Soạn Văn 9 Bài Cố Hương Violet / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Soạn Văn 9 Bài Cố Hương Vnen

Một số tác phẩm về quê hương đã học:

Làng – Kim Lân

Quê hương – Tế Hanh

Đất nước – Nguyễn Đình Thi

Việt Bắc – Tố Hữu

Quê hương – Đỗ Trung Quân

Quê hương là nơi ta chôn rau cắt rốn, là cái nôi nuôi dưỡng và che chở ta khôn lớn, trưởng thành. Vì thế, tình yêu đối với quê hương là một thứ tình cảm tự nhiên, đẹp đẽ và thiêng liêng trong trái tim của mỗi con người.

B. Hoạt động hình thành kiến thức

1. Đọc văn bản Cố hương

2. Tìm hiểu văn bản

a) Căn cứ vào thời gian chuyến về thăm quê của nhân vật “tôi”, ta có thể chia truyện thành mấy phần? Nội dung chính của mỗi phần là gì?

Căn cứ vào thời gian chuyến về thăm quê của nhân vật “tôi”, ta có thể chia truyện thành bố cục 3 phần:

Phần 1: Từ đầu đến “làm ăn sinh sống” đây là hành trình trở về quê hương của nhân vật “tôi”.

Phần 2: Tiếp đến “mang đi sạch trơn”: Nói về hình ảnh quê hương và con người trong quá khứ và thực tại của nhân vật.

Phần 3: Còn lại: Những suy nghĩ của nhân vật tôi trên đường ra đi.

b) Cố hương là tác phẩm tự sự mang hình thức của truyện ngắn hiện đại. Theo em, văn bản này có sự kết hợp của các phương thức biểu đạt nào? Trong đó, phương thức nào là chủ yếu?

Tác phẩm cố hương có sự kết hợp của các phương thức biểu đạt gồm: tự sự, miêu tả và nghị luận.

Trong đó, phương thức tự sự được sử dụng chủ yếu.

c) Truyện Cố hương có nhiều nhân vật. Đó là những nhân vật nào? Theo em, nhân vật nào là nhân vật trung tâm của truyện? Vì sao em xác định như thế?

Trong truyện ngắn “Cố hương” có các nhân vật: nhân vật người mẹ, nhân vật tôi, cháu Hoàng, Nhuận Thổ, thím Hai Phương, Thuỷ Sinh.

Truyện có hai nhân vật chính: Nhuận Thổ và tôi (anh Tấn) – người bạn thời ấu thơ của Nhuận Thổ.

Trong đó, nhân vật tôi là nhân vật trung tâm vì tác giả đã thông qua nhân vật này để miêu tả mọi thay đổi của làng quê và nhân vật Nhuận Thổ.

d) Tìm trong tác phẩm những từ ngữ thích hợp để hoàn thiện bảng sau:

Sự thay đổi ở nhân vật Nhuận Thổ

Nhuận Thổ lúc còn nhỏ

(20 năm trước)

Nhuận Thổ lúc nhân vật “tôi” trở về quê

khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bó tí tẹo, cồ đeo vòng bạc sủng loáng

nước da bánh mật trước kia nay đổi thành vùng sạm, lại có thêm những nếp răn sâu hoắm, đội một cái mũ lông chiên rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm, bàn tay vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông…

Thái độ đối với “tôi”

Thân mật, gần gũi

Quyến luyến khi phải rời xa “hắn lẩn vào trong bếp khóc to và không chịu về”

e) Đọc đoạn văn từ “Tôi nghĩ bụng” đến “Người ta đi mãi thì thành đường thôi”, em hiểu nhân vật “tôi” có cảm giác gì khi đang chứng kiến cảnh làng quê cũ của mình? Từ cảm xúc đó, em hiểu tình cảm của nhân vật “tôi” đối với làng quê như thế nào?

Đoạn văn từ “Tôi nghĩ bụng” đến “Người ta đi mãi thì thành đường thôi”, nhân vật “tôi” đang mong muốn, ước mơ và hy vọng một cuộc đời mới cho cố hương. Cũng như những con đường trên mặt đất, mọi thứ trong cuộc sống này không tự có sẵn. Nhưng nếu muốn, bằng cố gắng và kiên trì, con người sẽ có tất cả. Ông muốn thức tỉnh người dân làng mình không cam chịu cuộc sống nghèo hèn, áp bức. Qúa khứ không thể trở lại thì hãy hướng đến tương lai. Ông tin ở thế hệ con cháu sẽ mở đường ấm no, hạnh phúc cho quê hương. Thế hệ trẻ phải được sống một cuộc đời “mới”, cuộc đời mà nhân vật “tôi” chưa từng được sống.

Suy nghĩ đó, cảm xúc đó bộc lộ tình yêu quê hương một cách mới mẻ của nhân vật “tôi ” và niềm tin mãnh liệt vào sự đổi mới của quê hương.

C. Hoạt động luyện tập

1. Luyện tập đọc hiểu văn bản Cố hương

Kết thúc truyện ngắn Cố hương của nhà văn Lỗ Tấn là suy nghĩ của nhân vật “tôi”: Đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng giống như những con đường đi trên mặt đất; kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi.

a) Em hiểu hình ảnh con đường trong những câu trên như thế nào?

Hình ảnh con đường trong câu nói mang nhiều ý nghĩa biểu tượng, triết lí.

Đó là con đường đến tự do, hạnh phúc của con người. Con đường của tự thân hành động, dựng xây và hi vọng. Con đường không tự nhiên có mà do chính con người, nhiều người đi mãi đi nhiều góp phần tạo dựng nên.

Đó là con đường cách mạng, con đường giải phóng cho nông thôn và xã hội Trung Quốc.

b) Viết một đoạn văn khoảng 10 câu trình bày suy nghĩ của em về con đường phía trước của bản thân; trong đó có sử dụng ít nhất một câu hỏi tu từ. Gạch chân dưới câu hỏi tu từ ấy.

– Triển khai theo các ý:

Con đường tương lai mà em dự định theo đuổi là gì?

Những khó khăn và thuận lợi trên hành trình chinh phục con đường ấy.

Em đã chuẩn bị những hành trang gì để có thể vững bước trên con đường ấy?

Quyết tâm của em với con đường phía trước của bản thân.

2. Ôn tập phần Tập làm văn

a) Kẻ bảng sau vào vở và đánh dấu X vào các ô trống mà kiểu văn bản hành chính có thể kết hợp với các yếu tố tương ứng (chẳng hạn tự sự có thể kết hợp với miêu tả thì đánh dấu vào ô thứ hai).

(1) Giải thích tại sao trong một văn bản có đủ các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận mà vẫn được gọi là văn bản tự sự. Theo em, liệu có một văn bản nào chỉ vận dụng một phương thức biểu đạt duy nhất hay không?

Trong một văn bản có đủ các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận nhưng vẫn được gọi là văn bản tự sự vì phương thức biểu đạt chủ yếu của văn bản đó là phương thức tự sự. Những phương thức khác chỉ là phụ để khiến cho văn bản tự sự thêm sinh động, không nhàm chán.

Trên thực tế, không có văn bản nào chỉ vận dụng một phương thức biểu đạt duy nhất vì như thế sẽ khiến cho bài văn cứng nhắc và dễ dàng trở nên nhàm chán. Trong quá trình viết, người viết thường sẽ kết hợp các phương thức biểu đạt trong một văn bản.

(2) Một số tác phẩm tự sự được học trong sách giáo khoa từ lớp 6 đến lớp 9 không phải bảo giờ cũng phân biệt bố cục rõ ràng ba phần: Mở bài, Thân bài và Kết bài. Tại sao bài tập làm văn tự sựu của học sinh vẫn phải có đủ ba phần đã nêu?

Một số tác phẩm tự sự được học trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 6 đến lớp 9 không phải bảo giờ cũng phân biệt bố cục rõ ràng ba phần: Mở bài, Thân bài và Kết bài vì

Thể hiện sự sáng tạo của nhà văn và quan trọng hơn là gây được sự hứng thú, tò mò cho người đọc

Hầu hết những bài tự sự không có đủ bố cục ba phần trong chương trình Ngữ Văn từ lớp 6 đến lớp 9 đều là của những nhà văn lớn hoặc những người đã làm việc với ngôn ngữ, văn bản trong nhiều năm nên họ có nhiều kinh nghiệm viết.

Bài tập làm văn tự sựu của học sinh vẫn phải có đủ ba phần đã nêu vi: Hiện tại, học sinh chỉ mới đang “Tập” làm văn chứ chưa phải là viết văn, sáng tạo văn bản thực sự. Chính vì thế nên học sinh cần phải đi theo từng bước để nắm vững được cách thức làm bài.

(3) Những kiến thức và kĩ năng về kiểu văn bản tự sự của phần Tập làm văn có giúp được gì trong việc đọc – hiểu các văn bản tác phẩm văn học tương ứng trong sách giáo khoa Ngữ văn không? Phân tích một vài ví dụ để làm sáng tỏ.

Những kiến thức và kĩ năng về kiểu văn bản tự sự của phần Tập làm văn giúp ích rất nhiều trong việc đọc – hiểu các văn bản tác phẩm văn học tương ứng trong sách giáo khoa Ngữ văn:

Giúp cho học sinh có thể nhận diện được các yếu tố cấu thành nên một bài văn tự sự: cốt truyện, sự kiện, nhân vật để từ đó có thể hiểu sâu hơn về diễn biến cốt truyện và tính cách của nhân vật.

Học sinh có thể xác định được ngôi kể, giọng điệu, diễn biến tâm lí nhân vật, độc thoại, đối thoại – những đặc sắc trong nghệ thuật biểu hiện của một tác phẩm tự sự.

Ví dụ:

Trong truyện ngắn Làng của Kim Lân học sinh có thể xác định được nhân vật chính là ông Hai và việc xây dựng tình huống truyện độc đáo của tác giả đã khiến cho diễn biến tâm trạng của nhân vật được hiện lên rõ nét. Từ ấy, người đọc có thể nhận ra tình yêu làng, yêu quê hương, yêu đất nước của nhân vật ông Hai luôn tồn tại thống nhất với nhau.

Trong tác phẩm truyện Kiều của Nguyễn Du, ở đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, người đọc có thể hình dung về thế giới nội tâm phong phú của Kiều với nỗi lo lắng cho thân phận hẩm hiu, lênh đênh của mình. Nàng không biết mình sẽ đi về đâu, tương lai của mình sẽ ra sao.

(4) Những kiến thức và kĩ năng về các tác phẩm tự sự của phẩn Đọc – hiểu văn bản và phần tiếng Việt tương ứng đã giúp em những gì trong việc làm bài văn tự sự của em? Phân tích một vài ví dụ để làm sáng tỏ.

Những kiến thức và kĩ năng về các tác phẩm tự sự của phẩn Đọc – hiểu văn bản tiếng Việt tương ứng đã giúp em rất nhiều trong việc viết bài văn tự sự:

Xác định rõ ràng các bước để làm bài văn tự sự

Lựa chọn từ ngữ, hình ảnh, cách kể chuyện cho phù hợp với yêu cầu của đề bài

Sử dụng kết hợp các biện pháp tu từ trong bài viết để tăng sức gợi hình, gợi cảm cho câu văn

Ví dụ:

Trước khi viết bài văn tự sự, em sẽ xác định rõ các bước làm bài: Tìm hiểu đề và tìm ý; lập dàn bài; viết bài; đọc lại và sửa chữa. Việc tuân thủ các bước làm bài ấy sẽ giúp em tránh được tình trạng lạc đề và bài văn tự sự sẽ có sự trau chuốt, cẩn thận hơn.

Thay vì viết câu: “Mặt trời đỏ rực” thì em sẽ sử dụng thêm các từ ngữ giàu hình ảnh kết hợp với biện pháp tu từ để câu văn trở nên sinh động hơn “Ông mặt trời vươn vai thức dậy, tỏa những tia nắng ấm áp đầu tiên xuống mặt đất khiến cho cả không gian bừng sáng lên một màu đỏ rực rỡ”

……………………………………………………………..

Soạn Văn 9 Vnen Bài 16: Cố Hương

Một số tác phẩm về quê hương đã học:

Làng – Kim Lân

Quê hương – Tế Hanh

Đất nước – Nguyễn Đình Thi

Việt Bắc – Tố Hữu

Quê hương – Đỗ Trung Quân

Quê hương là nơi ta chôn rau cắt rốn, là cái nôi nuôi dưỡng và che chở ta khôn lớn, trưởng thành. Vì thế, tình yêu đối với quê hương là một thứ tình cảm tự nhiên, đẹp đẽ và thiêng liêng trong trái tim của mỗi con người.

B. Hoạt động hình thành kiến thức

a) Căn cứ vào thời gian chuyến về thăm quê của nhân vật “tôi”, ta có thể chia truyện thành mấy phần? Nội dung chính của mỗi phần là gì?

Căn cứ vào thời gian chuyến về thăm quê của nhân vật “tôi”, ta có thể chia truyện thành bố cục 3 phần:

– Phần 1: Từ đầu đến “làm ăn sinh sống” đây là hành trình trở về quê hương của nhân vật “tôi”.

– Phần 2: Tiếp đến “mang đi sạch trơn”: Nói về hình ảnh quê hương và con người trong quá khứ và thực tại của nhân vật.

– Phần 3: Còn lại: Những suy nghĩ của nhân vật tôi trên đường ra đi.

b) Cố hương là tác phẩm tự sự mang hình thức của truyện ngắn hiện đại. Theo em, văn bản này có sự kết hợp của các phương thức biểu đạt nào? Trong đó, phương thức nào là chủ yếu?

Tác phẩm cố hương có sự kết hợp của các phương thức biểu đạt gồm: tự sự, miêu tả và nghị luận.

Trong đó, phương thức tự sự được sử dụng chủ yếu.

c) Truyện Cố hương có nhiều nhân vật. Đó là những nhân vật nào? Theo em, nhân vật nào là nhân vật trung tâm của truyện? Vì sao em xác định như thế?

– Trong truyện ngắn “Cố hương” có các nhân vật: nhân vật người mẹ, nhân vật tôi, cháu Hoàng, Nhuận Thổ, thím Hai Phương, Thuỷ Sinh.

– Truyện có hai nhân vật chính: Nhuận Thổ và tôi (anh Tấn) – người bạn thời ấu thơ của Nhuận Thổ.

– Trong đó, nhân vật tôi là nhân vật trung tâm vì tác giả đã thông qua nhân vật này để miêu tả mọi thay đổi của làng quê và nhân vật Nhuận Thổ.

d) Tìm trong tác phẩm những từ ngữ thích hợp để hoàn thiện bảng sau:

e) Đọc đoạn văn từ “Tôi nghĩ bụng” đến “Người ta đi mãi thì thành đường thôi”, em hiểu nhân vật “tôi” có cảm giác gì khi đang chứng kiến cảnh làng quê cũ của mình? Từ cảm xúc đó, em hiểu tình cảm của nhân vật “tôi” đối với làng quê như thế nào?

Đoạn văn từ “Tôi nghĩ bụng” đến “Người ta đi mãi thì thành đường thôi”, nhân vật “tôi” đang mong muốn, ước mơ và hy vọng một cuộc đời mới cho cố hương. Cũng như những con đường trên mặt đất, mọi thứ trong cuộc sống này không tự có sẵn. Nhưng nếu muốn, bằng cố gắng và kiên trì, con người sẽ có tất cả. Ông muốn thức tỉnh người dân làng mình không cam chịu cuộc sống nghèo hèn, áp bức. Qúa khứ không thể trở lại thì hãy hướng đến tương lai. Ông tin ở thế hệ con cháu sẽ mở đường ấm no, hạnh phúc cho quê hương. Thế hệ trẻ phải được sống một cuộc đời “mới”, cuộc đời mà nhân vật “tôi” chưa từng được sống.

Suy nghĩ đó, cảm xúc đó bộc lộ tình yêu quê hương một cách mới mẻ của nhân vật “tôi ” và niềm tin mãnh liệt vào sự đổi mới của quê hương.

C. Hoạt động luyện tập

1. Luyện tập đọc hiểu văn bản Cố hương

Kết thúc truyện ngắn Cố hương của nhà văn Lỗ Tấn là suy nghĩ của nhân vật “tôi”: Đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng giống như những con đường đi trên mặt đất; kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi.

a) Em hiểu hình ảnh con đường trong những câu trên như thế nào?

Hình ảnh con đường trong câu nói mang nhiều ý nghĩa biểu tượng, triết lí.

– Đó là con đường đến tự do, hạnh phúc của con người. Con đường của tự thân hành động, dựng xây và hi vọng. Con đường không tự nhiên có mà do chính con người, nhiều người đi mãi đi nhiều góp phần tạo dựng nên.

– Đó là con đường cách mạng, con đường giải phóng cho nông thôn và xã hội Trung Quốc.

b) Viết một đoạn văn khoảng 10 câu trình bày suy nghĩ của em về con đường phía trước của bản thân; trong đó có sử dụng ít nhất một câu hỏi tu từ. Gạch chân dưới câu hỏi tu từ ấy.

– Triển khai theo các ý:

+ Con đường tương lai mà em dự định theo đuổi là gì?

+ Những khó khăn và thuận lợi trên hành trình chinh phục con đường ấy.

+ Em đã chuẩn bị những hành trang gì để có thể vững bước trên con đường ấy?

Quyết tâm của em với con đường phía trước của bản thân.

a) Kẻ bảng sau vào vở và đánh dấu X vào các ô trống mà kiểu văn bản hành chính có thể kết hợp với các yếu tố tương ứng (chẳng hạn tự sự có thể kết hợp với miêu tả thì đánh dấu vào ô thứ hai).

(1) Giải thích tại sao trong một văn bản có đủ các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận mà vẫn được gọi là văn bản tự sự. Theo em, liệu có một văn bản nào chỉ vận dụng một phương thức biểu đạt duy nhất hay không?

– Trong một văn bản có đủ các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận nhưng vẫn được gọi là văn bản tự sự vì phương thức biểu đạt chủ yếu của văn bản đó là phương thức tự sự. Những phương thức khác chỉ là phụ để khiến cho văn bản tự sự thêm sinh động, không nhàm chán.

– Trên thực tế, không có văn bản nào chỉ vận dụng một phương thức biểu đạt duy nhất vì như thế sẽ khiến cho bài văn cứng nhắc và dễ dàng trở nên nhàm chán. Trong quá trình viết, người viết thường sẽ kết hợp các phương thức biểu đạt trong một văn bản.

(2) Một số tác phẩm tự sự được học trong sách giáo khoa từ lớp 6 đến lớp 9 không phải bảo giờ cũng phân biệt bố cục rõ ràng ba phần: Mở bài, Thân bài và Kết bài. Tại sao bài tập làm văn tự sựu của học sinh vẫn phải có đủ ba phần đã nêu?

Một số tác phẩm tự sự được học trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 6 đến lớp 9 không phải bảo giờ cũng phân biệt bố cục rõ ràng ba phần: Mở bài, Thân bài và Kết bài vì

– Thể hiện sự sáng tạo của nhà văn và quan trọng hơn là gây được sự hứng thú, tò mò cho người đọc

– Hầu hết những bài tự sự không có đủ bố cục ba phần trong chương trình Ngữ Văn từ lớp 6 đến lớp 9 đều là của những nhà văn lớn hoặc những người đã làm việc với ngôn ngữ, văn bản trong nhiều năm nên họ có nhiều kinh nghiệm viết.

Bài tập làm văn tự sựu của học sinh vẫn phải có đủ ba phần đã nêu vi: Hiện tại, học sinh chỉ mới đang “Tập” làm văn chứ chưa phải là viết văn, sáng tạo văn bản thực sự. Chính vì thế nên học sinh cần phải đi theo từng bước để nắm vững được cách thức làm bài.

(3) Những kiến thức và kĩ năng về kiểu văn bản tự sự của phần Tập làm văn có giúp được gì trong việc đọc – hiểu các văn bản tác phẩm văn học tương ứng trong sách giáo khoa Ngữ văn không? Phân tích một vài ví dụ để làm sáng tỏ.

Những kiến thức và kĩ năng về kiểu văn bản tự sự của phần Tập làm văn giúp ích rất nhiều trong việc đọc – hiểu các văn bản tác phẩm văn học tương ứng trong sách giáo khoa Ngữ văn:

– Giúp cho học sinh có thể nhận diện được các yếu tố cấu thành nên một bài văn tự sự: cốt truyện, sự kiện, nhân vật để từ đó có thể hiểu sâu hơn về diễn biến cốt truyện và tính cách của nhân vật.

– Học sinh có thể xác định được ngôi kể, giọng điệu, diễn biến tâm lí nhân vật, độc thoại, đối thoại – những đặc sắc trong nghệ thuật biểu hiện của một tác phẩm tự sự.

Ví dụ:

– Trong truyện ngắn Làng của Kim Lân học sinh có thể xác định được nhân vật chính là ông Hai và việc xây dựng tình huống truyện độc đáo của tác giả đã khiến cho diễn biến tâm trạng của nhân vật được hiện lên rõ nét. Từ ấy, người đọc có thể nhận ra tình yêu làng, yêu quê hương, yêu đất nước của nhân vật ông Hai luôn tồn tại thống nhất với nhau.

– Trong tác phẩm truyện Kiều của Nguyễn Du, ở đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, người đọc có thể hình dung về thế giới nội tâm phong phú của Kiều với nỗi lo lắng cho thân phận hẩm hiu, lênh đênh của mình. Nàng không biết mình sẽ đi về đâu, tương lai của mình sẽ ra sao.

(4) Những kiến thức và kĩ năng về các tác phẩm tự sự của phẩn Đọc – hiểu văn bản và phần tiếng Việt tương ứng đã giúp em những gì trong việc làm bài văn tự sự của em? Phân tích một vài ví dụ để làm sáng tỏ.

Những kiến thức và kĩ năng về các tác phẩm tự sự của phẩn Đọc – hiểu văn bản tiếng Việt tương ứng đã giúp em rất nhiều trong việc viết bài văn tự sự:

– Xác định rõ ràng các bước để làm bài văn tự sự

– Lựa chọn từ ngữ, hình ảnh, cách kể chuyện cho phù hợp với yêu cầu của đề bài

– Sử dụng kết hợp các biện pháp tu từ trong bài viết để tăng sức gợi hình, gợi cảm cho câu văn

Ví dụ:

– Trước khi viết bài văn tự sự, em sẽ xác định rõ các bước làm bài: Tìm hiểu đề và tìm ý; lập dàn bài; viết bài; đọc lại và sửa chữa. Việc tuân thủ các bước làm bài ấy sẽ giúp em tránh được tình trạng lạc đề và bài văn tự sự sẽ có sự trau chuốt, cẩn thận hơn.

– Thay vì viết câu: “Mặt trời đỏ rực” thì em sẽ sử dụng thêm các từ ngữ giàu hình ảnh kết hợp với biện pháp tu từ để câu văn trở nên sinh động hơn “Ông mặt trời vươn vai thức dậy, tỏa những tia nắng ấm áp đầu tiên xuống mặt đất khiến cho cả không gian bừng sáng lên một màu đỏ rực rỡ”

Soạn Bài Cố Hương Sbt Ngữ Văn 9 Tập 1

1. a) Hãy giải thích nhận định sau : Cố hương là một truyện ngắn có yếu tố hồi kí chứ không phải là hồi kí.

b) Tuy đoạn hồi kí lồng vào khá dài, Cố hương vẫn là một tác phẩm tự sự có bố cục rất rõ ràng, chặt chẽ. Bố cục ấy dựa theo tiến trình phát triển của sự kiện như sau :

– Trên đường … quê.

– Những ngày … quê.

– Trên đường … quê.

Em hãy dùng 3 chữ để điền vào 3 chỗ trống ở trên. Trả lời:

a) Cố hương quả có nhiều đoạn chứa yếu tố hồi kí. Tuy nhiên, các đoạn ấy chỉ được lồng trong dòng kể câu chuyện về quê đang diễn ra nên không thể xem cả tác phẩm là hồi kí.

b) Gợi ý đã nằm ngay trong đề bài. Ở hai chỗ trống thứ hai và thứ ba, đáp án có thể khác nhau về chữ dùng, nhưng phải đồng nghĩa hay gần nghĩa trong văn cảnh ; nhất thiết không được dùng hai chữ để điền vào mỗi chỗ trống.

2. Hãy chỉ ra đoạn văn tiêu biểu mang tính chất hồi kí trong Cố hương. Việc đưa đoạn văn rất dài đó lồng vào trong câu chuyện đang diễn ra có làm cho bố cục tác phẩm trở nên lỏng lẻo không ? Vì sao ? Tác dụng của đoạn văn ấy trong việc thể hiện nội dung tư tưởng tác phẩm ?

Trả lời:

Đoạn văn tiêu biểu mang tính chất hồi kí bắt đầu từ “Lúc bấy giờ, trong kí ức tôi” đến “Nhưng từ đấy chúng tôi không hề gặp mặt nhau nữa”. Đoạn văn rất dài, song đọc xong ta vẫn không thấy dấu vết chắp vá vì đã được đưa vào một cách rất tự nhiên (xuất hiện ngay sau lúc mẹ “tôi” nhắc đến Nhuận Thổ) và kết thúc cũng rất tự nhiên (liền sau đó là câu : “Bây giờ mẹ tôi nhắc đến Nhuận Thổ, kí ức tôi bỗng như bừng sáng lên trong chốc lát”). Nhờ đoạn văn mang tính chất hồi kí này, tác giả có điều kiện làm nổi bật tình cảm thắm thiết của “tôi” đối với người bạn nông dân thời thơ ấu, qua đó, cả với làng quê xưa trong kí ức, đồng thời tạo cơ sở để tô đậm sự thay đổi quá nhanh chóng của làng quê hiện nay.

Trả lời:

“Tình cảnh cũng chẳng ra gì” của Nhuận Thổ, thân hình tàn tạ của Nhuận Thổ (nước da vàng sạm, những nếp răn sâu hoắm, mi mắt viền đỏ húp mọng lên, bàn tay vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông,…) cố nhiên làm cho “tôi” đau xót nhưng điều làm cho “tôi” đau xót nhất là sự thay đổi diện mạo về tình thần ở Nhuận Thổ. Sự thay đổi đó thể hiện một cạch đột ngột qua chi tiết Nhuận Thổ “lấy một dáng điệu cung kính, chào rất rành mạch : Bẩm ông !”. Điều đó chứng tỏ tư tưởng đẳng cấp phong kiến đã ăn rất sâu vào đầu óc Nhuận Thổ, và nếu vậy thì Nhuận Thổ, cũng như nông dân lao động Trung Quốc, không bao giờ được đổi đời.

Có một điều không thay đổi ở Nhuận Thổ là tình bạn nằm tận đáy lòng đối với “tôi”. Bởi vậy, đến thăm bạn cũ, dù nhà rất nghèo túng, anh vẫn không quên mang theo một bọc giấy gói “ít đậu xanh của nhà phơi khô” để tặng bạn. Cần đối chiếu điều không thay đổi này với sự thay đổi trong cách xưng hô của Nhuận Thổ đối với “tôi” để thấy tác hại của lễ giáo phong kiến và qua đó, thấy sự phê phán sâu sắc của tác giả.

4. Câu 4, trang 218 – 219, SGK.

Trả lời:

a) tự sự

b) miêu tả

c) nghị luận

Em tự phân tích tác dụng của từng phương thức biểu đạt và sự kết hợp của các phương thức biểu đạt trong văn cảnh.

5*. a) Cố hương có mấy nhân vật chính ? Nhân vật nào là nhân vật trung tâm ? Vì sao ?

c) Ngoài các nhân vật chính và nhân vật phụ, còn loại nhân vật nào nữa không ? Tác dụng của những loại nhân vật ấy ?

Trả lời:

a) Có thể chỉ ra ngay hai nhân vật chính. Vấn đề là xác định nhân vật nào là nhân vật trung tâm.

Cho đến nay, còn 3 ý kiến khác nhau :

– Cả hai đều có vai trò như nhau nên không có nhân vật trung tâm.

– Nhuận Thổ là nhân vật trung tâm vì đó là nhân vật xuất hiện nổi bật nhất trong tác phẩm, vì qua nhân vật đó tác giả đã phê phán tội ác của xã hội phong kiến, lễ giáo phong kiến và từ thực tế cuộc đời Nhuận Thổ, tác giả mới suy nghĩ về con đường đi của xã hội Trung Quốc, của những người nông dân Trung Quốc.

Người viết SGK tán thành ý kiến thứ ba. Nếu tán thành, các em có thể đi sâu phân tích kĩ hơn. Đây là một đề mở, bước đầu rèn luyện tư duy phản biện nên có thể phát biểu thoải mái. Em có thể tán thành ý kiến thứ nhất, hoặc thứ hai, miễn là lập luận có căn cứ.

b) Ít nhất cũng có thể chỉ ra Cố hương có 4 nhân vật phụ là Hoàng, Thuỷ Sinh, mẹ của “tôi” và thím Hai Dương. Có thể phân tích vị trí, tác dụng của nhân vật mẹ “tôi” hoặc thím Hai Dương song không thể chỉ phân tích một mình Thuỷ Sinh hoặc Hoàng vì tác giả đã có dụng ý rất sâu sắc khi cho hình tượng hai em bé này đi “song hành” với nhau để đối chiếu với một cặp nhân vật cũng đi “song hành” khác là “tôi” và Nhuận Thổ trong quá khứ cũng như “tôi” và Nhuận Thổ trong hiện tại. Đây cũng là một đề mở, các em có rất nhiều ý để phát biểu.

Chẳng hạn, sự xuất hiện của thím Hai Dương :

– Cho thấy rõ sự xuống dốc của “cố hương”, không chỉ về cuộc sống vật chất mà cả diện mạo tinh thần.

– Thím Hai Dương xuất hiện trước, tự nhắc lại những quan hệ trước đây với “tôi” mà “tôi” vẫn không hình dung ra, trong lúc mẹ “tôi” mới nhắc đến tên Nhuận Thổ là lập tức bao kỉ niệm thời thơ ấu giữa “tôi” và Nhuận Thổ đã tuôn ra ào ạt. Sự hững hờ của “tôi” đối với thím Hai Dương đã tô đậm thêm tình bạn thắm thiết thời thơ ấu giữa “tôi” và Nhuận Thổ, từ đó, cũng tô đậm thêm màu sắc bi kịch của tình trạng “cách bức” giữa “tôi” và Nhuận Thổ hiện nay…

c) Có thể nêu thêm những hình tượng nhân vật không tên và nhân vật đám đông, một loại hình tượng xuất hiện khá phổ biến trong truyện ngắn Lỗ Tân. Dưới bàn tay danh thủ truyện ngắn Lỗ Tấn, không có một chi tiết thừa, một nhân vật thừa, dù là nhân vật đám đông. Các em hãy suy ngẫm về ý nghĩa của những dòng sau đây : “Kẻ đến đưa chân, người đến lấy đồ đạc. Có kẻ vừa đưa chân vừa lấy đồ đạc. Gần tối, chúng tôi xuống thuyền thì tất cả đồ đạc trong ngôi nhà cũ, hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch trơn như quét.”

6*. Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi ở dưới :

“Tôi đang mơ màng thì trước mắt tôi hiện ra cảnh tượng một cánh đồng cát, màu xanh biếc, cạnh bờ biển, trên vòm trời xanh đậm, treo lơ lửng một vừng trăng tròn vàng thắm. Tôi nghĩ bụng : Đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng giống như những con đường trên mặt đất ; kì thực trên mặt đầt vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi.”

a) Cuối tác phẩm, vì sao tác giả lại cho xuất hiện cảnh tượng “trên vòm trời xanh đậm, treo lơ lửng một vừng trăng tròn vàng thắm…” ?

b) Ý nghĩ của nhân vật “tôi” : “Đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư.” có mối liên hệ nội tại với cảnh tượng nói trên như thế nào ?

Trả lời:

a) Cần lưu ý là cảnh tượng đẹp đẽ này giống hệt cảnh tượng “bỗng hiện lên trong kí ức tôi” khi vừa nghe mẹ báo tin là Nhuận Thổ sắp đến thăm. Mặt khác, cũng cần biết “lam thiên viên nguyệt” (chữ trong nguyên văn, nghĩa là “vầng trăng tròn trên vòm trời xanh đậm”) là một cảnh đẹp giàu ý nghĩa biểu tượng, tượng trưng cho những gì tươi sáng. Cho nên, đây là một hình ảnh mang ý nghĩa song trùng : vừa gợi lên niềm lưu luyến đối với những kỉ niệm đẹp thuở ấu thơ khi còn ngày ngày vui chơi với Nhuận Thổ, vừa hi vọng những cảnh đời tươi vui, trong sáng như thế có thể xuất hiện lại.

b) Nhờ hàm nghĩa thứ hai của cảnh tượng đẹp nói trên nên chuyển sang bàn về vấn đề “hi vọng” là rất tự nhiên, hợp lôgíc.

Nguyên văn câu bàn về hi vọng là : “Hi vọng bản vô sở vị hữu, vô sở vị vô đích.” nên dịch như học giả Trương Chính là quá thoát. Có thể và cần sửa lại : “Đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là có, đâu là không“. Vì có, không, không đồng nghĩa với thực, hư. Và nói có, không thì mới dẫn tới sự xuất hiện hình ảnh con đường ở sau một cách tự nhiên.

c) Tác giả có tính phê phán sâu sắc này nhằm vạch ra nguyên nhân tạo nên cuộc sống bi thảm của nông dân, song mục đích cuối cùng là kêu gọi họ đứng dậy đấu tranh để thoát khỏi cảnh cùng khổ, thực hiện lí tưởng tốt đẹp của mình. Động cơ trong sáng ở cuối tác phẩm đã thăng hoa thành một hình ảnh giàu tính biểu tượng, đã trở thành một danh ngôn, không chỉ phù hợp với tình cảnh nông dân Trung Quốc đương thời mà còn trở thành một phương châm sống, hành động phù hợp với bất cứ ai muốn vươn mình lên phía trước.

7. Hãy chỉ ra tác dụng của việc sử dụng phép so sánh trong Cố hương.

Trả lời:

Cần lưu ý việc sử dụng phép so sánh trong việc tả ngoại hình Nhuận Thổ, thím Hai Dương và thể hiện niềm hi vọng của nhân vật “tôi”.

Có thể tham khảo gợi ý cho câu 6 ở trên để phân tích việc sử dụng phép so sánh trong lúc thể hiện niềm hi vọng của nhân vật “tôi”, còn việc sử dụng phép so sánh trong việc tả ngoại hình Nhuận Thổ, thím Hai Dương thì tương đối dễ, HS nào cũng làm được.

chúng tôi

Soạn Bài Cố Hương Của Lỗ Tấn Lớp 9

Soan bai Co huong – Đề bài: Soạn bài Cố hương của Lỗ Tấn lớp 9. 1. Bố cục của văn bản “Cố hương” có thể chia làm ba phần như sau: Phần 1: Từ đầu đến “làm ăn sinh sống” đây là hành trình trở về quê hương của nhân vật “tôi”. Phần 2: Tiếp đến “mang đi sạch trơn”: Nói về hình ảnh quê hương và con người trong quá khứ và thực tại. Phần 3: Còn lại: Những suy ngẫm của nhân vật tôi trên đường ra đi. 2. Trong truyện có hai …

– Đề bài: .

1. Bố cục của văn bản “Cố hương” có thể chia làm ba phần như sau:

Phần 1: Từ đầu đến “làm ăn sinh sống” đây là hành trình trở về quê hương của nhân vật “tôi”. Phần 2: Tiếp đến “mang đi sạch trơn”: Nói về hình ảnh quê hương và con người trong quá khứ và thực tại. Phần 3: Còn lại: Những suy ngẫm của nhân vật tôi trên đường ra đi.

2. Trong truyện có hai nhân vật chính:

+ Nhân vật “tôi” + Nhân vật Nhuận Thổ.

Trong đó nhân vật Nhuận Thổ chính là nhân vật trung tâm của câu chuyện. Vì sự thay đổi của Nhuận Thổ cũng chính là sự thay đổi của con người ở quê hương của nhà văn nói chung. Thông qua nhân vật Nhuận Thổ, nhà văn Lỗ Tấn cũng làm nổi bật những nét đổi thay ở làng quê mình sau nhiều năm xa cách.

3. Nhà văn Lỗ Tấn đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đối lập để làm nổi bật sự thay đổi của nhân vật Nhuận Thổ: Đó chính là cái đối lập giữa một Nhuận Thổ mà nhà văn quen biết trong quá khứ và một Nhuận Thổ lạ lẫm mà nhà văn đang đối diện ở thực tại. Trong quá khứ, Nhuận Thổ là một cậu bé có diện mạo tuấn tú, nhanh nhẹn, hồn nhiên yêu đời, cậu bé giỏi nhiều thứ, là một “tiểu anh hùng” trong kí ức của Lỗ Tấn.

Nhưng Nhuận Thổ của hiện tại lại là một anh cố nông già nua, nghèo khó, đông con, sống rụt rè, cam chịu Không chỉ có Nhuận Thổ mà con người cũng như cảnh vật của quê hương cũng có sự đổi thay:

+ Thím Hai Dương, nàng “Tây Thi đậu phụ” trong kí ức của Lỗ Tấn nay là một người “hôi của”, sự thay đổi của thím Hai Dương chính là đại diện cho số đông những con người bị tha hóa về nhân cách, đạo đức. Thím Hai Dương hiện lên trong cảm nhận của Lỗ Tấn là một người đàn bà có dáng điệu kì lạ như một chiếc compa, hành động của người đàn bà này cũng đáng để nói đến “đến đưa chân để lấy đồ đạc hoặc vừa đưa chân vừa lấy đồ đạc.” + Cảnh vật quê hương thì cũng không còn đẹp như trong kí ức của nhà văn nữa, giờ đây nó có gì đó hoang tàn, thê lương hơn. Trước sự thay đổi của con người và cảnh vật, nhà văn không giấu được sự xót xa, đau đớn.

4. Nhà văn chủ yếu sử dụng phương thức miêu tả tự sự trong đoạn a ” Nhưng tiếc thay….”nhằm kể lại sự chia li của nhà văn và Nhân vật Nhuận Thổ.

. _ Đoạn b “Người đi vào là Nhuận Thổ….” Sử dụng biện pháp miêu tả nhằm làm nổi bật lên sự thay đổi của Nhuận Thổ sau nhiều năm xa cách _ Đoạn c “Tôi nghĩ bụng…” chủ yếu sử dụng phương thức nghị luận, qua đó nhà văn thể hiện những suy ngẫm về cuộc sống.