Soạn Văn 9 Bài Mưa Phùn / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Soạn Bài: Mưa – Ngữ Văn 6 – Tập 2

I. Tác giả (mời các em tham khảo SGK Ngữ văn 6 Tập 2)

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

Bài thơ này tả cơn mưa rào ở vùng đồng bằng Bắc Bộ kèm với mưa thường có giông, sấm chớp, gió mạnh.

Bài thơ tả cơn mưa theo hai giai đoạn: lúc sắp mưa và khi trời mưa. Bốn câu cuối cùng khi trời mưa có thể tách thành một phần riêng. Từ đó, chúng ta có thể chia bài thơ thành 3 đoạn:

Đoạn 3: còn lại: Hình ảnh người nông dân trong mưa thật to lớn, đẹp đẽ.

Câu 2:

Bài thơ được làm theo thể thơ tự do, cách ngắt nhịp linh hoạt bao gồm nhịp 1,2,3,4 mà đa phần là nhịp 2. Chính điều này đã tạo nên sự thuận lợi cho việc diễn tả một cách phóng túng những quan sát về sự vật của người viết.

Câu 3:

Bài thơ đã miêu tả rất sinh động trạng thái và hoạt động của nhiều cây cối, loài vật trước và trong cơn mưa.

a) Tác giả đã sử dụng hàng loạt các động từ, tính từ để miêu tả sự vật rất độc đáo, thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả:

Mối trẻ bay cao, mối già bay thấp

Ông trời và kiến như chuẩn bị tham gia trận đánh nên mặc áo giáp đen, hành quân đầy đường

Mỗi sự vật đều đón chờ cơn mưa với niềm vui riêng, thể hiện những tình cảm riêng, tính cách riêng.

Những động từ và tính từ miêu tả như rối rít, hành quân, múa, rung tai nghe, đu đưa,… Những tính từ như tròn trọc lóc, mù trắng, chéo, chồm chồm, hả hê,… đều được sử dụng rất đúng chỗ, góp phần miêu tả sinh động cảnh vật.

b) Những phép nhân hóa được sử dụng để miêu tả thiên nhiên trong bài thơ: ông trời mặc áo, mía múa gươm, kiến hành quân, cỏ gà rụng tai nghe, bụi tre tần ngần gỡ tóc, hàng bưởi bế lũ con đầu tròn trọc lóc, sấm ghé xuống sân khanh khách cười, cây dừa sử dụng tay bơi, ngọn mùng tơi nhảy múa,…

Câu 4:

Gần hết bài thơ chỉ miêu tả thiên nhiên, cho đến cuối bài thơ mới xuất hiện hình ảnh con người:

Bố em đi cày

Đội sấm

Đội chớp

Đội cả trời mưa…

Ông bố ở đây chỉ là một người nông dân bình thường, nhưng qua những từ ngữ của câu thơ, hình ảnh người bố lại trở nên thật lớn lao, phi thường, ông đội cả sấm, cả chớp, cả một trời mưa. Hình ảnh người nông dân có tầm vóc lớn lao với tư thế vững vàng, hiên ngang, như một vị thần đầu đội trời, chân đạp đất có thể so sánh với sức mạnh của thiên nhiên. Có thể nói, trong con mắt nhìn của một em bé, người bố trở nên thật lớn lao, vĩ đại.

2.2

/

5

(

29

bình chọn

)

Soạn Bài Mưa Trang 78 Văn 6

Cơn mưa được tả qua hai giai đoạn: lúc sắp mưa và lúc đang mưa. Dựa vào thứ tự miêu tả, em hãy tìm bố cục của bài thơ.

Tra lời:

– Bài thơ tả cơn mưa ở vùng nông thôn Bắc Bộ vào mùa hè.

– Bố cục: 2 phần:

+ Từ đầu đến ” Đầu tròn- trọc lốc quang cảnh lúc sắp mưa. .

+ Phần còn lại: cảnh trong cơn mưa.

Câu 2: Nhận xét về thể thơ, cách ngắt nhịp, gieo vần trong bài thơ và nêu tác dụng đối với việc thể hiện nội dung (tả trận mưa rào ở làng quê).

Trá lòi:

Trong bài thơ, tác giả đã sử dụng thể thơ tự do với những câu thơ ngắn chỉ từ một đến bốn chữ, nhịp điệu nhanh, dồn dập cùng với cách gieo vần linh hoạt (vần chân – vần cách: ra – già, thấp – nấp; vần liền: con – trộn, nghe – tre…) đã góp phần quan trọng nhịp nhanh và mạnh theo từng đợt dồn dập và mạnh của cơn mưa rào mùa hè.

Câu 3: Bài thơ miêu tả rất sinh động trạng thái và hoạt động của nhiều cây cối, loài vật trước và sau cơn mưa. Em hãy tìm hiểu:

a) Hình dáng, trạng thái, hoạt động của mỗi loài lúc sắp mưa và trong cơn mưa. Tìm những động từ và tính từ miêu tả và nhận xét về việc sử dụng các từ ấy.

b) Nêu các trường hợp sử dụng phép nhân hoá để miêu tả thiên nhiên trong bài thơ ẵ Hãy phân tích tác dụng của biện pháp ấy trong một số trường hợp đặc sắc.

Trá lòi:

a) Tác giả đã sử dụng hàng loạt các động từ, tính từ miêu tả các sự vật rất độc đáo, thể hiện sự quan sát tinh tế:

– Mối trẻ bay cao; Mối già bay thấp

– Ông trời và kiến như chuẩn bị tham gia trận đánh nên mặc áo giáp đen, hành quân đầy đường.

– Mỗi sự vật đều đón chờ cơn mưa với niém vui riêng thể hiện những tình cảm riêng, tính cách riêng:

+ Cỏ gà rung tai nghe + Bụi tre tần ngần gỡ tóc +Hàng bưởi đu đưa bế lũ con + Chớp khô khốc + Sấm khanh kliách cười + Cây dừa sải tay bơi + Ngọn mồng tơi nliáy múa.

Việc sử dụng các động từ, tính từ như trên đã làm cho thế giới cây cối, loài vật trở nên phong phú, sinh động về tâm hồn như con người,

b) Phép nhân hoá được sử dụng rộng rãi và rất chính xác, ví dụ:

“Ồng trời mặc áo giáp đen – Ra trận – Muôn nghìn cây mía – Múa gươm – Kiến – Hành quân – Đầy dường…” – những hình ảnh nhân hoá đã tạo nên cảnh tượng một cuộc ra trận với khí thế mạnh mẽ, khẩn trương. “Ông trời – Mặc áo giáp đen” là cảnh những đám mây đen che phủ cả bầu trời như một lớp áo giáp của một dũng tướng ra trận. Còn ” Muôn nghìn cây mía ” lá nhọn, sắc quay cuồng trong gió được hình dung như những lưỡi gươm khua lên trong tay các chiến sĩ của một đội quân đông đảo; kiến đi từng đàn vội vã có hàng lối như một hàng quân đang hành quân khẩn trương.

– Cỏ gà rung tai – Nghe – Bụi tre – Tần ngấn – Gỡ tóc: từ hình dáng của cây cỏ gà và động tác rung rinh của nó trong cơn gió mà tác giả hình dung ra như cái tai cỏ gà rung lên để nghe; còn những cành tre và lá tre bị gió thổi mạnh thì được hình dung như mớ tóc của bụi tre đang gỡ rối.

Câu 4: Gần hết bài thơ chỉ miêu tả thiên nhiên, đến cuối bài mới hình ảnh con người:

Bố em đi cày về

Đội sấm Đội chớp

Đội cả trời mưa …

Em hãy nhận xét về ý nghĩa biểu tượng cho tư thế, sức mạnh và vẻ đẹp của con người trước thiên nhiên trong hình ảnh trên.

Trả lời:

Ở cuối bài thơ con người mới xuất hiện trên cái nền thiên nhiên dữ dội, hùng vĩ tạo nên ý nghĩa biểu tượng: Ca ngợi vẻ đẹp lao động cần cù của con người nông dân bình dị chống chọi, vượt qua và chiến thắng những trở ngại của thiên nhiên Ề Hình ảnh này được xây dựng theo lối ẩn dụ khoa trương. Người cha đi cày vể dưới trời mưa đã được tác giả nhìn như là: Đội sấm – Đội chớp – Đội cả trời mưa… Nhờ thế, các câu thơ này đã dựng lên được hình ảnh con người có tầm vóc lớn lao và tư thế hiên ngang, sức mạnh to lớn có thể sánh với thiên nhiên vũ trụ.

Soạn Bài Lượm; Mưa Sbt Ngữ Văn 6 Tập 2

1. Hình ảnh chú bé liên lạc hiện lên như thế nào qua sự miêu tả của tác giả trong năm khổ thơ đầu bài Lượm ?

Các thủ pháp nghệ thuật như thể thơ, nhịp điệu, từ láy đã góp phần vào sự thành công trong miêu tả hình ảnh Lượm như thế nào ?

2. Ở phần cuối bài thơ, sau khi đã miêu tả sự hi sinh của Lượm, vì sao tác giả lại viết: “Lượm ơi, còn không ?” và tiếp đó lại tái hiện hình ảnh Lượm vui tươi, hồn nhiên ?

3. Dựa vào bài thơ, em hãy viết một đoạn văn tả chuyến đi liên lạc cuối cùng và sự hi sinh của Lượm, nêu cảm nghĩ của mình.

4. Thể thơ và nhịp điệu trong bài Mưa có gì đặc biệt và đã góp phần thể hiện nội dung bài thơ như thế nào ?

5. Phép nhân hoá được sử dụng rộng rãi trong bài Mưa. Hãy nêu một số trường hợp mà em thấy là đặc sắc và phân tích giá trị của phép nhân hoá trong những trường hợp ấy.

6. Giải thích ý nghĩa của hình ảnh con người ” Đội sấm / Đội chớp / Đội cả trời mưa…” trong bốn câu thơ cuối của bài Mưa.

Gợi ý làm bài

1. Trong đoạn thơ từ khổ thứ hai đến khổ thứ năm, hình ảnh Lượm hiện lên rất sinh động, cụ thể và rõ nét qua các chi tiết miêu tả của tác giả. Em hãy tìm các chi tiết tả trang phục, hình dáng, cử chỉ, lời nói của Lượm, vừa đúng là một chiến sĩ liên lạc thực thụ lại vẫn mang nét hồn nhiên, vui tươi, tinh nghịch của một chú bé.

Đoạn thơ với thể thơ bốn tiếng, nhịp nhanh, sử dụng nhiều từ láy ( loắt choắt, thoăn thoắt, nghênh nghênh,…) góp phần thể hiện hình ảnh đáng yêu của Lượm – một chú bé liên lạc hồn nhiên, vui tươi, say mê tham gia công tác kháng chiến.

2. Câu thơ “Lượm ơi, còn không ?” đặt ở cuối bài thơ như một câu hỏi của nhà thơ, vừa đau xót vừa ngỡ ngàng, không muốn tin rằng Lượm đã không còn nữa. Hai khổ thơ cuối tái hiện hình ảnh Lượm nhanh nhẹn, vui tươi, hồn nhiên như đã trả lời cho câu hỏi trên bằng sự khăng định : Hình ảnh Lượm vẫn sống mãi trong lòng nhà thơ và còn mãi với quê hương, đất nước.

3. Tham khảo đoạn văn sau :

Đọc bài thơ, hình ảnh chú bé liên lạc hiện lên với dáng vẻ nhanh nhẹn, tháo vát, hồn nhiên, đáng mến. Lượm say mê tham gia kháng chiến, bất chấp nguy hiểm. Rồi một hôm, vẫn như mọi lần, Lượm bỏ thư vào bao, khoác lên vai, bước nhanh trên con đường quê. Nhưng con đường Lượm đi đâu phải là con đường vàng nắng của chú chim chích trong buổi bình yên ! Lượm phải vượt qua nơi chiến sự ác liệt, đầy nguy hiểm. “Đạn bay vèo vèo” qua đầu nhưng Lượm không sợ. Cái bóng nhỏ bé của Lượm “Vụt qua mặt trận” để hoàn thành nhiệm vụ chuyển thư “Thượng khẩn”:

Nhấp nhô trên đồng…

Nhưng:

Bỗng loè chớp đỏ

Thôi rồi, Lượm ơi !

chú ngã xuống, dòng máu đỏ tươi thấm đẫm làn áo vải. Lượm đã ngã xuống nhưng trong tay vẫn nắm chặt bông lúa. Lượm nằm như đang chìm vào giấc ngủ say sưa trên thảm lúa. Tưởng như Lượm vẫn để lại trên môi nụ cười thanh thản, nụ cười ngây thơ và đáng yêu. Lượm vẫn còn mãi trong lòng dân tộc, trong mỗi chúng ta.

4. Trong bài Mưa, thể thơ tự do với những câu thơ ngắn (từ một đến bốn chữ, phần lớn là hai chữ) và nhịp nhanh, dồn dập cùng những động từ chỉ hoạt động khẩn trương đã góp phần quan trọng miêu tả cơn mưa rào mùa hè.

5. Một số trường hợp sử dụng phép nhân hoá có giá trị đặc sắc trong bài thơ : ông trời mặc áo giáp đen ra trận, muôn nghìn cây mía múa gươm, kiến hành quân, bụi tre tần ngần gỡ tóc, hàng bưởi đu đưa bế lũ con đầu tròn trọc lốc.

Trong ba ví dụ đầu, hình ảnh nhân hoá đã tạo nên khung cảnh một cuộc chiến đấu với khí thế mạnh mẽ, khẩn trương : Ông trời mặc áo giáp đen là cảnh những đám mây đen phủ cả bầu trời. Muôn nghìn cây mía lá nhọn, sắc, lay động mạnh trong gió được hình dung như những lưỡi gươm khua lên trong tay các chiến sĩ của một đội quân đông đảo. Kiến đi từng đàn vội vã và có hàng lối như một đoàn quân đang hành quân khẩn trương. Phép so sánh, nhân hoá ở đây vừa chính xác vừa độc đáo, lại phù hợp với không khí thời chiến (khi tác giả viết bài thơ này).

6. Hình ảnh trong bốn câu thơ cuối bài được tạo lập theo cách vừa tả thực vừa tượng trưng : Người cha đi cày về dưới trời mưa đã được tác giả nhìn như là đội sấm, chớp, đội cả trời mưa. Các câu thơ này đã dựng lên được hình ảnh con người không hề nhỏ bé trước sức mạnh của thiên nhiên, mà có tầm vóc lớn lao và tư thế hiên ngang, sức mạnh to lớn có thể sánh với thiên nhiên, vũ trụ.

chúng tôi

Soạn Bài Mưa Lớp 6

Soạn bài Mưa Lớp 6 thuộc: Bài 24 SGK ngữ văn 6

1. Bài thơ Mưa của Trần Đăng Khoa tả cơn mưa ở vùng nào và vào mùa nào?

Cơn mưa được tả qua hai giai đoạn: lúc sắp mưa và lúc đang mưa. Dựa vào thứ tự miêu tả, em hãy tìm bố cục của bài thơ. Trả lời:

– Bài thơ tả cơn mưa ở vùng nông thôn Bắc Bộ vào mùa hè.

– Bố cục: 2 phần:

+ Từ đầu đến ” Đầu tròn- trọc lốc”: quang cảnh lúc sắp mưa. .

+ Phần còn lại: cảnh trong cơn mưa.

2. Nhận xét về thể thơ, cách ngắt nhịp, gieo vần trong bài thơ và nêu tác dụng đối với việc thể hiện nội dung (tả trận mưa rào ở làng quê).

Trả lời:

Trong bài thơ, tác giả đã sử dụng thể thơ tự do với những câu thơ ngắn chỉ từ một đến bốn chữ, nhịp điệu nhanh, dồn dập cùng với cách gieo vần linh hoạt (vần chân – vần cách: ra – già, thấp – nấp; vần liền: con – trộn, nghe – tre…) đã góp phần quan trọng nhịp nhanh và mạnh theo từng đợt dồn dập và mạnh của cơn mưa rào mùa hè.

3. Bài thơ miêu tả rất sinh động trạng thái và hoạt động của nhiều cây cối, loài vật trước và sau cơn mưa. Em hãy tìm hiểu:

a) Hình dáng, trạng thái, hoạt động của mỗi loài lúc sắp mưa và trong cơn mưa. Tìm những động từ và tính từ miêu tả và nhận xét về việc sử dụng các từ ấy. b) Nêu các trường hợp sử dụng phép nhân hoá để miêu tả thiên nhiên trong bài thơ. Hãy phân tích tác dụng của biện pháp ấy trong một số trường hợp đặc sắc. Trả lời:

a) Tác giả đã sử dụng hàng loạt các động từ, tính từ miêu tả các sự vật rất độc đáo, thể hiện sự quan sát tinh tế:

– Mối trẻ bay cao; Mối già bay thấp

– Ông trời và kiến như chuẩn bị tham gia trận đánh nên mặc áo giáp đen, hành quân đầy đường.

– Mỗi sự vật đều đón chờ cơn mưa với niềm vui riêng thể hiện những tình cảm riêng, tính cách riêng:

+ Cỏ gà rung tai nghe

+ Bụi tre tần ngần gỡ tóc

+ Hàng bưởi đu đưa bế lũ con

+ Chớp khô khốc

+ Sấm khanh khách cười

+ Cây dừa sải tay bơi

+ Ngọn mồng tơi nhảy múa.

Việc sử dụng các động từ, tính từ như trên đã làm cho thế giới cây cối, loài vật trở nên phong phú, sinh động về tâm hồn như con người,

b) Phép nhân hoá được sử dụng rộng rãi và rất chính xác, ví dụ:

“Ông trời mặc áo giáp đen – Ra trận – Muôn nghìn cây mía – Múa gươm – Kiến – Hành quân – Đầy dường…” – những hình ảnh nhân hoá đã tạo nên cảnh tượng một cuộc ra trận với khí thế mạnh mẽ, khẩn trương. “Ông trời – Mặc áo giáp đen” là cảnh những đám mây đen che phủ cả bầu trời như một lớp áo giáp của một dũng tướng ra trận. Còn ” Muôn nghìn cây mía ” lá nhọn, sắc quay cuồng trong gió được hình dung như những lưỡi gươm khua lên trong tay các chiến sĩ của một đội quân đông đảo; kiến đi từng đàn vội vã có hàng lối như một hàng quân đang hành quân khẩn trương.

– Cỏ gà rung tai – Nghe – Bụi tre – Tần ngấn – Gỡ tóc: từ hình dáng của cây cỏ gà và động tác rung rinh của nó trong cơn gió mà tác giả hình dung ra như cái tai cỏ gà rung lên để nghe; còn những cành tre và lá tre bị gió thổi mạnh thì được hình dung như mớ tóc của bụi tre đang gỡ rối.

4. Gần hết bài thơ chỉ miêu tả thiên nhiên, đến cuối bài mới hình ảnh con người:

Bố em đi cày về Đội cả trời mưa … Em hãy nhận xét về ý nghĩa biểu tượng cho tư thế, sức mạnh và vẻ đẹp của con người trước thiên nhiên trong hình ảnh trên. Trả lời:

Ở cuối bài thơ con người mới xuất hiện trên cái nền thiên nhiên dữ dội, hùng vĩ tạo nên ý nghĩa biểu tượng: Ca ngợi vẻ đẹp lao động cần cù của con người nông dân bình dị chống chọi, vượt qua và chiến thắng những trở ngại của thiên nhiên. Hình ảnh này được xây dựng theo lối ẩn dụ khoa trương. Người cha đi cày vể dưới trời mưa đã được tác giả nhìn như là: Đội sấm – Đội chớp – Đội cả trời mưa… Nhờ thế, các câu thơ này đã dựng lên được hình ảnh con người có tầm vóc lớn lao và tư thế hiên ngang, sức mạnh to lớn có thể sánh với thiên nhiên vũ trụ.

LUYỆN TẬP

Quan sát và miêu tả cảnh mưa rào ở thành phố hay vùng núi, vùng biển hoặc mưa xuân ở làng quê. Trả lời: Mưa cuối mùa

Nửa đêm, bé chợt thức giấc vì tiếng động ầm ầm. Mưa xối xả. Cây cối trong vườn ngả nghiêng, nghiêng ngả trong ánh chớp nhoáng nhoàng sáng loà và tiếng sấm ì ầm lúc gần lúc xa. Giá như mọi khi thì bé đã chạy lại bên cửa sổ nhìn mưa rồi đấy. Bé rất thích trời mưa. Mưa làm cho khu vườn nhà bé tươi tốt và đẹp hơn lên gấp nhiều lần những lúc bình thường. Nhìn xuống dòng nước mưa tuôn từ trên trời cao xuống lấp lánh như bạc, lòng bé không khỏi xao động. Thú vị nhất là những lúc được tắm mình trong mưa. Bé lăn lê bò toài trong đám cỏ ngập nước, để mặc cho mưa xối tới tấp khắp thân mình trong tiếng cười giòn tan của bé.

Mưa mỗi lúc một to. Gió thổi tung những tấm rèm và lay giật các cánh cửa sổ làm chúng mở ra đóng vào rầm rầm.

Hơi nước mát lạnh phả vào ngập gian phòng. Mưa gió như cố ý mời gọi bé chạy ra chơi với chúng. Muốn ra lắm nhưng lại ngại. Mấy lần định nhổm dậy, sau lại thôi. Bé kéo chăn trùm kín cổ mơ mơ màng màng rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Sáng hôm sau trở dậy, bé vui sướng nhặt lên chiếc lá bồ đề vàng rực rơi ngay cạnh chân giường bé nằm. Bé chạy đến bên cửa sổ, ngước nhìn lên đỉnh ngọn cây bồ đề. Đúng là chiếc lá vàng duy nhất ấy rồi. Mấy hôm nay, bé đã nhìn thấy nó, muốn ngắt xuống quá mà không có cách gì ngắt được. Giữa trăm ngàn chiếc lá xanh bình thường, tự nhiên có một chiếc lá vàng rực đến nao lòng.

Sau trận mưa to đêm hôm ấy, suốt mấy tuần lễ tiếp sau, trời trong veo không một gợn mây. Mong mỏi mắt cơn mưa cũng không quay trở lại. Lúc bấy giờ bé mới chợt nhận ra mùa mưa đã chấm dứt. Thì ra, cơn mưa đêm ấy chính là cơn mưa cuối cùng để bắt đầu chuyển sang mùa khô.

Bé ân hận quá. Bé rất yêu trời mưa và trận mưa đêm hôm ấy đã đến chào từ biệt bé. Mưa đã mời gọi bé suốt mấy tiếng đồng hồ mà bé chẳng chịu ra gặp mưa. Chiếc lá bồ để vàng óng từ tít trên cao, mưa đã ngắt gửi xuống tặng cho bé, bé chẳng nhận ra sao?

Trần Hoài Dương – Những ngôi sao trong mưa.

Xem Video bài học trên YouTube

Giáo viên dạy thêm cấp 2 và 3, với kinh nghiệm dạy trực tuyến trên 5 năm ôn thi cho các bạn học sinh mất gốc, sở thích viết lách, dạy học