thoại nội tâm: là lời độc thoại không cất lên thành lời (không có dấu gạch đầu dòng).

+ Vai trò: dễ đi sâu vào việc khám phá nội tâm nhân vật.

– Người kể chuyện trong văn bản tự sự.

+ Trong văn bản tự sự, ngươi kể chuyện thương đứng ở ngôi thứ nhất (xưng “tôi”) hoặc giấu mình trong ngôi thứ ba.

+ Người kể chuyện có vai trò dần dắt người đọc đi vào câu chuyện: giới thiệu nhân vật và tình huống, tả người và tả cảnh, đưa ra các nhận xét, đánh giá về những điều được kể.

D. Hoạt động vận dụng

Vận dụng kiến thức đã học để làm bài kiểm tra trên lớp về thơ và truyện hiện đại. Gợi ý một số nội dung kiểm tra như sau:

1. Phân tích nét nổi bật trong tính cách nhân vật ông Hai (truyện ngắn Làng của Kim Lân). Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật này của tác giả. Quan hệ giữa tình yêu làng quê và lòng yêu nước của nhân vật ông Hai.

Học sinh tham khảo làm bài theo những ý chính sau:

– Nét tính cách đầu tiên và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha thiết đối với làng ông. Mỗi làn “khoe” làng với ai, ông đều nói bằng sự say mê và náo nức lạ thường. Tối này đến tối khác, ông nói đi nói lại về cái làng của ông. Những tâm sự của ông Hai ở nơi tản cư là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một niềm tự hào chân chính.

– Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện nổi bật và đậm nét nhất khi ông nghe tin làng ông theo Tây. Tin tức đó như sét đánh ngang tai, ông từ chối tin vào điều đó. “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ.” Ông vô cùng đau đớn, xót xa, tủi nhục giống như niềm tin và tình yêu của ông bị phản bội

– Tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Ông xấu hổ, trốn tránh mỗi khi nghe thấy ai bàn tán về tin làng chợ Dầu theo Tây, Việt gian. Cái tin đồn quái ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình luôn đè nặng lên tâm trí ông. Và rồi đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm sâu đậm với làng quê, và vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ hơn.

– Bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông Hai còn ghi dấu trong mắt người đọc bằng lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ.”

– Khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới được vẽ lên hoàn chỉnh. Ông Hai như sống lại, khuôn mặt rạng rỡ tươi vui hẳn lên. Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được thể hiện một cách chân thực, cảm động.

– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật: Tác giả miêu tả tâm lý nhân vật qua hành động, ngôn ngữ độc thoại, đối thoại, rất hợp lý. Từ chỗ đau đớn rụng rời đến chỗ bế tắc tuyệt vọng và cuối cùng là sung sướng, hả hê, giải tỏa tâm lý bằng cái tin cải chính. Nhân vật được hồi sinh.

2. Vẻ đẹp trong cách sống, trong tâm hồn và trong những suy nghĩ của nhân vật anh thanh một mình trên trạm khí tượng giữa núi cao trong truyện Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long.

Dù sống một mình trên đỉnh núi cao với công việc lặng lẽ trôi qua hàng ngày, nhưng nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm vô cùng tự hào về công việc của mình. Anh đã tự bồi đắp tâm hồn mình những tình cảm yêu mến với nghề nghiệp và với quê hương đất nước

– Anh là người mến khách (vui mừng, cảm động khi có khách đến thăm).

– Là người sống chu đáo, biết quan tâm đến mọi người (hái hoa tặng khách, chuẩn bị trứng luộc cho khách ăn trưa trên xe,…), ân cần, chu đáo với bác lái xe (gửi tam thất cho vợ bác).

– Là người say mê công việc, có tinh thần trách nhiệm cao: Công việc của anh hết sức vất vả nhưng anh vẫn rất nghiêm túc, đúng giờ. Hiệu quả làm việc rất cao, anh đã góp phần phát hiện ra đám mây khô giúp không quân ta bắn rơi máy bay Mĩ.

– Có nếp sống ngăn nắp, gọn gàng: căn phòng làm việc của anh sắp đặt rất gọn gàng đâu vào đấy, đặc biệt là một giá sách và một quyển sách đang đọc dở ở trên bàn chứng tỏ tinh thần học hỏi không ngừng.

– Vẻ đẹp tâm hồn cao đẹp, lãng mạn: ở một mình song anh vẫn trồng hoa thược dược, lay ơn đủ màu, vườn hoa ấy tươi đẹp như tâm hồn anh vậy.

– Luôn khiêm tốn, giản dị: anh nói rất ít về mình, để dành thời gian nói chuyện với mọi người, từ chối khi ông họa sĩ có ý định vẽ về anh, anh cho rằng có người khác còn xứng đáng hơn anh.

3. Cảm nghĩ của em về nhân vật bé Thu và tình cha con trong chiến tranh ở truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng.

– Câu chuyện cảm động về tình cha con của bé Thu và người cha tham gia kháng chiến đã để lại trong lòng người đọc những cảm xúc khó tả. Dù trải qua thời gian, qua những gian khổ của chiến tranh ác liệt, tình cha con vẫn nồng ấm, vẹn nguyên tình yêu thương.

– Xa nhà từ ngày con mới lọt lòng, anh Sáu luôn mong ước được trở về thăm con. Sau tám năm tham gia chiến đấu, anh trở về với khuôn mặt không còn lành lặn, có vết sẹo dài trên má. Nhìn thấy con, anh muốn ôm trầm lấy nó cho thỏa nỗi nhớ con nhưng bé Thu đã sợ hãi bỏ chạy. Những hình dung về ba của bé Thu khác xa so với hình ảnh thực tại. Thu ương bướng và chống đối anh Sáu, nhất định không chịu gọi anh một tiếng “Ba” chỉ vì em dành tình thương yêu đó cho người cha mà em thương nhớ. Người đọc như đau đớn, xót xa cho người cha trong tác phẩm, vì nhiệm vụ chiến đấu, vì chiến tranh ác liệt mà tình cha con xa cách. Thời gian trở về thăm nhà ít ỏi, anh đã cố gắng gần gũi con nhưng bé Thu càng tìm cách xa lánh. Ngày anh chuẩn bị lên đường tiếp tục làm nhiệm vụ, bé Thu được bà ngoại giải thích đã hiểu ra nguyên nhân của vết sẹo dài trên má ba. Khi nhận ra cha “hai tay em ôm chặt cổ ba…” như muốn giữ anh Sáu ở mãi bên cạnh. Mọi cảm xúc như vỡ òa giữa hai cha con, cái ôm thắm thiết của Thu như muốn níu chân ba ở lại. Và rồi tất cả tình yêu thương cho con được anh Sáu dồn bao tâm huyết để làm chiếc lược ngà. Đó cũng là kỉ vật cuối cùng anh để lại cho con trước lúc hi sinh ở chiến trường.

– Những hành động của bé Thu tưởng chừng như trái ngược nhưng hoàn toàn phù hợp với những cảm xúc và suy nghĩ của em. Tình yêu em dành cho ba – người em chưa từng gặp mặt mà chỉ được nhìn qua tấm ảnh. Cô bé yêu ba, tự hào về ba, khắc ghi hình ảnh của ba trong bức tranh khi chụp chung với má. Đó là nét hồn nhiên, ngây thơ và tình thương yêu trong sáng của cô bé tuổi lên tám như em.

4. Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong hai bài thơ Đồng chí (Chính Hữu) và Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật).

Vẻ đẹp hiên ngang, dũng cảm trong chiến đấu:

– Anh lính trong “Đồng chí” dũng cảm rời quê hương ra đi rời bỏ cuốc cày, cầm vũ khí chiến đấu. Vì lí tưởng “súng bên súng, đầu sát bên đầu” mà anh đã ra đi để lại “ruộng nương, gian nhà”, bỏ lại sau lưng là gia đình và làng quê để lên đường tham gia cách mạng.

– Anh lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” có khác hơn. Anh hiên ngang đối mặt với bom đạn kẻ thù,ngồi vào những chiếc xe bị lột từng lúc một cách trần trụi “không có kính…ta ngồi”. Vì xe vỡ kính, anh bình tĩnh đối diện với bao khó khăn tràn vào “không có kính ừ thì có bụi”, “không có kính ừ thì ướt áo”. Con đường Phải là người bình tĩnh mới có thể đương đầu với thế giới bên ngoài”Nhìn thấy…buồng lái”

Vẻ đẹp lạc quan, yêu đời

– Trong “Đồng chí” người dù thiếu thốn “áo rách vai”, “quần vài mảnh vá” vẫn không nề hà. Anh và đồng đội đã vượt qua những cơn “sốt run người” hay những lúc “vầng trán ướt mồ hôi”. Tuy gian khổ nhưng anh vẫn mỉm cười vượt qua… “Áo anh…không giày”.

– Trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” người lính dù “mưa tuôn mưa xối” dù “bụi phun tóc trắng” vẫn ung dung đối mặt, xem thường khó khăn, lấy gian khổ làm thử thách cho cuộc đời mình, lạc quan yêu đời…hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam. “Chưa cần chúng tôi thôi”.

5. Tình yêu con và lòng yêu nước, gắn bó với cách mạng của người mẹ Tà ôi biểu hiện trong những lời ru ở bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm.

Qua những câu hát ru ta thấy tình cảm của mẹ đối với con là tình yêu đằm thắm lớn lao. Mẹ yêu con, mong con khôn lớn trưởng thành, mong con được sống trong hòa bình. Tình yêu con được gửi gắm qua lời ru với những ước mơ dịu ngọt.

– Mẹ giã gạo nên mẹ mơ con lớn “Vung chầy lún sân” giã những hạt gạo trắng ngần.

– Mẹ địu con ra trận nên mẹ mơ thấy Bác Hồ, nghĩa là mơ thấy đất nước thống nhất, Bắc Nam sum họp và “Mai sau con lớn làm người tự do”.

– Tình cảm và khát vọng của người mẹ ngày càng lớn rộng, ngày càng đi từ riêng đến chung, đi từ quê hương tới đất nước.

Tình yêu con của người mẹ Tà – ôi gắn với tình thương anh bộ đội, buôn làng và cao hơn nữa là sự gắn bó với tình yêu quê hương đất nước. Tình cảm riêng chung đã hòa làm một. Tình yêu con gắn liền với tình yêu quê hương đất nước, tình yêu với lao động sản xuất.