Soạn Văn 9 Bài Mùa Mắm Còng / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Chương 12 : Mùa Mắm Còng

Sáng dậy, gỡ tờ lịch, tiện mắt xem ngày âm, tôi biết bữa nay ngày mồng năm tháng năm, Tết Đoan ngọ, ngày tôi nhớ đời: dưới quê tới mùa còng lột, mùa mắn còng

Sáng dậy, gỡ tờ lịch, tiện mắt xem ngày âm, tôi biết bữa nay ngày mồng năm tháng năm, Tết Đoan ngọ, ngày tôi nhớ đời: dưới quê tới mùa còng lột, mùa mắn còng

Mọi năm, vào dịp này, sau ngày mồng năm chừng vài tuần, tôi thường được món quà: keo chao đựng mắm còng nhỏ xíu kèm theo vài trái chuốt chát của cậu Năm gởi từ quê lên.

Mắm làm bằng con còng lột chỉ là món ăn đồng nội đạm bạc của quê nghèo, vậy mà ngót mười lăm năm sau ngày giải phóng, năm nào, mùa còng nào cậu cũng gởi lên cho tôi. Vì một lý do riêng đối với cậu cháu tôi, mắm còng trở thành món ăn để hoài niệm.

Trong chiến tranh, cậu làm du kích, tôi làm phóng viên mặt trận. Năm đó, quê tôi là chiến trường, lại vào chiến dịch nên tôi thường về sống với đội du kích của cậu. Sông Ba Lai hạ nguồn mùa khô nước mặn đắng, dân lại tản cư, du kích mất nguồn tiếp tế nước ngọt và thức ăn.

Để có nước ngọt cầm hơi, du kích phải ngược dòng sông, bơi miết về trên nguồn nơi giáp nước, nhận xuồng cho nước ngọt tràn vào đầy óc ách rồi bơi về, tiện tặn chi xài cho qua mùa, qua chiến dịch

Có một lần, địch phục kích, mấy đội viên lấy nước ngọt không trở về nữa.

Còn thức ăn, du kích ăn toàn chữ C: thịt cò, cua, còng, cá chốt, đọt chà là, dây cóc kè… được coi là món ăn “chiến lược”. Căn cứ núp trong rừng cò, ăn tỉa cò mới ra ràng lột da, xẻo đùi hầm với củ hủ chà là hoặc rô ti đường chảy, ăn ngày này qua tháng nọ. Tỉnh ủy sợ lô căn cứ, sợ cò bỏ đi nên buộc phải ngưng, thế là tắt nguồn, chúng tôi phải quay sang cua, cá chốt. Những thứ này phải câu và cũng hiếm nên cứ phải luân phiên từ cá cua, tới còng.Mùa còng lột vỏ, mỗi năm một lần vào mồng năm tháng năm ta. Lớp áo giáp đủ màu được trút bỏ, những chú còng mềm như lụa, thân ngậm đầy sữa, chỉ cần nấu qua loa cũng thành món ăn “cao cấp” liền. Nhưng còng lột nhiều vô kể, ăn đâu hết một lần, nên phải làm mắm để dành ăn dài hạn cả năm. Lại cũng có mùa, mắm đầy hũ nhưng không nhá được vì nhớ tới máu của một đội viên du kích thấm vào đó…

Như thế, mùa mắm còng đâu chỉ là mùa mắm còng, nó đã trở thành mùa để nhớ quê nghèo, nhớ đồng đội, nhớ cậu Năm. Cậu biết vậy nên cứ tới mùa còng làm mắm gởi lên thành phố cho tôi. Lần duy nhất đích thân cậu mang lên cho tôi khi cậu về hưu cách đây ba năm nhưng cũng là lần buồn nhất: thằng con trai nhỏ bảy tuổi của tôi phản đối quyết liệt, không ăn mắm. Bảo nó mắm ngon, của ông Năm cực khổ mang từ quê lên, nó rán nhắm mắt nhắm mũi gắp một đũa tí tẹo. Chưa kịp nuốt nó đã nôn ra mật xanh mật vàng. Bàn ăn lặng đi. Cậu tôi buông đũa, làm bộ cười khà khà nhưng mặt tái đi như bị hớp hồn. Lầ đó cậu về, buồn, giận, thôi không gởi mắm còng, cũng không lên nữa.

Tôi tưởng cậu sống để vậy chết mang theo, người du kích già sẽ không tha thứ đứa cháu trai kêu bằng ông sanh ra tại chốn thị thành không biết giá trị mắm còng. Nào ngờ, chỉ mưới hôm sau tờ lịch mách bảo cho tôi mùa mắm còng tới, vợ tôi tới cơ quan làm việc thì nhận được cái giỏ đệm con con. Vừa mở ra đã nghe mùi khăng khẳng quen thuộc của mắm còng. Thật thần kỳ, cậu đã hết giận. Tháo bọc nylon xếp cạnh keo mắm còng ra còn thấy một gói chuốt khô, loại chuối hồng phơi nắng tại nhà! Trong bọc chuối hồng, có lá thư, nét chữ quen thuộc của cậu tôi xấu như gà bươi:

” Mắm còng tao gởi cho vợ chồng mày. Còn gói chuối hồng khô tao gửi cho thằng Dân, nó khôg ăn được mắm thì ăn chuối cũng không sao. Hôm hổm tao coi truyền hình thấy nó đờn tranh được giải thưởng tao mừng, hết giận. Không ăn mắm còng nhưng đờn được bài Khổng minh tọa lầu nhịp ngoại là tốt lắm, được cả xóm mình khen. Tao nay già rồi, vợ chồng mày có dịp dắt nó về cho tao thăm. Cậu”.

Vợ tôi vừa đọc thư vừa khóc. Còn tôi thì chỉ biết xếp bức thư lại để tối về nhà đọc riêng một mình.

Soạn Bài Mùa Xuân Nho Nhỏ, Ngữ Văn Lớp 9 Trang 55

Mùa xuân là mùa của cây cối đâm chồi nảy lộc và cũng là mùa khiến lòng người rạo rực và tràn đầy sức sống, thật vậy, với bài soạn văn lớp 9 các em sẽ được soạn bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải để hiểu hơn về vẻ đẹp của một mùa xuân như thế.

1. Soạn bài: Mùa xuân nho nhỏ, ngắn 1

2. Soạn bài: Mùa xuân nho nhỏ, ngắn 2

– Bài thơ được Thanh Hải triển khai theo mạch cảm xúc trước mùa xuân cùng đất trời và mùa xuân của con người trước mùa xuân lớn đất nước

+ Khổ đầu: Mùa xuân thiên nhiên.

+ Hai khổ 2,3: Mùa xuân của đất nước.

+ Hai khổ 4, 5: Mùa xuân của con người

+ Khổ thơ cuối: Mùa xuân của nghệ thuật.

– Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước được miêu tả qua:

– Hình ảnh: dòng sông, bông hoa, tiếng chim chiền chiện, người cầm súng, người ra đồng, lộc non trên lưng, lộc non trên nương mạ.

– Màu sắc: xanh, tím biếc.

– m thanh: vang trời, xôn xao

– Từ tượng thanh, tượng hình: long lanh rơi, đưa tay hứng, giắt đầy, trải dài, hối hả.

⟶ Cho thấy tình yêu say sưa, cảm nhận tinh tế của tác giả trước cảnh sắc đất nước vào thời khắc tươi đẹp.

– Đoạn thơ ” Ta làm con chim hót, …. Dù là khi tóc bạc” là khát vọng hoà mình, góp phần nhỏ bé của mình cho quê hương đất nước. Để có được mùa xuân tươi đẹp chung, Thanh Hải đã hoá mình thành một nốt nhạc giao hưởng giữa khúc ca mùa xuân của đất nước.

– Đoạn thơ gợi cho em cảm xúc về ý nghĩa cống hiến của mỗi chúng ta trong cuộc sống chung của quê hương, đất nước

– Bài thơ được viết theo thể năm chữ, âm hưởng nhẹ nhàng, dịu êm.

– Sử dụng từ tượng thanh, tượng hình, động từ, tính từ gợi hình ảnh, âm thanh sinh động, chân thực.

– Kết hợp tài tình những hình ảnh tự nhiên, giàu giá trị biểu cảm

– Giọng điệu thơ nhẹ nhàng, uyển chuyển, thể hiện được những biến chuyển tình cảm của tác giả và nội dung từng đoạn

– Nhan đề bài thơ gợi cho ta một tứ thơ mang tâm nguyện dâng hiến của tác giả cho mùa xuân tương lai đất nước

– Chủ đề của bài thơ là: Mùa xuân thiên nhiên, đất nước

– Mùa xuân hiện lên với cảm xúc từ dòng sông, bông hoa, con chim, tiếng hót là những thứ đại diện cho thiên nhiên tươi đẹp.

– Mùa xuân cùng với hình ảnh ” giọt long lanh” như sự vật được đưa lên thành những cảm nhận vô cùng tinh tế.

– Biện pháp nghệ thuật chuyển đổi cảm giác được vận dụng trong câu ” Từng giọt long lanh rơi/ tôi đưa tay tôi hứng” đã làm tăng thêm hình ảnh và ấn tượng cho đoạn thơ miêu tả cảnh sắc thiên nhiên và lòng say sưa yêu đời của thi sĩ.

Văn mẫu lớp 9 gồm có các bài văn về miêu tả, tự sự, chứng minh, nghị luận … được tuyển chọn từ các bài văn của các em học sinh giỏi. Với việc tham khảo Văn mẫu lớp 9 sẽ giúp các em học sinh có thêm nhiều ý tưởng cho bài viết, biết cách triển khai và sắp xếp ý để có bài văn hoàn chính.

https://thuthuat.taimienphi.vn/soan-van-lop-9-mua-xuan-nho-nho-30850n.aspx

Soạn Bài Mùa Xuân Nho Nhỏ Lớp 9

Soạn bài Mùa xuân nho nhỏ lớp 9

Bài Soạn bài Mùa xuân nho nhỏ thuộc: Bài 23 SGK ngữ văn 9

Câu 3. Phân tích đoạn thơ “Ta làm con chim hót… Dù là khi tóc bạc”. Đoạn thơ ấy gợi cho em những cảm nghĩ gì về ý nghĩa cuộc sống của mỗi con người.

1. Đọc nhiều lần bài thơ và tìm hiểu mạch cảm xúc trong bài (gợi ý: từ cảm xúc về thiên nhiên, đất nước dẫn đến suy nghĩ, ước nguyện của tác giả). Từ việc nhận ra mạch cảm xúc, hãy nêu bố cục của bài thơ.

Trả lời:

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được triển khai theo mạch cảm xúc và suy nghĩ như sau:

Từ mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, mạch cảm xúc và tư tưởng của tác giả dẫn đến mùa xuân của đất nước, của cách mạng và sau cùng là mùa xuân nho nhỏ của mỗi con người trong mùa xuân lớn của đât nước. Nói một cách khác, cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên đất nước trong lao động và chiến đấu, nghĩ về đất nước vất vả gian lao nhưng vần đi lên phía trước, nhà thơ nêu lên ước nguyện làm một Mùa xuân nho nhỏ dâng cho đời, góp vào mùa xuân lớn của đât nước.

Bài thơ có thể chia làm hai phần:

1) Ba khổ thơ dầu: Cảm nhận về mùa xuân thiên nhiên, đất nước.

– Với màu sắc của hoa và âm thanh tiếng chim hót (khổ một).

– Nhận ra thế đi lên không gì ngăn cản nổi của đảng trong quá khứ và hiện tại (khổ ba).

2) Ba khổ còn lại: Mỗi cá nhân phải đóng góp phần mình vào mùa xuân chung ấy. Nhà thơ tự nguyện đóng góp một phần khiêm tốn một nốt trầm vào bản nhạc mùa xuân chung của đất nước.

2. Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước đã được miêu tả như thế nào qua những hình ảnh, màu sắc, âm thanh trong hai khổ thơ đầu?

Trả lời:

Khổ thơ đầu với sáu dòng thơ đã mở ra khung cảnh mùa xuân. Với nhịp điệu ngắn gọn, lời thơ hàm súc, chấm phá được cảnh sắc thiên nhiên:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi! con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời!

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng…”

“Mọc giữa dòng sông xanh. Một bông hoa tím biếc”. Tại sao lại là “dòng sông xanh” mà không phải là “dòng sông trong mát” Vàm Co Đông của Hoài Vũ hay “dòng sông đỏ nặng phù sa” của Nguyễn Đình Thi? Phải chăng màu xanh của dòng sông và sắc tím của bông hoa hòa hợp làm nên một cảm giác dịu mát lạ thường và đặc biệt là rất Huế. Chỉ với đôi nét điển hình đặc sắc đó của đất kinh đô thơ mộng đã đủ để nhà thơ dựng lên một không gian mùa xuân. Không gian ấy phóng khoáng, bay bổng, nhưng đằm thắm dịu dàng, tươi mát và đầy chất thơ. Tiếng hót vang trời của con chim chiền chiện – một loài chim quen thuộc thường xuât hiện vào mùa xuân – càng làm cho không gian ấy thêm náo nức lạ thường. Tấm lòng của nhà thơ trước khung cảnh mùa xuân tưởng như hiện rõ ra mồn một:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng…”

Tiếng chim nao nức được nhà thơ hình tượng hóa thật đẹp và thật gợi cảm. Giọt gì mà long lanh rơi. Tiếng chim hay mùa xuân đang nhỏ giọt? Âm thanh vốn chỉ được nghe thấy, ở đây nhà thơ cảm nhận được, nhìn thấy được “long lanh rơi” và đặc biệt hơn nửa là tiếp xúc được: “Tôi đưa tay tôi hứng”. “Hứng” là một động tác thể hiện sự trân trọng, nâng niu của nhà thơ đối với từng giọt mùa xuân, từng giọt hạnh phúc lắng đọng kết tinh của trời và sông, của chim và hoa.

Qua đoạn thơ mở đầu này trong khung cảnh mùa xuân của thiên nhiên ta hình dung được tâm trạng say mê, hào hứng của nhà thơ khi mùa xuân tới.

3. Phân tích đoạn thơ “Ta làm con chim hót… Dù là khi tóc bạc” (chú ý những hình ảnh biểu tượng, từ ngữ và cách diễn đạt rất gợi cảm thể hiện một ước nguyện chân thành của tác giả). Đoạn thơ ấy gợi cho em những cảm nghĩ gì về ý nghĩa cuộc sống của mỗi con người.

Trả lời:

Từ cảm xúc dạt dào trên, nhà thơ đã tâm niệm về mình:

“Ta Làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”.

Ta ở đây là nhà thơ mà cũng có thể là mọi người. Bài thơ phải chăng là một lời ước nguyện. Ta làm con chim, ta làm cành hoa, một nốt nhạc trầm nhập vào bản hòa ca, mang niềm vui đến cho cuộc đời. Ước nguyện ấy sao mà nhỏ bé và khiêm tốn! Trong cái lớn lao cao cả một mùa xuân đẹp, nhà thơ chỉ tự nguyện làm một tiếng chim hòa trong giọng hát của muôn loài chim, một cành hoa lẫn trong nương sắc của muôn hoa, một nốt trầm trong bản nhạc hòa ca xao xuyến lòng người. Nghĩa là ta là người góp phần mang đến niềm vui cho đời. Chỉ là một nốt trầm thôi nhưng là một nốt trầm có khả năng gây xao xuyến lòng người. Bốn câu thơ là một lời bày tỏ khát vọng muôn sông hữu ích cho đời.

Nốt trầm xao xuyến ấy cũng là tiếng hát lí tưởng cao cả của một con người muốn cống hiến sức mình cho nhân dân đất nước.

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc…”

Nhà thơ muốn mình là một “mùa xuân nho nhỏ” hòa vào mùa xuân bao la vô hạn, vô biên của cuộc đời, của mọi người, dù tuổi đang xuân hay khi đầu đang chớm bạc. Điệp từ “dù là” như một lời khẳng định, hay tự nhủ lòng mình kiên định dù phải đối mặt với tuổi già hay là bệnh tật. Nghĩa là dù trong bât cứ hoàn cảnh khắc nghiệt nào cũng phải nghĩ về cuộc đời, làm việc có ích cho xã hội. “Lặng lẽ dâng cho đời” là như vậy.

Cao quý xiết bao tấm lòng của nhà thơ!

Đó cũng chính là cách hiểu về nhan đề “Mùa xuân nho nhỏ” của bài thơ.

4. Bài thơ có nhạc điệu trong sáng, thiết tha, gợi cảm, gần gũi với dân ca. Những yếu tố như thể thơ, cách ngắt nhịp, gieo vần, điệp ngữ,… đã được sử dụng như thế nào để tạo được nhạc điệu ấy ?

Trả lời:

Những nét đặc sắc nghệ thuật của bài thơ này là tác giả đã sử dụng và sáng tạo những phương tiện và thủ pháp nghệ thuật phù hợp.

Trước tiên là thể thơ. Ông dùng thể thơ ngũ ngôn, một thể thơ gần gũi với các làn điệu dân ca, đặc biệt là dân ca miền Trung, vốn có âm hưởng dìu dặt, nhẹ nhàng, tha thiết, ở đây, Thanh Hải lại khéo dùng lối gieo vần liền giữa các khổ thơ đã tạo thành sự liền mạch cảm xúc cho cả bài thơ.

Nhà thơ cũng đã dùng những hình ảnh đẹp của thiên nhiên, những hình ảnh tự nhiên và giản dị giàu ý nghĩa tượng trưng khái quát để nói lên ước nguyện thiết tha của mình. “Ta làm con chim hót. Ta làm cành hoa”. Nên nhớ từ đầu bài thơ ông đã phác họa hình ảnh mùa xuân cũng bằng các chi tiết bông hoa và tiếng chim hót. Sự lặp lại có nâng cao đổi mới của hệ thống hình ảnh cũng là nét đặc sắc đáng chú ý cùa bài thơ.

Nhìn chung, Mùa xuân nho nhỏ được cấu tứ chặt chẽ với giọng điệu thể hiện đáng trân trọng, cảm xúc chân thành tha thiêt của tác giả. Theo sát nội dung của từng đoạn, giọng điệu bài thơ có sự biến hóa phù hợp đoạn đầu vui tươi say mê, trầm lắng, nghiêm trang ở đoạn giữa và sôi nổi thiết tha ở đoạn khép lại.

Trả lời:

Nhà thơ muốn mình là một mùa xuân nho nhỏ hòa vào mùa xuân bao la vô hạn, vô biên của cuộc đời, của con người, dù tuổi đang xuân hay khi đầu chớm bạc.

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi đôi mươi

Dù là khi tóc bạc…

Điệp từ dù là như một lời khẳng định, tự nhủ lòng mình kiên định, dù phải đối mặt với tuổi già hay bệnh tật. Nghĩa là dù trong bất cứ hoàn cảnh khắc nghiệt nào cũng phải nghĩ về cuộc đời, làm việc hữu ích cho xã hội.

Xem Video bài học trên YouTube

Giáo viên dạy thêm cấp 2 và 3, với kinh nghiệm dạy trực tuyến trên 5 năm ôn thi cho các bạn học sinh mất gốc, sở thích viết lách, dạy học

Soạn Văn Bài: Mùa Xuân Của Tôi

Soạn văn bài: Mùa xuân của tôi – Vũ Bằng

Đọc hiểu văn bản

Câu 1:

– Bài văn cảnh sắc và không khí mùa xuân ở Hà Nội.

– Hoàn cảnh và tâm trạng của tác giả.

Tác giả viết bài này khi đang ở Sài Gòn trước 1975 trong sự kiểm soát của Mĩ ngụy, sống xa quê hương, xa Hà Nội.

Tâm trạng nhớ thương da diết của người con sống ở phương Nam nhớ về đất bắc.

Câu 2: Bài tuỳ bút có thể chia thành ba đoạn:

Đoạn 1 (Từ đầu đến “mê luyến mùa xuân”): Những cảm nhận về quy luật tình cảm của con người với mùa xuân.

Đoạn 2 (tiếp theo đến “mở hội liên hoan”): Cảm nhận về cảnh sắc, không khí chung của mùa xuân ở Hà Nội và miền Bắc.

Đoạn 3 (phần còn lại): Cảnh sắc và không khí mùa xuân sau ngày rằm tháng giêng.

Ba đoạn liên kết với nhau bằng mạch cảm xúc: từ những quy luật tình cảm chung của con người đến những cảm nhận riêng về mùa xuân. Cuối cùng là những cảm nhận sâu sắc về tháng giêng. Đây là mạch cảm xúc được phát triển rất tự nhiên, hợp lôgíc.

Câu 3:

a. Cảnh sắc mùa xuân Hà Nội.

– Cảnh sắc của đất trời:

Màu sắc: Màu sông xanh, núi tím đắm say mộng ước.

Đường nét: Mưa riêu riêu, gió lành lạnh, đường sá không lầy lội, cái rét ngọt ngào.

Âm thanh: Tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, tiếng trống chèo, ấn tượng nhất là tiếng hát huê tình của cô gái đẹpnhư thơ mộng.

– Cảnh xuân với con người:

Nghi lễ đón xuân: Nhang trầm, đèn nến trên bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên.

Không khí gia đình: Đoàn tụ êm đềm trên kính dưới nhường.

Lòng người ngày xuân: Thấy ấm lạ lùng, vui như mở hội liên hoan.

b. Không chỉ miêu tả sức sống của mùa xuân từ bên ngoài, tác giả còn thể hiện được sức sống nổi bật của con người trong mùa xuân bằng những hình ảnh đầy gợi cảm và với những hình ảnh so sánh rất cụ thể: “Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống trong người căng lên như máu,…những cặp uyên ương đứng cạnh” và “tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá”. Đến như cảm nhận về cái rét thì cũng là: “…cái rét ngọt ngào, chứ không còn tê buốt căm căm nữa”.

c. Ngôn ngữ của đoạn văn này là những ngôn từ được chắt lọc tinh tế. Những hình ảnh so sánh vừa cụ thể vừa mới lạ, cùng với cách cảm, cách nghĩ sáng tạo, tất cả được kết hợp trong một thứ giọng điệu vừa sôi nổi, vừa thiết tha khiến cho đoạn văn để lại được nhiều ấn tượng và gợi ra nhiều dư ba.

Câu 4:

a. Trong đoạn văn còn lại, tác giả tập trung miêu tả những nét riêng của trời đất, thiên nhiên và không khí mùa xuân sau ngày rằm tháng giêng.

Cảnh sắc thiên nhiên:

Đào: hơi phai nhưng nhụy hãy con phong.

Cỏ: không mướt xanh nhưng nức một mùi hương man mác.

Mưa xuân: thay thế cho mưa phùn.

Bầu trời: hiện lên những làn sáng hồng hồng.

– Không khí sinh hoạt:

Bữa cơm: đã trở về giản dị, thịt mỡ dưa hành đã hết.

Cánh màn điều: treo ở bàn thờ ông vải đã hạ huống.

Các trò vui: tạm kết thúc nhường chỗ cho cuộc sống thường nhật.

b. Qua việc tái hiện những cảnh sắc và không khí ấy, có thể khẳng định: chính tình yêu và nỗi nhớ da diết đến cháy bỏng đã làm thức dậy bao nỗi niềm trong tâm hồn tác giả, khiến cho ngòi bút của nhà văn trở nên tinh tế và nhạy cảm hơn.

Câu 5:

Trong nỗi nhớ da diết của một người con xứ Bắc xa quê, tác giả đã tái hiện lại cảnh mùa xuân Bắc Việt với những ấn tượng êm đềm, dịu ngọt, những cảm nhận tinh tế mà chỉ có những người yêu tha thiết quê hương mới có được. Cảnh mùa xuân trên đất Bắc là cả một cuộc giao hoà của trời đất, của lòng người, của sức sống và tình yêu.