Soạn Văn 9 Bài Chuyện Cô Gái Nam Xương / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Soạn Văn 9: Chuyện Người Con Gái Nam Xương

Soạn Văn 9: Chuyện người con gái Nam Xương được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để hiểu rõ hơn về vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Vũ Nương một người phụ nữ Việt Nam thời xưa được trích từ tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ giúp các bạn học sinh tham khảo học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 9.

Soạn Văn: Chuyện người con gái Nam Xương (Trích Truyền kì mạn lục) Tóm tắt:

Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) đẹp người đẹp nết, được Trương Sinh thất học, hay ghen cưới về làm vợ. Trương Sinh phải đi lính, Vũ Nương ở nhà chăm sóc mẹ chồng chu đáo và nuôi con thơ. Khi mẹ chồng mất cũng lo ma chay chu tất. Khi Trương Sinh trở về, hay tin mẹ mất mà đau buồn. Con trẻ không biết không nhận cha, Trương Sinh đâm ghen tuông ngờ vực sự thủy chung của Vũ Nương. Vũ Nương chứng tỏ sự trong sạch của mình nên nhảy sông tự vẫn.

Phan Lang do cứu được Linh Phi nên được báo đáp. Sau đó gặp được Vũ Nương, Trương Sinh lập đàn giải oan cho vợ nhưng Vũ Nương không còn trở lại dương gian vì xã hội phong kiến quá hà khắc.

Câu 1 (trang 51 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Bố cục:

– Phần 1 (từ đầu … chịu khắp mọi người phỉ nhổ): Nỗi oan và cái chết của Vũ Nương.

– Phần 2 (còn lại): Vũ Nương ở thủy cung và nỗi oan được giải.

Câu 2 (trang 51 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Nhân vật Vũ Nương trong từng hoàn cảnh:

– Trước khi lấy Trương Sinh: Tính thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp.

– Khi về nhà chồng: Người vợ thảo hiền, nết na.

– Khi chồng đi lính: Con dâu hiếu thảo, người mẹ hiền, người vợ thủy chung.

– Khi bị nghi oan: Nàng phân tỏ lòng mình mà không có kết quả, đã tự trầm mình xuống sông để bảo toàn danh dự.

→ Vũ Nương là người phụ nữ hiền thục, người vợ thủy chung, yêu thương chồng con, là người con dâu hiếu thảo, là người phụ nữ coi trọng phẩm hạnh, danh dự.

Câu 3 (trang 51 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất vì:

– Nguyên nhân trực tiếp: Do Trương Sinh nghe lời nói ngây thơ của con trẻ, sinh nghi ngờ, ghen tuông.

– Nguyên nhân sâu xa:

+ Chế độ nam quyền, lễ giáo phong kiến.

+ Cuộc chiến tranh phi nghĩa gây chia ly.

→ Thân phận người phụ nữ bị xem nhẹ, khuất sau bóng người đàn ông.

Câu 4 (Trang 51 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Truyện dẫn dắt theo trình tự thời gian, các tình tiết được đan cài khéo léo, hé mở đầu truyện lại là nút thắt đẩy lên cao trào truyện (vì Trương Sinh thất học, tính hay ghen nên mới dễ dàng tin lời con trẻ và nghi oan vợ). Giọng văn trần thuật mang tính khách quan, cộng với lời văn đối thoại đầy tính bất ngờ đã khắc họa tâm lý, tính cách nhân vật thật sâu sắc, đưa truyện đến kịch tính.

Câu 5 (Trang 51 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

– Yếu tố kì ảo trong truyện:

+ Chuyện nằm mộng của Phan Lang, Phan Lang và Vũ Nương dưới động rùa.

+ Vũ Nương hiện về ngồi trên kiệu hoa, cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện, rồi “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”.

– Yếu tố kì ảo tạo ra thế giới huyền ảo hấp dẫn, kích thích trí tưởng tượng. Thể hiện tấm lòng nhân đạo, đó là ước mơ về một thế giới công bằng của nhân dân.

Soạn Văn 9 Vnen Bài 4: Chuyện Người Con Gái Nam Xương

A. Hoạt động khởi động

1. Nêu những nhận xét của em về Vũ Nương qua lời thoại sau của nhân vật

Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám.Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.

B. Hoạt động hình thành kiến thức

1. Đọc văn bản 2. Tìm hiểu văn bản

a) Tìm bố cục của truyện bằng cách hoàn thành sơ đồ sau (ghi vào vở)

Nghĩa tình son sắt của Vũ Nương dành cho gia đình nhà chồng

Phần 1

(từ đầu đến “lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.”)

Nỗi oan khuất và cái chết của Vũ Nương

Phần 2

(từ “Qua năm sau, giặc ngoan cố” đến “nhưng việc trót đã qua rồi!”)

b) Nhận xét về những phẩm chất của Vũ Nương được thể hiện ở từng phần của câu chuyện .

c) Nguyên nhân dẫn đến nỗi oan khuất của Vũ Nương là gì? Theo em, nguyên nhân nào là quan trọng nhất? Vì sao?

– Nguyên nhân trực tiếp:

+ Lời nói ngây thơ của bé Đản đã vô tình gây nên mối hiểu lầm của Trương Sinh.

+ Nguyên nhân đáng trách nhất để dẫn đến cái chết oan khuất của Vũ Nương đó là tính cách đa nghi, ít học của Trương Sinh. Khi nghe lời nói ngây thơ của con trẻ, chàng chẳng thèm suy xét đúng sai hay lắng nghe những lời phân trần mà vội vàng kết tội vợ mình. Chính sự hồ đồ, độc đoán, tệ bạc này của Trương Sinh là nguyên nhân quan trọng nhất đẩy Vũ Nương đến đường cùng không lối thoát. Nếu Trương Sinh là một người tỉnh táo và biết lắng nghe, suy xét, có lẽ bi kịch này sẽ không xảy ra.

– Nguyên nhân gián tiếp:

+ Do chế độ nam quyền độc đoán, một xã hội mà nam nữ không bình đẳng, hôn nhân không có tình yêu và tự do.

+ Do chiến tranh phong kiến phi nghĩa.

d) Từ bi kịch của Vũ Nương, hãy nêu lên những cảm nhận của em về thân phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến.

Bi kịch số phận của Vũ Nương bắt nguồn từ một cái bóng, và thân phận của nàng cũng giống như chính cái bóng trên tường: nhỏ nhoi, mong manh, leo lét. Cũng như Vũ Nương, người phụ nữ nói chung sống dưới chế độ phong kiến hoàn toàn không được làm chủ cuộc đời của mình. Họ luôn phải phụ thuộc vào những người đàn ông, bị coi rẻ danh dự và nhân phẩm. Bi kịch của Vũ Nương là tiếng nói thương cảm cho số phận bất hạnh của người phụ nữ và cực lực lên án xã hội phong kiến đương thời bất công, phi lí chà đạp, rẻ rúng con người.

e) Nhận xét về cách dẫn dắt câu chuyện, tác dụng của những lời đối thoại và tự bạch của nhân vật, những yếu tố kì ảo hoang đường trong truyện.

– Cách dẫn dắt câu chuyện: Tác giả dẫn dắt câu chuyện có diễn biến, cao trào, thắt nút, mở nút, kết thúc rất khéo léo, kịch tính.

– Những lời đối thoại, tự bạch sinh động và có tác dụng thể hiện tính cách, diễn biến tâm lí của nhân vật và tạo kịch tính cho truyện.

– Những chi tiết kì ảo, hoang đường trong truyện:

+ Tăng sức hấp dẫn, cuốn hút cho chuyện.

+ Hoàn chỉnh thêm những nét đẹp vốn có của Vũ Nương, một người dù đã ở thế giới khác, vẫn quan tâm đến chồng con, nhà cửa, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự.

+ Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công bằng: người tốt dù có phải trải qua bao oan khuất, cuối cùng sẽ được minh oan.

3. Tìm hiểu về sự phát triển của từ vựng

Đọc các ví dụ và trả lời câu hỏi.

(1) Mùa xuân đã đến trên quê hương tôi.

(2) Tuổi xuân của cô tôi đã trôi qua.

(3) Bạn ấy ngã xe nên bị đau tay.

(4) Anh ấy là tay văn nghệ có tiếng trong trường.

(5) Mấy ngày nay, nước nóng lên tới 40 độ C.

(6) Cả hội trường nóng lên khi người ca sĩ cất tiếng hát.

(7) Chúng tôi lau bàn ghế khi trực nhật.

(8) Cuộc bầu cử nhằm chọn ra 30 ghế trong Hạ viện.

1. Hãy nêu nghĩa của các từ được in đậm trong những ví dụ trên.

(1) Xuân: chỉ mùa xuân, mùa khởi đầu trong một năm.

(2) Xuân: chỉ tuổi trẻ

(3) Tay: bộ phận phía trên của cơ thể, từ vai đến ngón, dùng để cầm, nắm

(4) Tay: người chuyên hoạt động hay giỏi về một môn, một nghề nào đó

(5) Nóng: Chỉ nhiệt độ cao

(6) Nóng: không khí sôi động

(7) Ghế: một đồ vật dùng để ngồi

(8) Ghế: một vị trí trong một cơ quan, tổ chức

1. Theo em, từ nào được dùng theo nghĩa gốc, từ nào được dùng theo nghĩa chuyển?

Những từ (1), (3), (5), (7) được dùng theo nghĩa gốc

Những từ (2), (4), (6), (8) được dùng theo nghĩa chuyển

1. Nghĩa chuyển của những từ nào được hình thành theo phương thức ẩn dụ, từ nào theo phương thức hoán dụ?

Nghĩa chuyển của từ (2), (6) được hình thành theo phương thức ẩn dụ.

Nghĩa chuyển của từ (6), (8) được hình thành theo phương thức hoán dụ.

d. Những nội dung sau nói về sự phát triển của từ vựng. Chọn các phương án đúng (ghi vào vở).

4. Tìm hiểu về cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp

Đọc đoạn trích và trả lời câu hỏi

Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao viết Lão Hạc sau Chí Phèo, Trẻ con không được ăn thịt chó, Tư cách mõ, Một bữa no. Nhân vật trong các truyện đó từng ngã quỵ trước bản năng, miếng ăn, cái đói .Đói khiếp thật! Miếng ăn quý thật nhưng vì nó mà đánh đổi tất cả thì quả đáng buồn. Suốt cuộc đời ngắn ngủi của Nam Cao, cái đói luôn ám ảnh. Ông từng chua chát nói: “Trọn đời tôi, tôi chỉ lo chết đói. Như thế bảo còn nghĩ đến cái to tát sao được”. Thế mà ông nghĩ đấy, ông nghĩ đói khổ là nguy cơ hủy diệt nhân cách và tinh thần con người. Miếng ăn thành thử thách, Nam Cao đã trộn lẫn hai cuộc đời thực từ làng Đại Hoàng quê ông để sáng tạo nên Lão Hạc, trao cho lão vũ khí tinh thần và không muốn lãng thua cuộc. Lão đã lớn từ trang sách cách, trở thành biểu tượng của nhân cách.

(Theo Hoàng Thị Thương, Tiếng nói tri âm)

a) Những phần được in đậm là trích dẫn lời nói hay ý nghĩ? Nó được ngăn cách với bộ phận đứng trước bởi dấu gì?

Phần in đậm đầu tiên là trích dẫn lời nói, được ngăn các với bộ phận đứng trước bằng dấu hai chấm và dấu ngoặc kép.

Phần in đậm thứ hai là trích dẫn ý nghĩ, không được ngăn cách với bộ phận đứng trước.

b) Chỉ ra sự giống nhau và khác nhau về nội dung và hình thức của hai cách dẫn trên.

Giống: đều là thuật lại lời nói, ý nghĩ của một người.

Khác:

– Về nội dung:

+ Cách thứ nhất: lời nói được nhắc lại nguyên văn

+ Cách thứ 2: ý nghĩ được thuật lại

– Về hình thức:

+ Cách dẫn thứ nhất: Nằm trong dấu ngoặc kép và nằm sau dấu 2 chấm.

+ Cách dẫn thứ 2: Không đặt trong dấu ngoặc kép.

c) Cách dẫn thứ nhất được gọi là dẫn trực tiếp. Cách dẫn thứ 2 được gọi là dẫn gián tiếp. Hãy hoàn thiện (vào vở) những thông tin còn thiếu để có được những khái niệm đúng.

Dẫn gián tiếp: là thuật lại lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân vật, có sự điều chỉnh nhất định, phần dẫn (…)

Dẫn trực tiếp: là nhắc lại lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân vật, (…) phần dẫn được đặt trong dấu ngoặc kép.

Dẫn gián tiếp: là thuật lại lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân vật, có sự điều chỉnh nhất định, phần dẫn không đặt trong dấu ngoặc kép.

Dẫn trực tiếp: là nhắc lại lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân vật một cách nguyên văn, phần dẫn được đặt trong dấu ngoặc kép.

C. Hoạt động luyện tập

1. Luyện tập đọc hiểu văn bản Chuyện người con gái Nam Xương

a) Kể tóm tắt văn bản Chuyện người con gái Nam Xương

Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương là người con gái thùy mị nết na tư dung tốt đẹp nên Trương Sinh đem lòng yêu mến bảo mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng làm vợ. Biết chồng có tính đa nghi Vũ Nương luôn giữ gìn khuôn phép ăn ở đúng mực. Gả cho Trương Sinh chưa được bao lâu thì phải tiễn chồng đi lính. Vũ Nương ở nhà chăm sóc mẹ già con trẻ. Bà mẹ vì quá nhớ con buồn rầu mà chết. Nàng ma chay tế lễ chu đáo. Vũ Nương hàng đêm thường chỉ bóng mình trên vách bảo với con đấy là cha Đản. Khi giặc tan Trương Sinh trở về đứa trẻ không nhận là cha mình. Trương Sinh tình cờ biết con còn có một người khác mà đêm đêm vẫn đến, nghi ngờ vợ mình thất tiết, về đến nhà chàng mắng chửi thậm tệ và ruồng bỏ đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà mặc cho hàng xóm và nàng đã hết sức thanh minh. Vũ Nương uất ức tự tử ở bến Hoàng Giang được Linh Phi – vợ vua Nam Hải cứu sống và đưa về ở trong động rùa. Ở nhà, đêm tối bóng Trương Sinh in trên vách thấy con gọi cha Trương Sinh mới vỡ lẽ ra nỗi oan của vợ thì quá muộn. Ở dưới thủy cung, Vũ Nương luôn hướng về gia đinh nhờ sự giúp đỡ của Linh Phi và Phan Lang (người cùng làng) Vũ Nương được Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến Hoàng Giang. Sự trở về của nàng vô cùng lộng lẫy lúc ẩn lúc hiện rồi biến mất.

b) Viết đoạn văn trình bày cảm nhận của em về một trong hai nhân vật: mẹ Trương Sinh, Trương Sinh.

Qua truyện ngắn Người con gái Nam Xương, chân dung tính cách Trương Sinh hiện lên với thói gia trưởng, độc đoán, đa nghi và hay ghen tuông vô cớ. Trong thiên truyện, Trương Sinh đóng vai trò là người tạo dựng nên thảm kịch đối với người vợ Vũ Nương. Từ lời nói hồn nhiên của con trai, Trương Sinh đã thiếu suy nghĩ nên tự mình hình dung Vũ Nương đã không giữ gìn khí tiết, gian díu với người ngoài trong thời gian anh đi lính. Anh ta đinh ninh là vợ hư: “mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”. Trương Sinh đã xử sự hồ đồ, độc đoán, la mắng, đánh đuổi vợ, không bình tĩnh phán đoán, phân tích sự việc, cũng không tin hàng xóm bênh vực Vũ Nương và những lời phân trần của nàng. Chính sự ích kỉ, tàn nhẫn, mù quáng của Trương Sinh đã đẩy Vũ Nương đến chỗ nàng phải tự vẫn để chứng tỏ tấm lòng trong sạch của mình. Sự vô lí, mê muội của Trương Sinh phản ánh bộ mặt xã hội phong kiến nam giới chuyên quyền, trọng nam khinh nữ, người phụ nữ hoàn toàn không có tiếng nói trong gia đình. Trong câu chuyện, dù nhân vật Trương Sinh không được tác giả chú trọng xây dựng nhưng lại có sức biểu đạt sâu sắc. Đó cũng là dụng ý của ông, nhằm muốn nói xã hội phong kiến mục ruỗng cùng với những quy định khắc khe của nó ấy dù không nổi bật nhưng lại có sức ảnh hưởng âm thầm ghê gớm. Nó giống như một sợi dây vô hình siết chặt và quyết định vận mệnh con người.

2. Luyện tập về sự phát triển của từ vựng

a) Nghĩa gốc của từ mũi là: bộ phận nhô lên ở giữa mặt người và động vật có xương sống dùng để thở, ngửi.

Trong những câu sau, từ mũi được dùng với nghĩa gốc hay nghĩa chuyển:

(1) Chúng tôi vừa đi thăm mũi đất Cà Mau.

(2) Du lịch đã trở thành ngành mũi nhọn của địa phương.

(3) Họ thích đứng ở mũi tàu ngắm nhìn sông nước,

(4) Viêm mũi dị ứng là bệnh khá phổ biến ở trẻ nhỏ.

Câu (1), (2), (3) từ “mũi” được dùng theo nghĩa chuyển

Câu (4), từ “mũi” dùng theo nghĩa gốc.

b) Từchân trong các câu sau là từ nhiều nghĩa. Hãy xác định:

– Ở câu nào, từ chân dùng với nghĩa gốc?

– Ở câu nào từ chân dùng với nghĩa chuyển theo phương thức ẩn dụ?

– Ở câu nào từ chân dùng với nghĩa chuyển theo phương thức hoán dụ?

(1) Đề huề từng túi gió trăng

Sau chân, theo một vài thằng con con.

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

(2) Năm em học sinh lớp 9A có chân trong đội tuyển của trường đi dự “Hội khỏe Phù Đổng”.

(3) Dù ai nói ngả nói nghiêng

Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.

(4) Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

– Câu (1), từ “chân” được dùng với nghĩa gốc

– Câu (3), (4), từ “chân” được dùng với nghĩa chuyển theo phương thức ẩn dụ.

– Câu (2), từ chân dùng với nghĩa chuyển theo phương thức hoán dụ.

c) Vì sao nói các từ: ngân hàng, sốt, vua là những từ có nghĩa chuyển. Cho ví dụ để chứng minh điều đó.

Ngân hàng:

– Nghĩa gốc là “tổ chức kinh tế hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh và quản lý các nghiệp vụ tiền tệ, tín dụng”.

Ví dụ: “Tôi làm thẻ ATM ở ngân hàng BIDV”.

– Nghĩa chuyển là:

Nơi lưu trữ, bảo quản những thành phần, bộ phận cơ thế (ngân hàng máu, ngân hàng gen,…) hoặc dữ liệu

Ví dụ: Ngân hàng đề thi lên tới hàng trăm nghìn câu hỏi để phục vụ kì thi năm nay.

Sốt:

– Nghĩa gốc là “tăng nhiệt độ cơ thể lên quá mức bình thường do bị bệnh”.

Ví dụ: Anh ấy bị sốt đến 40 độ C

– Nghĩa chuyển: Tình trạng tăng nhu cầu đột ngột làm cho hàng hoá trở nên khan hiếm: cơn sốt đất, cơn sốt vàng, cơn sốt hàng hóa,…

Ví dụ: Cơn sốt vàng năm nay đã đẩy giá vàng lên rất cao.

Vua:

– Nghĩa gốc là “người đứng đầu của nhà nước quân chủ”.

Ví dụ: “Lê Chiêu Thống là một ông vua cõng rắn cắn gà nhà”.

– Nghĩa chuyển là “người đàn ông được coi là nhất trong một lĩnh vực nhất định, thường là sản xuất, kinh doanh, thể thao, nghệ thuật”.

Ví dụ: Pele được mệnh danh là ông vua bóng đá.

d) Trong hai câu thơ:

Ngày ngày mặt tời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

(Viễn Phương, Viếng lăng Bác)

Từ mặt trời ở câu thứ hai được dùng theo phép tu từ nào? Mang ý nghĩa gì? Có thể coi đây là hiện tượng phát triển nghĩa từ nghĩa gốc của từ mặt trời được hay không? Vì sao?

– Từ mặt trời trong câu thơ thứ hai được sử dụng theo phép tu từ ẩn dụ. Mang ý nghĩa ngợi ca sự vĩ đại, lớn lao của Bác Hồ.

– Đây không phải là hiện tượng phát triển nghĩa của từ, bởi vì sự chuyển nghĩa của từ mặt trời trong câu thơ có tính chất lâm thời, nó không làm cho từ có thêm nghĩa mới.

3. Luyện tập về cách dẫn trưc tiếp và cách dẫn gián tiếp

a) Tìm lời dẫn trong những đoạn trích sau (trích từ truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao). Em hãy cho biết đó là lời nói hay ý nghĩ và được dẫn theo cách nào?

(1) Lão tìm lời lẽ giảng giải cho con trai hiểu. Lão khuyên nó hãy dằn lòng bỏ đám này, để dùi giẳng lại ít lâu, xem có đám nào khá mà nhẹ tiền hơn sẽ liệu; chẳng lấy đứa này thì lấy đứa khác; làng này đã chết con gái đâu mà sợ.

(2) Nó cứ làm in như nó trách tôi; nó kêu ư ử; nhìn tôi như muốn bảo tôi rằng; “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à?”

(3) Sau khi thằng con đi, lão tự bảo rằng: “Cái vườn là của con ta. Hồi còn mồ ma mẹ nó, mẹ nó cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi, mới để ra được 50 đồng bạc tâu. Hồi ấy, mọi thứ còn rẻ cả…”

(1) Lời dẫn hãy dằn lòng bỏ đám này, để dùi giẳng lại ít lâu, xem có đám nào khá mà nhẹ tiền hơn sẽ liệu; chẳng lấy đứa này thì lấy đứa khác; làng này đã chết con gái đâu mà sợ.

Dẫn lời nói – cách dẫn gián tiếp

(2) Lời dẫn “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à?”

Dẫn ý nghĩa – cách dẫn trực tiếp

(3) “Cái vườn là của con ta. Hồi còn mồ ma mẹ nó, mẹ nó cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi, mới để ra được 50 đồng bạc tâu. Hồi ấy, mọi thứ còn rẻ cả…”

Dẫn ý nghĩ – cách dẫn trực tiếp

Soạn Bài Chuyện Người Con Gái Nam Xương Trang 43 Sgk Văn 9

1. Đại ý: Đây là câu chuyện về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh dưới chế độ phu quyền phong kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ của con trẻ mà bị nghi ngờ, bị sỉ nhục, bị đẩy đến bước đường cùng, phải tự kết liễu cuộc đời mình để giãi tỏ tấm lòng trong sạch. Tác phẩm cũng thể hiện mơ ước ngàn đời của nhân dân là người tốt bao giờ cũng được đền trả xứng đáng, dù chi là ở một thế giới huyền bí.

– Bố cục: Truyện có thế chia làm 3 đoạn:

* Đoạn 1- Từ đầu truyện đến “lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”, nói về cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách.

* Đoạn 2: “Qua năm sau… nhưng việc trót đã qua rồi”, nói về nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương.

* Đoạn 3: Phần còn lại, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân, cái thiện bao giờ cũng chiến thắng cái ác.

2. Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong những hoàn cảnh khác nhau và nàng đã bộc lộ được những đức tính đáng quý như:

– Tình huống 1: Trước tính hay ghen của Trương Sinh, trong “giữ gìn khuôn phép, không từng lúc nào để vợ chồng phải đến thất hòa”.

– Tình huống 2: Khi tiễn chồng đi lính, lời dặn dò đầy tình nghĩa của Vũ Nương, không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu cho chồng được bình an trở về; cảm thông trước những nỗi vất vả, gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng; nói lên nỗi khắc khoải nhớ nhung của mình.

– Tình huống 3: Khi xa chồng, Vũ Nương là người vợ thủy , nhung nhớ chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ cứ dài theo năm tháng. Những hình ảnh “bướm lượn đầy vườn” – chỉ cảnh mùa xuân vui tươi, “mây che kín núi – chỉ cảnh mùa đông ảm đạm. (Đó là những hình ảnh ước lệ, mượn cảnh vật thiên nhiên để chỉ sự trôi chảy của thời gian). Nàng còn là người mẹ hiền, dâu thảo, một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa tận tình chăm sóc mẹ già những lúc yếu đau, lo thuốc thang, cầu khẩn thần Phật, và lúc nào cũng dịu dàng, ân cần “lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Đặc biệt lời nói cuối cùng của mẹ chồng đã thể hiện sự ghi nhận nhân cách và đánh giá cao công lao của nàng đối với gia đình chồng. Và khi bà chết “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình…”.

– Tình huống 4: Khi bị chồng nghi oan. Có 3 lời thoại của Vũ Nương:

Lời thoại 1: Phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Vũ Nương nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan, nghĩ là đã hết lòng tìm cách hàn gắn cái hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.

Lời thoại 2: Nói lên nỗi đau đớn, thất vọng khi không hiểu vì sao bị đôi xử bất công, bị “mắng nhiếc… và đánh đuổi đi”, không có quyền được tự bảo vệ, ngay cả khi có “họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho”. Hạnh phúc gia đình “thú vui nghi gia nghi thất”, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rủ trong ao, liễu tàn trước gió…”, cả nỗi đau khổ chờ chồng đến thành hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa “đâu còn có thể lại lên núi Vọng phu kia nữa”.

Lời thoại 3: Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào hàn gắn nổi, Vũ Nương đành mượn con sông quê hương để giải tỏ tấm lòng trong trắng của mình, nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than rằng…. Lời than như một lời nguyền, xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của nàng. Ở đoạn truyện này, tình tiết được sắp xếp đầy kịch tính. Vũ Nương bị dồn đẩy đến bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận sô phận sau mọi cố gắng không thành. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bão toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay, nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí (Chi tiết “tắm gội chay sạch” và lời nguyện cầu của nàng), không phải là hành động bộc phát trong cơn nóng giận như truyện cổ tích miêu tả (Vũ Nương chạy một mạch ra bến Hoàng Giang đâm đầu xuống nước).

* Tóm lại: Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục, lại đảm đang, tháo vát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một dạ thủy chung với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn.

3. Nhân vật Trương Sinh:

– Trương Sinh là “con nhà hào phú, nhưng không có học”. Trương lấy Vũ Nương nào phải là tình yêu, mà chỉ là “mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Mầm mống bi kịch của Vũ Nương có lẽ đã bắt đầu từ những yếu tố này. Cuộc hôn nhân vốn đã không bình đẳng giữa nam và nữ, lại thêm sự cách bức giàu nghèo: Vũ Nương “vốn con kẻ khó”, lấy Trương Sinh là “được nương tựa nhà giàu”, Vũ Nương sẽ là nạn nhân của một chế độ đầy bất công.

– Trong đời sống vợ chồng, Trương là người chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”

– Hết chiến tranh, Trương Sinh trờ về và đối diện với nỗi mất mát: mẹ già thương nhớ con nên sinh bệnh và đã qua đời.

Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, tính tình chàng càng dễ bị kích động. Lời nói ngâv thơ của con trẻ đã kích động tính ghen tuông của Trương. Tác giả đã xây dựng đoạn truyện này bằng những chi tiết đầy kịch tính. Chàng bế con đứa trẻ không chịu, ra đến đồng, nó quấy khóc”. Chàng dỗ dành, đứa con ngây thơ nói: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”. Lời nói được tách ra hai phần, phần sau thông tin càng “ghê gớm” hơn phần trước. Làm sao Trương Sinh khỏi bàng hoàng khi biết đứa trẻ có những hai người cha: Người cha – Trương Sinh biết nói, còn người cha trước kia “chỉ nín thin thít. Sau đó lại thêm những thông tin: “một người đàn ông, đêm nào cùng đến, mẹ Đản đi củng đi, mẹ Đản ngồi củng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Tục ngữ có câu: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, trẻ con bao giờ cũng nói thật. Những lời nói ngây thơ của đứa con khiến người ta không thể không nghĩ đến cảnh tượng của một đôi gian phu dâm phụ, huống chi là Trương Sinh: “Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”. Cách dẫn dắt tình tiết như vậy là rất chân thực và khéo léo.

Tuy nhiên, điều đáng tránh là cách xử sự của Trương Sinh. Con người ít học này đã hành động một cách quá nông nổi và hồ đồ. Không cần hỏi đến vợ nửa lời, vừa về đến nhà, chàng đã “la um lên cho hả giận. Chàng không còn bình tĩnh để phân tích, phán đoán, mặc kệ những lời phân trần của Vũ Nương, rồi “họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, củng chẳng ăn thua gì”. Cách duy nhất để làm sáng tỏ mọi chuyện là giải quyết chính cái nguyên nhân gây xung đột: kể lại câu chuyện của đứa trẻ. Nhưng điều tệ hại nhất là chàng không cho nàng có cơ hội để minh oan khi nhất quyết “giấu không kể lời con nói”. Trương Sinh từ một người chồng độc đoán, ghen tuông mù quáng, đã trở thành một kẻ vũ phu, thô bạo: “mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi”. Hành động ấy đã bức tử Vũ Nương, đã buộc người phụ nữ đáng thương ấy phải chết một cách bi thảm. Đáng giận hơn nữa là cái chết của Vũ Nương vẫn không thế làm cho Trương tỉnh ngộ đế tin nàng trong sạch. Chàng vẫn giận là nàng thất tiết” và chỉ “động lòng thương”.

Nhân vật Trương Sinh là hiện thân của chế độ phụ quyền phong kiến bất công. Sự độc đoán, chuyên quyền đã làm tê liệt lí trí, đã giết chết tình người và dẫn đến bi kịch.

4. Nhận xét: về cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện của tác giả: trên cơ sở cốt truyện có sẵn, tác giả đã sắp xếp lại một số tình tiết, thêm bớt hoặc tô đậm những tình tiết có tính chất quyết định, có ý nghĩa đến quá trình diễn biến của truyện cho hợp lí, tăng cường tính bi kịch và cũng làm cho truyện trở lên hấp dẫn và sinh động hơn. Chẳng hạn thêm chi tiết Trương Sinh “đem trăm lạng vàng” cưới Vũ Nương, cuộc hôn nhân trở nên có tính chất mua bán: lời trăng trối của bà mẹ chồng khẳng định một cách khách quan nhân cách và công lao của Vũ Nương đối với gia đình nhà chồng; những lời phân trần; giãi bày của nàng khi bị nghi oan và hành động bình tĩnh, quyết liệt của nàng khi tìm đến cái chết… Lời nói của đứa trẻ, cái cớ để Trương Sinh nổi máu ghen được đưa ra dần dần và thông tin ngày một gay cấn, làm cho nút thắt ngày một chặt hơn. Để rồi sự thật được làm sáng tỏ sau khi Vũ Nương đã không còn nữa. Truyện trở nên có tính kịch hơn, gợi cảm hơn..

– Giá trị nghệ thuật của những đoạn đối thoại và những lời tự bach của nhân vật: truyện có nhiều lời thoại và lời tự bạch của nhân vật. được sắp xếp rất đúng chỗ, làm cho câu chuyện kể trở nên sinh độns hơrn góp phần không nhỏ vào việc khắc họa quá trình tâm lí và tính cách nhân vật (Lời nói của bà mẹ Trương Sinh là của một người nhân hậu và từng trải; lời của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có tình, có lí, ngay cả trong lúc đang tức giận nhất, là của một người phụ nữ hiền thục, nết na, trong trắng, không có gi khuất tất, lời đứa trẻ hồn nhiên, thật thà….)

– Tìm những yếu tố truyền kì: Chuyện Phan Lang năm mộng rồi thả rùa; Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi tiệc và gặp Vũ Nương, người cùng làng đã chết, rồi được sứ giả của Linh Phi rẽ nước đưa về dương thế; hình ảnh Vũ Nương hiện ra sau khi Trương Sinh lập đàn tràng giải nỗi oan cho nàng ở bến Hoàng Giang, lung linh, huyền ảo, với “kiệu hoa… cờ tán, võng lọng rực rỡ… lúc ẩn, lúc hiện,” rồi bỗng chốc “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”. Đó là những yếu tố không thể thiếu của loại truyện truyền kì.

– Cách thức đưa những yếu tố truyền kì vào truyện của Nguyễn Du: các yếu tố này được đưa vào xen kẽ với những yếu tố thực về địa danh (bến đò Hoàng Giang, ải Chi Lăng, về thời điểm lịch sử (cuối đời Khai Đại nhà Hồ), nhân vật lịch sử (Trần Thiêm Bình) sự kiện lịch sử (quân Minh xâm lược nước ta, nhiều người chạy trốn ra bể, rồi bị đắm thuyền), những chi tiết thực về trang phục của các mĩ nhân (quần áo thướt tha, mái tóc búi xễ, riêng Vũ Nương mặt chỉ hơi điểm qua một chút son phấn), về tình cảnh nhà Vũ Nương không người chăm sóc sau khi nàng mất (cây cối thành rừng, cỏ gai rợp mắt)… Cách thức này làm cho thế giới kì ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần với cuộc đời thực, làm tăng độ tin cậy, khiến người đọc không cảm thấy ngỡ ngàng.

– Ý nghĩa của những yêu tố truvển kì: Trước hết nó làm hoàn chỉnh thêm những nét đẹp của nhân vật Vũ Nương, một con người dù đã ở thế giới khác, vẫn nặng tình với cuộc đời, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, vẫn khao khát được phục hồi danh dự. Điều quan trọng hơn là những yếu tô truyền kì đó đã tạo nên một kêt thúc có hậu cho tác phẩm, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công bằng trong cuộc đời, người tốt dù có trải qua bao oan khuất, cuối cùng sẽ được đền trả xứng đáng, cái thiện bao giờ cũng chiến thắng.

Tuy nhiên qua màn khói kì ảo này, ta vẫn thấy một thân phận bi thảm rất tiêu biểu cho người Việt Nam sống trong chế độ nam quyền.

Soạn Bài: Chuyện Người Con Gái Nam Xương – Ngữ Văn 9 Tập 1

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ trong SGK Ngữ văn 9 tập 1).

2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Văn bản Chuyện người con gái Nam Xương là một trong 20 truyện của tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.

* Thể loại: Truyện được viết theo thể loại truyền kì. Đặc điểm của thể loại truyền kì:

Thường có yếu tố kì lạ, hoang đường, nhưng cũng có khai thác những truyện cổ dân gian và truyền thuyết lịch sử, dã sử của Việt Nam.

Nhân vật chính thường là những người phụ nữ đức hạnh, khao khát một cuộc sống yên bình, hạnh phúc, nhưng các thế lực bạo tàn và cả lễ giáo khắc nghiệt lại xô đẩy họ vào những hoàn cảnh éo le, oan khuất, bất hạnh. Một loại nhân vật khác là những người trí thức có tâm huyết, bất mãn với thời cuộc, không chịu trói mình trong vòng danh lợi chật hẹp

* Tóm tắt: Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) là một người con gái đẹp người đẹp nết, được Trương Sinh là người thất học, hay ghen cưới về làm vợ. Cưới nhau chưa được bao lâu, Trương Sinh phải đi lính, Vũ Nương ở nhà chăm sóc mẹ chồng chu đáo và nuôi con thơ. Khi mẹ chồng mất, nàng cũng lo ma chay chu toàn như đối với cha mẹ đẻ mình. Khi Trương Sinh trở về, hay tin mẹ mất mà đau buồn. Đứa con không nhận cha, Trương Sinh nổi máu ghen tuông ngờ vực sự thủy chung của Vũ Nương. Để chứng tỏ sự trong sạch của mình với chồng, Vũ Nương đã nhảy sông tự vẫn. Phan Lang do cứu được Linh Phi nên được báo đáp, sau đó gặp được Vũ Nương. Trương Sinh lập đàn giải oan cho vợ nhưng Vũ Nương không còn được trở lại dương gian vì xã hội phong kiến quá hà khắc.

* Bố cục: Văn bản được chia làm 3 đoạn:

Đoạn 3: còn lại: Vũ Nương ở Thủy Cung và nỗi oan được giải

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1: Bố cục (như trên)

Câu 2:

* Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong những hoàn cảnh:

Trước khi lấy chồng: là người con gái tính tình thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp

Khi về nhà chồng: là một người vợ thảo hiền, nết na, nàng không để xảy ra những bất hòa trong cuộc sống vợ chồng

Khi chồng đi lính: là một người con dâu hiếu thảo, một người mẹ hiền, một người vợ chung thủy

Khi bị nghi oan: nàng cố giải thích nhưng không được, đến bước đường cùng nàng đã tự trẫm mình xuống sông để chứng minh sự trong sạch của mình.

Câu 3:

* Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất là vì:

Nguyên nhân trực tiếp: do Trương Sinh là một người quá đa nghi, hay ghen, gia trưởng, độc đoán, không cho Vũ Nương cơ hội trình bày

Nguyên nhân sâu xa: do xã hội phong kiến, chế độ nam quyền với những lễ giáo phong kiến hà khắc gây ra bao bất công khiến cho thân phận người phụ nữ bấp bênh, mong manh, bi thảm. Đồng thời cũng là do cuộc chiến tranh phi nghĩa gây ra.

Câu 4:

* Cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện:

Từ những chi tiết hé mở, chuẩn bị thắt nút cho đến khi mâu thuẫn được đẩy lên đến đỉnh điểm đã tạo nên sự hấp dẫn và sinh động cho câu chuyện

Những đoạn độc thoại và đối thoại được sắp xếp rất đúng chỗ giúp cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc họa tâm lý, tính cách nhân vật, đưa truyện đến kịch tính

Câu 5:

* Những yếu tố kỳ ảo trong truyện:

Chuyện nằm mộng của Phan Lang, Phan Lang và Vũ Nương dưới động rùa của Linh Phi

Vũ Nương hiện về ngồi trên kiệu hoa, cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sân, lúc ẩn lúc hiện, rồi “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”

* Đưa những yếu tố kỳ ảo vào một câu chuyện quen thuộc, kết hợp với yếu tố tả thực để tạo ra hiệu quả nghệ thuật về tính chân thực của truyện. Qua đó, tác giả muốn tạo cơ sở để minh oan cho Vũ Nương, khẳng định lòng trong trắng của nàng. Đồng thời, thể hiện tấm lòng nhân đạo, là ước mơ, khát vọng của nhân dân về một thế giới công bằng.

3

/

5

(

2

bình chọn

)