Soạn Văn 9 Bài Kiều Báo Ân Báo Oán / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Soạn Văn 9: Thúy Kiều Báo Ân Báo Oán (Trích Truyện Kiều)

Soạn Văn: Thúy Kiều báo ân báo oán (Trích Truyện Kiều)

Bố cục:

– 12 câu đầu: Thúy Kiều báo ân.

– 22 câu cuối: Thúy Kiều báo oán.

Đọc hiểu văn bản

Câu 1 (trang 108 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Thúy Kiều báo ân:

– Qua lời của Kiều với Thúc Sinh ta thấy Kiều là người nặng tình, nặng nghĩa, nàng rất trân trọng việc Thúc Sinh chuộc nàng khỏi lầu xanh, tuy Thúc Sinh không giúp được khi Hoạn Thư hành hạ nàng nhưng nàng vẫn tạ ơn Thúc Sinh rất hậu.

– Kiều nói với Thúc Sinh về Hoạn Thư chứng tỏ vết thương lòng, đau đớn mà Hoạn Thư gây ra nàng không quên được.

– Lời nói với Thúc Sinh trang trọng, dùng nhiều điển cố vì Kiều vẫn luôn biết ơn Thúc Sinh, còn lời nói về Hoạn Thư lại nôm na bình dị, sử dụng lối nói dân gian tỏ thái độ xem thường.

Câu 2 (trang 108 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Thúy Kiều báo oán:

– Những lời đầu tiên Kiều nói với Hoạn Thư có giọng điệu mỉa mai, đay nghiến. Chào, thưa Hoạn Thư là “tiểu thư” mặc dù vị thế hai người đã đảo ngược.

– Thái độ Kiều: Quyết liệt trong trả thù, báo trước những điều dữ dội sắp xảy ra.

Câu 3 (trang 108 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

– Trình tự lí lẽ của Hoạn Thư: Xóa ranh giới kẻ thù, về cùng phía “phận đàn bà” → từ trọng tội biến thành chuyện nhỏ “thường tình” → kể rằng từng tha cho Kiều→ tỏ thái độ “riêng riêng những kính yêu” → nhận lỗi và mong tha thứ.

– Các lí lẽ đó tác động tới Kiều: Nhìn ra sự khôn ngoan của Hoạn Thư, Kiều có phần nguôi ngoai, mắc vào thế khó đành tha bổng cho Hoạn Thư.

– Tính cách Hoạn Thư: Khôn ngoan, lọc lõi, tâm địa mưu mô, thủ đoạn.

Câu 4 (trang 108 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

– Kiều tha Hoạn Thư vì những lí lẽ của Hoạn Thư và bản tính rộng lượng của Kiều.

– Việc làm ấy phù hợp với lòng nhân hậu của Kiều. Vì vậy nó không hề đáng trách.

→ Kiều là người giàu lòng vị tha, nặng tình nghĩa.

Câu 5 (trang 108 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

– Hoạn Thư khôn ngoan, lọc lõi, có tâm địa và thủ đoạn. Trong cảnh “hồn lạc phách xiêu” vẫn đưa ra được những lí lẽ chặt chẽ, thuyết phục.

– Thúy Kiều giàu lòng vị tha, tình nghĩa. Đối với Thúc Sinh biết ơn, trân trọng, đối với Hoạn Thư giận nhưng vẫn rộng lượng tha tội.

Luyện tập

(trang 109 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Những biểu hiện đa dạng …

– Thúy Kiều tình nghĩa, yêu ghét rõ ràng, rộng lượng: Vẫn nhớ ơn và báo ơn Thúc Sinh đã cứu mình khỏi lầu xanh, nhớ thù Hoạn Thư nhưng khi nghe lời lẽ khôn ngoan của Hoạn Thư thì vẫn rộng lượng tha bổng.

– Hoạn Thư: Khôn ngoan, khéo nói: Sợ hãi mà vẫn khéo léo bào chữa tội mình.

Soạn Bài Lớp 9: Thúy Kiều Báo Ân Báo Oán

Soạn bài môn Ngữ văn lớp 9 học kì I

Soạn bài: Thúy Kiều báo ân báo oán

THUÝ KIỀU BÁO ÂN BÁO OÁN

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng dựng lên một cảnh báo ân báo oán. Thế nhưng, khác rất nhiều so với các câu chuyện cổ tích, cảnh báo ân báo oán trong Truyện Kiều không đơn giản là sự thể hiện khát vọng công lí của nhân dân. Sức hấp dẫn của đoạn trích thể hiện chủ yếu ở khả năng khắc hoạ tâm lí nhân vật của nhà thơ. Cả đoạn trích gồm 34 câu với ba nhân vật, rất ít lời miêu tả, hầu như chỉ có lời Thuý Kiều nói với Thúc Sinh, lời qua tiếng lại giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư, vậy mà không chỉ chân dung, từ giọng điệu, tính tình của từng nhân vật đều được bộc lộ hết sức sinh động.

Có thể dễ dàng nhận thấy trong đoạn trích có hai cảnh: báo ân và báo oán.

2. Chàng Thúc Sinh khi được “gươm mời đến” thì “Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run”. Thúc Sinh run vì nhiều lẽ: trước cảnh ba quân gươm giáo sáng loà – run ; được chứng kiến Thuý Kiều đã trừng trị những kẻ đã gây bao đau khổ cho đời nàng như thế nào lại càng dễ run hơn nữa. Thúc Sinh không thể nghĩ rằng mình lại được trả ân bằng “gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” bởi trong thực tế, chàng ta chẳng có công lao gì nhiều với Thuý Kiều. Ngay cả khi chứng kiến vợ mình hành hạ Thuý Kiều, Thúc Sinh cũng chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, không biết bênh vực thế nào.

Vậy tại sao Thúc Sinh lại được Thuý Kiều “báo ân” hậu hĩnh như thế? Lí giải được điều này, chúng ta sẽ hiểu thêm về Thuý Kiều, từ đó càng hiểu thêm nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du. Nhân vật Thuý Kiều đã được xây dựng rất nhất quán từ đầu đến cuối tác phẩm. Dù khi phải dằn lòng trao duyên cho Thuý Vân, khi một mình đối cảnh ở lầu Ngưng Bích hay khi có đủ vị thế để báo ân báo oán sòng phẳng thì Thuý Kiều vẫn luôn là người nặng tình nặng nghĩa:

3. Đối tượng báo oán ở đây là Hoạn Thư – vợ Thúc Sinh. Mặc dù không trực tiếp đẩy Thuý Kiều vào lầu xanh nhưng Hoạn Thư cũng là kẻ đã gây không ít đau khổ cho cuộc đời Kiều. Con người đã trở thành hình tượng điển hình cho sự ghen tuông ấy đã lặng lẽ cho người đến bắt nàng về, đã dựng cảnh trớ trêu: bắt nàng hầu rượu Thúc Sinh để mà hả hê sung sướng khi tận mắt chứng kiến nỗi cực nhục của cả hai người. Thuý Kiều hẳn không thể quên nỗi nhục hôm ấy, theo đó thì tội của Hoạn Thư đáng chết một trăm lần.

Thế nhưng Nguyễn Du đã không để cho lí trí của mình dẫn dắt sự việc một cách giản đơn. Ông âm thầm chứng kiến cuộc đối đầu giữa hai người đàn bà (mà theo Thuý Kiều là “kẻ cắp, bà già gặp nhau”), thuật lại cuộc đấu khẩu của họ. Biệt tài của Nguyễn Du là khi chứng kiến và miêu tả cuộc đụng độ “nảy lửa” ấy, ông đã không thiên vị một ai, không đứng về phía nào. Ông để cho sự việc tự nó phát triển, từ đó đã tạo nên một trong những chi tiết nghệ thuật giàu chất sống, chất “tiểu thuyết” nhất của tác phẩm.

Vị thế giữa hai người phụ nữ đã hoàn toàn đảo ngược. Trước đây, khi Hoạn Thư làm chủ tình thế, Thuý Kiều không những bị đánh đập mà còn bị làm nhục theo một cách thức rất riêng của Hoạn Thư. Nỗi đau tinh thần của Kiều lúc ấy còn lớn gấp hàng chục lần nỗi đau thể xác. Thế nhưng giờ đây, người làm chủ tình thế lại là Thuý Kiều. Chỉ cần nàng phẩy tay một cái, hẳn Hoạn

Ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du thật đáng nể phục. Nàng Kiều duyên dáng, thuỳ mị, “e lệ nép vào dưới hoa” ngày nào, giờ đối diện với kẻ thù, dường như đã hoá ra một con người khác. Nếu như Kiều ra lệnh trừng phạt Hoạn Thư ngay thì không có gì nhiều để bàn luận. Nhưng Kiều đang sung sướng hưởng thụ cảm giác của kẻ bề trên, đang tìm cách dùng lời nói để “rứt da rứt thịt” Hoạn Thư theo đúng cách mà trước đây mụ ta đã đối xử với nàng. Bằng giọng điệu đầy vẻ châm biếm, Kiều gọi Hoạn Thư là “tiểu thư”, cẩn thận báo cho mụ ta biết về “luật nhân quả” ở đời (“Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”). Kiều tin chắc vào chiến thắng đến mức sẵn sàng chấp nhận đấu khẩu!

Thế nhưng Hoạn Thư thật xứng với danh tiếng “Bề ngoài thơn thớt nói cười – Mà trong nham hiểm giết người không dao”:

Giữa dáng điệu bề ngoài với lời nói bên trong của Hoạn Thư có cái gì đó rất mâu thuẫn. Nếu quả thật đã “hồn lạc phách xiêu”, Hoạn Thư khó có thể biện hộ cho mình một cách khéo léo như vậy. Không những khẳng định “ghen tuông chỉ là thói thường của đàn bà”, Hoạn Thư còn kể đến những việc mà tưởng như mụ đã “làm ơn” cho Thuý Kiều: cho ra nhà gác để viết kinh, khi Thuý Kiều trốn đã không đuổi bắt… Đó là những lí lẽ rất khôn ngoan mà Kiều khó lòng bác bỏ được. Thì ra, vẻ “hồn lạc phách xiêu” chỉ là bộ điệu mà mụ ta tạo ra để đánh vào chỗ yếu của Thuý Kiều. Đứng trước cơ hội duy nhất để có thể thoát tội, mụ đã vận dụng tất cả sự khôn ngoan, lọc lõi của mình.

4. Rốt cuộc, người thua trong cuộc đấu trí, đấu khẩu đó lại chính là Thuý Kiều. Bằng chứng là khi nghe xong những lời “bào chữa” của Hoạn Thư, Thuý Kiều đã xuôi lòng mà tha bổng cho mụ, không những thế lại còn khen: “Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời” và tự nói với mình rằng: “Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen”.

Kết cục đó có thể bất ngờ với người đọc nhưng lại rất hợp lí với lô gích của tác phẩm. Đoạn “báo ân” với Thúc Sinh đã cho thấy: dù thế nào đi nữa, nàng vẫn là người phụ nữ đa sầu đa cảm, nặng tình nặng nghĩa. Một người phụ nữ như thế, thật khó có thể đối đầu được với một kẻ gian ngoan, quỷ quyệt như Hoạn Thư.

5. Đây là một đoạn trích rất hấp dẫn, một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du. Bằng cách để cho các sự việc tự vận động, nhân vật tự bộc lộ mình qua những lời đối thoại, Nguyễn Du đã đưa nghệ thuật miêu tả nhân vật của văn học trung đại tiến một bước rất dài. Miêu tả chân thực và sinh động đời sống như nó đang xảy ra, đó là một yếu tố quan trọng tạo nên “Chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du”.

1. Từ Hải cứu Thuý Kiều khỏi chốn lầu xanh ô nhục, lại giúp nàng đền ơn trả nghĩa, đồng thời trừng trị những kẻ đã đày đoạn nàng những năm tháng vừa qua. Trong đoạn trích này chỉ có hai nhân vật được gọi đến là Thúc Sinh và Thuý Kiều. Tuỳ theo công và tội của mỗi người, Thuý Kiều đã cư xử rất có lí, có tình. Điều này cho thấy tấm lòng nhân hậu, vị tha của nàng.

Lời lẽ của Thuý Kiều với Thúc Sinh:

Lời lẽ của Thuý Kiều với Hoạn Thư:

Lời lẽ của Hoạn Thư với Thuý Kiều:

Bài 8 Thúy Kiều Báo Ân Báo Oán

1.Thử lí giải vì sao Nguyễn Du để cho nhân vật Thuý Kiều dùng nhiều từ Hán Việt và vận dụng điển cố khi nói với Thúc Sinh, còn khi nói về Hoạn Thư, nói với Hoạn Thư, nhà thơ lại để cho Kiều dùng nhiều từ thuần Việt và vận dụng những thành ngữ dân gian ?

2.Phân tích những biểu hiện đa dạng nhưng hợp lí, nhất quán trong tính cách Thuý Kiều trong đoạn thơ này.

3.Qua lời lẽ của Hoạn Thư trong đoạn thơ, em cảm nhận như thế nào về tính cách của nhân vật này ?

4.Trong đoạn Thu ý Kiều báo ân báo oán, tác giả đã dùng biện pháp nghệ thuật nào để khắc hoạ tính cách nhân vật ?

A – Miêu tả nội tâm

B – Tả cảnh ngu tình

C – Miêu tả ngôn ngữ đối thoại.

1.Khi nói với Thúc Sinh, trong ngôn ngữ của Kiều xuất hiện nhiều từ Hán Việt : nghĩa, tòng, phụ, cố nhân,… kết hợp với điển cố Sâm Thương. Lời lẽ của Kiều khi nói với Thúc Sinh là lời lẽ của một “phu nhân” với những khái niệm đạo đức phong kiến như chữ “nghĩa”, chữ “tòng” và “những phong cách biểu hiện ước lệ, công thức “Sâm Thương”, “nghĩa trọng nghìn non” (Đặng Thanh Lê). Cách nói toang trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của Kiều.

– Khi nói về Hoạn Thư, nói với Hoạn Thư, trong ngôn ngữ của Kiều lại xuất hiện nhiều từ thuần Việt và những thành ngữ dân gian : quỷ quái tinh ma ; kẻ cắp, bà già gặp nhau ; kiến bò miệng chén ; càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều,… Cách nói hết sức nôm na, bình dị, dễ hiểu này phù hợp với đối tượng và mục đích giao tiếp. Hành động trừng phạt cái ác theo quan điểm của nhân dân phải được diễn đạt bằng lời ăn, tiếng nói của nhân dân. “Thuý Kiều nói về Hoạn Thư trên cơ sở một triết lí nhân sinh có tính chất quần chúng ! Đây là triết lí “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, một quan niệm xử thế rất công bằng để đối xử lại với xã hội đầy áp bức, lừa đảo xưa kia. Người thiếu nữ chỉ quen “Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu” một khi bị xô đẩy ra khỏi nhung lụa, cũng sẽ nói năng, cử chỉ như quần chúng”. (Đặng Thanh Lê)

2.Trong đoạn trích, người đọc đã thấy ở nhân vật Thuý Kiều đa dạng nhưng nhất quán về tính cách.

Mọi biểu hiện đa dạng, phức tạp trong tính cách của Thuý Kiều đều làm nổi bật lên vẻ đẹp từ tấm lòng vị tha, nhân hậu của nàng.

Với tấm lòng nhân hậu, Kiều đã trả ơn Thúc Sinh. Chàng Thúc đã đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục, đem đến cho nàng những ngày tháng êm ấm của cuộc sống gia đình. Thế nhưng sự gắn bó với Thúc Sinh đã đưa Kiều vào hoàn cảnh “Dấm chua lại tội bằng ba lửa nồng”. Kiều bị vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư hành hạ. Vậy mà nàng vẫn gọi ơn của Thúc Sinh dành cho nàng là “nghĩa nặng nghìn non”. Không một lời trách Thúc Sinh vì nàng thấu hiểu nỗi đau khổ của mình không phải do chàng gây ra mà thủ phạm chính là Hoạn Thư : “Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân ?”. Với Kiều thì dù có “Gấm trăm cuốn bạc nghìn câri” cũng chỉ “gọi là” chút lòng đền đáp chứ chưa dễ xứng với ơn nghĩa Thúc Sinh dành cho nàng. Kiều đúng là người nghĩa tình “ơn ai một chút chẳng quên”.

Cùng với tấm lòng trọng ơn nghĩa, ở Thuý Kiều còn có lòng khoan dung. Không thấy được sự thống nhất giữa tinh thần trọng ơn nghĩa với lòng khoan dung ấy thì khó mà lí giải được những hành động đối lập nhau của Kiều xảy ra cùng một lúc. Qua lời nói, khi mỉa mai “Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây !”, khi thẳng thừng : “Đàn bà dễ có mấy tay – Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan có thể thấy Kiều đã xác định không lầm “Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư”. Một cuộc báo thù ghê gớm như sắp xảy ra theo đúng quan niệm dân gian : “Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”, “Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”. Vậy mà liền sau đó, nghe Hoạn Thư “liệu điều kêu ca”, Kiều đã thay đổi ngay thái độ : “Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay”. Sự thay đổi ấy xuất phát từ tấm lòng khoan dung và sự thấu hiểu lẽ đời của Kiều. Nàng bao dung, thấu hiểu Hoạn Thư mang tâm lí chung của giới nữ : “Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”, “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. Kiều không cố chấp khi Hoạn Thư đã biết lỗi : “Trót lòng gây. việc chông gai, và xin tha : “Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng” thì Kiều cũng khoan dung độ lượng : “Đã lòng tri quá thì nên”. Kiều đã cư xử theo triết lí dân gian : “Đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại”.

3.Tính cách của Hoạn Thư cũng có những biểu hiện phong phú, đa dạng nhưng tất cả đều nhất quán ở bản chất một con người khôn ngoan, giảo hoạt. Hay nói như Kiều, đây là con, người “sâu sắc nước đời” đến “quỷ quái tinh ma”.

Hoạn Thư giảo hoạt trong cách ứng xử. Ban đầu, Hoạn Thư có “hồn lạc phách xiêu”. Nhưng ngay trong hoàn cảnh ấy, Họạn Thư vẫn kịp “liệu điều kêu ca”.

Hoạn Thư khôn ngoan trong các lí lẽ để gỡ tội. Con người này “Nói lời ràng buộc thì tay cũng già”. Trước hết Hoạn Thư dựa vào tâm lí thường tình của người phụ nữ : “Rằng : Tôi chút phận đàn bà – Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”. Lí lẽ này đã đưa Kiều và Hoạn Thư từ vị thế đối lập trở thành người đồng cảnh, cùng chung “chút phận đàn bà”. Nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lí chung của giới nữ : “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. Từ tội nhân, Hoạn Thư đã lập luận để mình trở thành nạn nhân của chế độ đa thê. Tiếp đến, Hoạn Thư kể lại “công” đã cho Kiều ra viết kinh ở gác Quan Âm và không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn. Từ tội nhân thành nạn nhân rồi thành ân nhân, con người này thật khôn ngoan, giảo hoạt. Cuối cùng Hoạn Thư nhận tất cả tội lỗi về mình, chỉ còn biết trông cậy vào tấm lòng khoan dung, độ lượng của Kiều : “Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”,… Lớp lang lời tự bào chữa của Hoạn Thư theo ba bước như vậy chứng tỏ Hoạn .Thư đúng là người “sâu sắc nước đời”, không những “chàng Thúc phải ra người bó tay” mà chính Kiều cũng ồ vào hoàn cảnh khó xử : “Tha ra thì cũng may đời – Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”. Tuy nhiên, Kiều đã vượt qua hoàn cảnh khó xử ấy bằng chính tấm lòng khoan dung, nhân hậu : “Đã lòng toi quá thì nên – Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay”.

3.Đọc phần Ghi nhớ (Ngữ văn 9, tập một, ữang 109) để trả lời.

Soạn Bài Thúy Kiều Báo Ân Báo Oán (Siêu Ngắn)

Soạn bài Thúy Kiều báo ân báo oán (Trích Truyện Kiều)

Bố cục

– Phần 1 (mười hai câu thơ đầu): cảnh Thúy Kiều báo ân cho Thúc Sinh.

– Phần 2 (hai mươi hai câu thơ còn lại): Thúy Kiều báo oán Hoạn Thư.

Soạn bài

Câu 1 (trang 108 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):

– Từ lời của Kiều nói với Thúc Sinh có thể thấy nàng rất trân trọng việc Thúc Sinh chuộc nàng khỏi lầu xanh. Nàng gọi Thúc Sinh là “Người cũ” mang sắc thái thân mật, gần gũi, rồi lại gọi là “cố nhân” mang sắc thái trang trọng.

– Kiều cũng nhắc về Hoạn Thư. Điều đó chứng tỏ vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho Kiều đang còn quá xót xa.

– Có sự khác nhau trong ngôn ngữ của Kiều nói với Thúc Sinh, Kiều dùng nhiều từ điển cố “Sâm Thương” cách nói trang trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của Kiều. Còn lúc nói về Hoạn Thư, ngôn ngữ của Kiều lại hết sức bình dị. Nàng dùng những thành ngữ quen thuộc “Kẻ cắp bà già gặp nhau”, “Kiến bỏ miệng chén” với những từ Việt dễ hiểu: hành động trừng phạt kẻ ác theo quan điểm của nhân dân phải được diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.

Câu 2 (trang 108 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):

Những lời đầu tiên của Kiều nói với Hoạn Thư có giọng điệu mỉa mai, đay nghiến. Bằng giọng điệu đầy vẻ châm biếm, Kiều gọi Hoạn Thư là “tiểu thư”, cẩn thận báo cho mụ ta biết về “luật nhân quả” ở đời “càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”

Câu 3 (trang 108 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):

Hoạn Thư đưa ra những lí lẽ hết sức thuyết phục. Không những khẳng định “ghen tuông chỉ là thói thường của đàn bà”, Hoạn Thư còn kể đến những việc mà tưởng như mụ đã “làm ơn” cho Thuý Kiều. Hoạn Thư đã đánh vào chỗ yếu của Thuý Kiều. Đứng trước cơ hội duy nhất để có thể thoát tội, mụ đã vận dụng tất cả sự khôn ngoan, lọc lõi của mình.

Câu 4 (trang 108 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):

– Thúy Kiều tha cho Hoạn Thư bởi những lí lẽ mà mụ ta đưa ra đã thuyết phục được Kiều. Hơn nữa Kiều là một người con gái hiểu lí lẽ và có tấm lòng thương người.

– Kết cục đó có thể bất ngờ với người đọc nhưng lại rất hợp lí với lôgic của tác phẩm. Qua đó mới khẳng định được phẩm chất tốt đẹp của nàng Kiều.

Câu 5 (trang 108 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):

Qua đoạn trích có thể thấy Thúy Kiều là người trọng ân nghĩa. Những ai đã giúp đỡ nàng đều được nhớ tới và đến ơn xứng đáng. Còn với Hoạn Thư, nàng kiên quyết trừng phạt. Nhưng trước thái độ khôn ngoan kêu ca “đến mực, phải lời”, Kiều đã tha bổng. Nàng tha Hoạn Thư cho thấy Kiều là người không hẹp hòi, không nhỏ nhen, không cố chấp. Sự rộng lượng của nàng càng làm cho người ta, kể cả Hoạn Thư – kẻ thù, phải tâm phục, khẩu phục. Hoạn Thư là một người phụ nữ nham hiểm và hết mực khôn ngoan.

Luyện tập

Những biểu hiện đa dạng nhưng hợp lí, nhất quán trong tính cách của Thúy Kiều và Hoạn Thư.

Thúy Kiều:

– Có yêu, có ghét rõ ràng, lúc thì rất ôn hòa, lúc lại rất cương quyết, cứng rắn: Có ơn thì trả có nợ thì báo

– Mọi hành động của Thúy Kiều đều dựa trên nguyên tắc đạo lý

Hoạn Thư: Trước sau Hoạn Thư đều là người khôn ngoan, mưu kế. Dù run sợ trước lời buộc tội của Kiều nhưng vẫn khôn khéo đưa ra được lời biện minh để thoát tội cho bản thân, lợi dụng lòng đồng cảm của Thúy Kiều.

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k6: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Các bài Soạn văn lớp 9 siêu ngắn được biên soạn bám sát câu hỏi sgk Ngữ Văn lớp 9 Tập 1, Tập 2 giúp bạn dễ dàng soạn bài Ngữ Văn 9 hơn.