Soạn Văn 9 Bài 18 / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Soạn Vnen Văn 9 Bài 18: Bàn Về Đọc Sách

A. Hoạt động khởi động

1. Em hãy nêu tên và tóm tắt nội dung cuốn sách mà em thích nhất.

B. Hoạt động hình thành kiến thức

1. Đọc văn bản Bàn về đọc sách (trích) 2. Tìm hiểu văn bản

a) Văn bản Bàn về đọc sách thuộc kiểu văn bản nào? Đặc điểm của kiểu văn bản đó là gì?

d) Văn bản Bàn về đọc sách cho ta những lời khuyên bổ ích nào về việc lựa chọn sách và phương pháp đọc sách?

3. Tìm hiểu về khởi ngữ

a) Phân biệt các từ ngữ in đậm với chủ ngữ trong những câu sau về vị trí trong câu và quan hệ với vị ngữ.

(1) Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Còn anh, anh không ghìm nổi xúc động.

(Nguyễn Quang Sáng, Chiếc lược ngà)

(2) Giàu, tôi cũng giàu rồi.

(Nguyễn Công Hoan, Bước đường cùng)

(3) Về các thể văn trong lĩnh vực văn nghệ, chúng ta có thể tin ở tiếng ta, không sợ nó thiếu giàu và đẹp […]

(Phạm Văn Đồng, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt)

c) Khởi ngữ thường đứng ở vị trí nào trong câu? Trước khởi ngữ thường có thêm những quan hệ từ nào?

4. Tìm hiểu về phép phân tích và tổng hợp a) Đọc văn bản và trả lời câu hỏi.

Không kể trên đường tuần tra, nơi rừng rậm hay suối sâu,… phải cởi giày ra đi chân đất, thông thường trong doanh trại hay nơi công cộng, có lẽ không ai mặc quần áo chỉnh tề mà lại đi chân đất, hoặc đi giày có bít tất đầy đủ nhưng phanh hết cúc áo, lộ cả da thịt ra trước mặt mọi người.

Người ta nói: “Ăn cho mình, mặc cho người”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp… Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần loè loẹt, nói cười oang oang.

Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kì đức”. Ăn mặc sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hoá, biết ứng xử chính là người biết tự hoà mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có một cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay!

Thế mới biết, trang phục hợp văn hoá, hợp đạo đức, hợp môi trường mới là trang phục đẹp.

(Theo Băng Sơn, Giao tiếp đời thường)

(1) Ở đoạn mở đầu, bài viết nêu ra một loạt dẫn chứng về cách ăn mặc để rút ra nhận xét về vấn đề gì? Hai luận điểm chính trong văn bản là gì? Tác giả đã dùng phép lập luận nào để rút ra hai luận điểm đó?

b) Điền từ ngữ thích hợp và chỗ trống trong ngoặc đơn để hoàn chỉnh khái niệm về phép lập luận phân tích và tổng hợp.

(1) Phân tích là phép lập luận trình bày (…) của một vấn đề nhằm chỉ ra nội dung của sự vật, hiện tượng.

(2) Tổng hợp là phép lập luận (…) từ những điều đã phân tích.

C. Hoạt động luyện tập

1. Luyện tập đọc hiểu văn bản Bàn về đọc sách

Phát biểu điều mà em thấm thía nhất sau khi học bài Bàn về đọc sách.

2. Luyện tập về khởi ngữ

a) Tìm khởi ngữ trong các đoạn trích sau đây:

(1) Ông cứ đứng vờ vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm. Điều này ông khổ tâm hết sức.

(2) – Vâng! Ông giáo dạy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng.

(3) Một mình thì anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu.

(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)

(4) Làm khí tượng, ở được cao thế mới là lí tưởng chứ.

(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)

(5) Đối với cháu, thật là đột ngột […].

(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)

b) ) Hãy viết lại các câu sau đây bằng cách chuyển phần được in đậm thành khởi ngữ (có thể thêm trợ từ thì):

(2) Tôi hiểu rồi nhưng tôi chưa giải được.

3. Luyện tập về phép phân tích và tổng hợp

a) Đọc các đoạn trích sau và cho biết tác giả đã vận dụng phép lập luận nào và vận dụng như thế nào.

(1) Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài […] không thể tóm tắt thơ được, mà phải đọc lại. Cái thú vị của bài “Thu điếu” ở các điệu xanh: xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi; ở những cử động: chiếc thuyền con lâu lâu mới nhích, sóng gợn tí, lá đưa vèo, tầng mây lơ lửng, ngõ trúc quanh, chiếc cần buông, con cá động; ở các vần thơ: không phải chỉ giỏi vì là những tử vận hiểm hóc, mà chính hay vì kết hợp với từ, với nghĩa chữ, đến một cách thoải mái đúng chỗ, do một nhà nghệ sĩ cao tay; cả bài thơ không non ép một chữ nào, nhất là hai câu 3, 4:

thật tài tình; nhà thơ đã tìm được cái tốc độ bay của lá: vèo, để tương xứng với cái mức độ gợn của sóng: tí.

(2) Mấu chốt của thành đạt là ở đâu? Có người nói thành đạt là do gặp thời, có người lại cho là do hoàn cảnh bức bách, có người cho là do có điều kiện học tập, có người lại cho là do có tài năng trời cho. Các ý kiến đó mỗi ý chỉ nói đến một nguyên nhân, mà lại đều là nguyên nhân khách quan, họ quên mất nguyên nhân chủ quan của con người.

Thật vậy. Gặp thời tức là gặp may, có cơ hội, nhưng nếu chủ quan không chuẩn bị thì cơ hội cũng sẽ qua đi. Hoàn cảnh bức bách tức là hoàn cảnh khó khăn buộc phải khắc phục. Nhưng gặp hoàn cảnh ấy có người bi quan, thất vọng, chán nản, thối chí; có người lại gồng mình vượt qua. Điều kiện học tập cũng vậy, có người được cha mẹ tạo cho mọi điều kiện thuận lợi, nhưng lại mải chơi, ăn diện, kết quả học tập rất bình thường. Nói tới tài năng thì ai cũng có chút tài, nhưng đó chỉ mới là một khả năng tiềm tàng, nếu không tìm cách phát huy thì nó cũng bị thui chột. Rút cuộc mấu chốt của thạnh đạt là ở bản thân chủ quan mỗi người, ở tinh thần kiên trì phấn đấu, học tập không mệt mỏi, lại phải trau dồi đạo đức cho tốt đẹp. Không nên quên rằng, thành đạt tức là làm được một cái gì có ích cho mọi người, cho xã hội, được xã hội thừa nhận.

(Nguyên Hương, Trò chuyện với bạn trẻ)

c) Dựa vào văn bản Bàn về đọc sách của Chu Quang Tiềm, em hãy phân tích các lí do khiến mọi người cần đọc sách.

D. Hoạt động vận dụng

Vận dụng những hiểu biết về phép lập luận phân tích và tổng hợp để viết đoạn văn (khoảng 10 – 12 câu) làm sáng tỏ luận điểm: “Học vấn không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách vẫn là một con đường quan trọng của học vấn”. Trong đoạn văn có ít nhất một câu có thành phần khởi ngữ.

E. Hoạt động tìm tòi mở rộng

Soạn Bài Tự Tình (Ii) Trang 18 Văn 11

1. Hồ Xuân Hương là nữ sĩ tài năng, là hiện tượng văn học trung đại Việt Nam, song cũng là nhà thơ mà cuộc đời còn rất nhiều bí ẩn. Hiện nay phần đông các nhà nghiên cứu thống nhất ý kiến: Bà là con ông Hồ Phi Diễn, một nhà Nho nghèo quê ở Nghệ An. Ông Hồ Phi Diễn ra Bắc dạy học và lấy vợ lẽ, rồi sinh ra Hồ Xuân Hương. Gia đình bà từng sống ở Thăng Long. Bà giao du rộng rãi, đường tình duyên của bà gặp nhiều trắc trở.

2. Bài thơ thuộc chùm ba bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương. Chùm thơ bộc lộ tâm sự của một người phụ nữ đa đoan luôn khát khao hạnh phúc nhưng luôn gặp những điều bất hạnh. Hiện lên trong chùm thơ là người phụ nữ đằm thắm, cá tính mãnh liệt nhưng không thiếu sự dịu dàng yếu đuối của nữ tính. Bài thơ đã thể hiện một số đặc điểm nổi bật trong phong cách nghệ thuật Hồ Xuân Hương, đó là cảm xúc táo bạo, cái Tôi cá nhân đầy tâm trạng và những hình thơ đầy cá tính với một niềm khát khao hạnh phúc, khát khao sống mãnh liệt. Bài thơ Tự tình tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Xuân Hương ở nỗi cô đơn, ở niềm khát khao hạnh phúc, ở tâm trạng uất ức luôn muốn phá vỡ những khuôn khổ chật hẹp của cuộc sống. Trong bài thơ có sự xuất hiện rất rõ ràng và cụ thể hình tượng nhân vật trữ tình. Cái Tôi cá nhân xuất hiện rất rõ với tâm trạng buồn và cô đơn trĩu nặng.

II. SOẠN BÀI HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI 1. Hoàn cảnh và tâm trạng của tác giả

Bài thơ mở ra bằng một hoàn cảnh tâm trạng khá đặc trưng:

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn Trơ cái hồng nhan với nước non

Thông thường, giữa không gian mênh mông rợn ngợp, con người cảm thấy nhỏ bé, cô đơn. Ở đây, Xuân Hương lại cảm thấy cô đơn trước thời gian. Thời gian cũng vô thủy, vô chung nhưng nếu không gian chỉ đủ gợi cho con người sự rợn ngợp thì thời gian còn tàn phá những gì mà nó đi qua.

Câu thơ đầu của bài thơ đã gợi buồn. Cái buồn gợi ra từ sự tĩnh lặng của đêm khuya. Tiếng trống không gần (văng vẳng) mà vẫn nghe thấy cái nhịp vội vàng, gấp gáp, ấy là vì tiếng trống gợi bước đi của thời gian, gợi sự tàn phá và nó là tiếng trống được cảm nhận bằng tâm trạng. Chính vì thế mà trong cái nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trống canh ta như nghe thấy cả bước đi dồn dập của thời gian và sự rối bời trong tâm trạng của nhân vật trữ tình.

Câu thơ thứ hai gợi cảm nhận vé sự bẽ bàng của thân phận một cách dữ dội hơn:

Trơ cái hồng nhan với nước non

Phép đảo ngữ như cố tình khoét sâu thêm vào cái sự bẽ bàng của tâm trạng. “Trơ” là tủi hổ, là chai lì, không còn cảm giác. Thêm vào đó, hai chữ “hồng nhan” (chỉ dung nhan người thiếu nữ) lại đi với từ “cái” thật là rẻ rúng, mỉa mai. Cái “hồng nhan” trơ với nước non đúng là không chỉ gợi sự dãi dầu mà đậm hơn có lẽ là ở sự cay đắng. Câu thơ chỉ nói đến hồng nhan mà lại gợi ra cả sự bạc phận của chủ thể trữ tình. Thật cay đắng, xót xa. Nhịp câu thơ 1/3/3 cũng như vậy, cứ chì chiết, càng khơi sâu vào sự bẽ bàng khôn tả.

Tuy nhiên câu thơ không hẳn chỉ có nỗi đau, mà nó còn thể hiện cả bản lĩnh của nhân vật trữ tình nữa. Bản lĩnh ấy thể hiện ở ngay trong chữ “trơ” như là một sự thách thức vậy. Từ “trơ” kết hợp với “nước non” thể hiện sự bền gan, sự thách đố. Nó gợi cho ta nghĩ đến mộl câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan trong bài Thăng Long thành hoài cổ (“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”).

Nếu hai câu để làm nhiệm vụ dẫn dắt người đọc vào hoàn cảnh tâm trạng thì hai câu thực nói rõ hơn thực cảnh và thực tình của Hồ Xuân Hương:

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trâng bóng xế khuyết chưa tròn.

Thời gian không ngừng trôi và dường như nhân vật trữ tình cũng cô đơn ngồi đối diện với đêm khuya và với vầng trăng lạnh. Cảnh tình Xuân Hương thể hiện qua hình tượng chứa đựng hai lần bi kịch: trăng sắp tàn (bóng xế) mà vẫn “khuyết chưa tròn” Cùng đó là với Xuân Hương, tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không trọn vẹn. Hương rượu chỉ càng gợi thêm sự cô đơn và cái bẽ bàng của phận hẩm duyên. Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên cái vòng luẩn quẩn, tình duyên trở thành một trò đùa của con tạo.

2. Hình tượng thiên nhiên trong câu 5 và 6 góp phần diễn tả tâm trạng, thái độ của nhà thơ trước số phận như thế nào?

Hình tượng thiên nhiên trong hai câu luận dường như cũng mang cả nỗi niềm phẫn uất của con người:

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám, Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

Những sinh vật bé nhỏ như đám rêu kia mà vẫn không chịu phận nhỏ bé, hèn mọn, không chịu yếu mềm. Tất cả như đang muốn bứt thoát hẳn lên: rêu phải mọc “xiên ngang mặt đất”, đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, lại phải nhọn hoắt để “đâm toạc chân mây”. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ càng làm nổi bật sự phẫn uất của đá, của rêu và cũng là sự phẫn uất của tâm trạng con người. Cùng với biện pháp đảo ngữ là sự kết hợp giữa những động từ mạnh (xiên, đâm) với các bổ ngữ độc đáo (ngang, toạc) thể hiện rất rõ sự bướng bỉnh và ngang ngạnh. Câu thơ cựa động căng đầy sức sống. Đá, rêu như đang oán hờn, như đang phản kháng quyết liệt với tạo hoá. Có thể nói, trong hoàn cảnh bi thảm nhất, thơ Hồ Xuân Hương vẫn ẩn chứa mạnh mẽ một sức sống, một khát khao.

3. Hai câu thơ nói lên tâm trạng gì của tác giả?

Hai câu kết là tâm trạng chán chường, buồn tủi:

Ngán nỗi xuân di xuân lại lại, Mảnh tình san sẻ tí con con!

“Ngán” là chán ngán, là ngán ngẩm. Nhưng tại sao? Xuân Hương ngán nỗi đời éo le, bạc bẽo bởi xuân đi rồi xuân lại lại, tạo hoá đang chơi một vòng quay nhàm chán như chính chuyện duyên tình của con người vậy.

Từ xuân vừa chỉ mùa xuân, vừa được dùng với nghĩa chỉ tuổi xuân. Với thiên nhiên, xuân đi rồi xuân lại nhưng với con người thì tuổi xuân đã qua không bao giờ trở lại. Đó là sự khắc nghiệt của tạo hoá. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng mang hai nghĩa khác nhau. Từ “lại” thứ nhất là thêm một lần nữa, trong khi đó, từ “lại” thứ hai nghĩa là trở lại. Mùa xuân trở lại nhưng tuổi xuân lại qua đi, đó là cái gốc sâu xa của sự ngán ngẩm kia.

Trong câu thơ cuối, nghệ thuật tăng tiến làm cho nghịch cảnh của nhân vật trữ tình càng éo le hơn: mảnh tình – san sẻ – tí – con con. Mảnh tình – vốn đã ít, đã bé, đã không trọn vẹn lại còn phải “san sẻ” thành ra gần như chẳng còn gì (tí con con) nên càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ nói lên cả nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, khi cảnh chồng chung vợ chạ đối với họ không phải là xa lạ.

4. Bài thơ vừa nói lên bi kịch vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương.

Bi kịch trong bài thơ là bi kịch của tuổi xuân, của duyên phận. Xuân đi rồi xuân đến, thời gian của thiên nhiên, của trời đất cứ tuần hoàn mà tuổi xuân của con người cứ mãi qua đi không trở lại. Trong hoàn cảnh ấy, sự nhỡ nhàng, sự dở dang của duyên tình càng làm tăng thêm sự xót xa. Rơi vào hoàn cảnh ấy, với nhiều người có thể không tránh khỏi sự tuyệt vọng, thậm chí phó mặc, buông xuôi. Thế nhưng, Xuân Hương không thế. Trước sự trớ trêu của số phận, người phụ nữ luôn khát khao hạnh phúc vẫn gồng mình lên, vẫn muốn cưỡng lại sự nghiệt ngã của con tạo. Sự phản kháng và khát khao ấy ở Hồ Xuân Hương làm nên ý nghĩa nhân văn sâu sắc cho tác phẩm.

III. LUYỆN TẬP Bài làm

Mở đầu chùm ba bài thơ Tự tình, Xuân Hương viết:

Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,

Oán hận trông ra khắp mọi chòm.

Mõ tliảm klĩông khua mà cũng cốc,

Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?

Trước nghe những tỉêhg thêm rền rĩ,

Sau giận vì duyên dể mõm mòm.

Tài tử văn nhân ai dó tá?

Thân này đâu dã chịu già tom!

So sánh bài thơ này (bài I) với Tự tình (bài II), ta thấy cả hai bài thơ đều cùng bộc lộ một tâm trạng: nỗi buồn tủi, xót xa và phẫn uất trước cảnh duyên phận hẩm hiu.

Về mặt hình thức, cả hai bài thơ cùng cho thấy tài năng sử dụng tiếng Việt sắc sảo, tài hoa của Hồ Xuân Hương, nhất là khả năng sử dụng độc đáo các định ngữ và bổ ngữ như: mõ thảm, chuông sầu, tiếng rền rĩ, duyên mõm mồm, già tom ( Tự lình, bài I), xiên ngang, đâm toạc (Tự tình, bài II). Hồ Xuân Hương cũng rất thành công khi sử dụng một cách điêu luyện các biện pháp nghệ thuật như: đảo ngữ, tăng tiến…

Mặc dù vậy, tất nhiên hai bài thơ vẫn có những nét riêng dễ nhận. Ở bài Tự tình, yếu tố phản kháng, thách đố duyên phận mạnh mẽ hơn, gấp gáp hơn. Có vẻ như bài thơ này được viết khi tác giả chưa trải qua nhiều biến cố về duyên phận như khi tác giả viết bài Tự tình II chăng?

IV. TƯ LIỆU THAM KHẢO

1. Về tác giả

“… Đường chồng con chắc nhiều long đong. Đến nay mới rõ tên một người chồng là Trần Phúc Hiển, vào những năm 1810, thế kỷ XIX làm tri phủ Tam Đài tức về sau là Vĩnh Tường, rồi tiếp theo giữ chức tham hiệp An Quảng và mất năm 1819. Còn ông phủ Vĩnh Tường có phải Trần Phúc Hiển hay một người khác, Tổng Cóc là ai? Có phải là Nguyễn Bình Kính ở phủ Lâm Thao hay là người nào? Cứ lẽ thường ngày xưa, khó lòng một ông quan tỉnh lại đi lấy vợ góa của kẻ thấp hơn mình dù lấy làm thiếp và vì nể tài. Mấy mươi bài thơ xướng họa giữa Tốn Phong Thị được sáng tác vào quãng 1807-1814, mà giọng chân thực không có gì đáng nghi ngờ, lại cho thấy một Hồ Xuân Hương không còn mười tám đôi mươi nhưng “quả mai ba bảy đương vừa” mà trong tâm tư đã cho mình thuộc số má đào phận bạc và lấy làm xấu hổ khi nghĩ đến chuyện chồng con. Chỗ này chưa thấy ánh sáng. Điều chắc chắn là phận chồng con không ra gì.

Một điều thường được ghi nhận là Xuân Hương đi đây đi đó nhiều nơi, lên tận Tuyên Quang, vào tới Thanh Hóa, qua đến An Quảng, sang cả Ninh Bình, còn Vĩnh Yên, Sơn Tây, Hà Đông đều có vết chân của nữ sĩ. Thời xưa, với phụ nữ, chu du như vậy rất khó. Có người không dám tin, nhưng thơ Hồ Xuân Hương lại là bằng chứng.

Xuân Hương lãng du như thế vào thời gian nào? Khó mà xác định nhưng bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình là chỗ từng trải của Xuân Hương.

Xuân Hương mất năm nào? Chưa đâu đáng tin bằng lời thơ của Miên Thẩm: trước 1842. Như vậy Xuân Hương thuộc vào thế hệ các nhà thơ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và nhỏ tuổi hơn Nguyễn Du.

Nói thêm một chút về ngôn ngữ: Sở dĩ ngôn ngữ Xuân Hương lột được mọi ý đồ của nữ sĩ chính vì cái tài vô song của người vận dụng. Cái tài ấy chẳng khác cái tài của người làm xiếc. Vượt xa trên mức tưởng tượng. Tài tình như thần thông biến hóa. Dân gian mà cổ điển. Điêu luyện mà cứ hồn nhiên. Thực hư, hư thực, nó đấy mà không phải nó, bóng mà hình, hình mà bóng, đùa mà thật, thật mà đùa. Có vẻ như Tôn Ngộ Không. Với Tam Tạng thì chỉ một thân, trung thực, chân chất đến xúc động, nhưng với yêu quái, ma vương thì có đến trăm Tôn Ngộ Không, chẳng biết đâu là thật là giả…

Chính xác đến ghê người. Nói đến con dê chưa thật đã lớn, nhưng cũng chẳng còn là dê con, loại dê choai choai, hăng máu một cách liều lĩnh, Xuân Hương dùng “dê cỏn” chứ không dùng “dê con”. ấy là Xuân Hương muốn chỉ bọn thầy khóa hãy trẻ tơ, chưa đủ lông đủ cánh gì, non nớt tuổi đời, non cả tài thơ mà dám chơi trèo, định ghẹo tới bà chị và làm thơ để ghẹo…

Chỗ tài tình nhất có lẽ là sự lấp lửng nghĩa nọ nghĩa kia, ở một hình tượng, ở một từ, một cách nói…

Đồn rằng Nguyễn Khuyến nói về Hồ Xuân Hương có câu:

Thơ thánh, thơ tiên đời vẫn có,

Tung hoành thơ quỷ hiếm hoi thay!

Tản Đà cũng cho “trong thơ Xuân Hương có quỷ”. Xuân Diệu gọi nữ sĩ là “Bà chúa thơ Nôm”. Hẳn đó là những lời khen đáng tin. Tuy có vẻ mỗi người như muốn nhìn một mặt của thơ Xuân Hương, nhưng ngẫm kỹ thì đều dụng ý nói toàn diện cái tài tình của nữ sĩ, nội dung cũng như hình thức.”

Lê Trí Viễn

( Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương

Sở giáo dục Nghĩa Bình xuất bản năm 1987)

2. Thơ Hồ Xuân Hương

“Nhìn chung trong thơ cổ điển của nước ta, bao gồm từ Chu Mạnh Trinh trở lên, nếu xét về khía cạnh có tính cách dân tộc hơn cả có lẽ thơ Hồ Xuân Hương “thì treo giải nhất chỉ nhường cho ai”. Thơ Hồ Xuân Hương Việt Nam hơn cả vì đã thống nhất được đến cao độ hai tính cách dân tộc và đại chúng…

…Nội dung thơ Hồ Xuân Hương toát ra từ đời sống “bình dân, hằng ngày và trên đất nước nhà. Xuân Hương nói ngay những cảnh có thực của núi sông ta, vứt hết cả sách vở, khuôn sáo, lấy hai con mắt của mình mà nhìn, cái đèo Ba Dội của Xuân Hương rõ là ba dội, ba đèo, tùm hum nóc, lún phún rêu, gió lắt lẻo, sương đầm đìa, phong cảnh sống như cựa quậy lên…

…Hồ Xuân Hương tưởng như đã lìa cái gốc nho sĩ của mình mà “lăn lóc” giữa bình dân. Xuân Hương là con ốc, quả mít, cái bánh trôi. Xuân Hương làm thơ với cỏ gà, cá giếc, quả cam, lá trầu, con ong, cái giếng, khung cửi, cây đa, cái diều… Mà những thứ ấy vẫn giữ nguyên chất bình dân, chứ không bị mang hia, đội mũ như trong lối thơ khẩu khí…

… Hồ Xuân Hương là nhà thơ dòng Việt, bà chúa thơ Nôm… Xuân Hương đã làm cho chữ “nôm na” không đồng nghĩa với “mánh qué” nữa, mà nôm na là đồng nghĩa với thuần túy, trong trẻo, tuyệt vời. Bà chúa thơ Nôm là chúa cả nội dung và hình thức. Xuân Hương đã sáng tạo được một chất thơ rất man mác, nên thơ…

Soạn Bài Quê Hương, Ngữ Văn 8 Tập 2 Trang 18

Quê hương là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ trong đó có Tế Hanh, bài thơ Quê hương của ông đã vẽ nên một bức tranh tươi đẹp của một vùng chài ven biển bình dị mộc mạc, cùng tìm hiểu xem bức tranh quê hương của nhà thơ này như thế nào qua bài Soạn văn lớp 8 Quê hương.

HOT Soạn văn lớp 8 đầy đủ, chi tiết

Bài thơ Quê hương của Tế Hanh là tình cảm tha thiết, sâu nặng của người con xa quê dành cho mảnh đất nơi mình sinh ra. Để các em hiểu rõ hơn về nội dung tư tưởng của bài thơ và dễ dàng hơn trong việc soạn bài, các em có thể tham khảo bài soạn văn lớp 8 của chúng tôi sau đây với những gợi ý chi tiết các câu hỏi trong sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 2 trang 18. Tài liệu soạn bài quê hương, bên cạnh việc hướng dẫn trả lời câu hỏi, chúng tôi còn tóm lược các kiến thức cơ bản về tác giả, tác phẩm để các em có cái nhìn toàn diện hơn về bài học.

Câu 1: (Trang 18 SGK Ngữ văn 8, tập 2)Trả lời:a. Sáu câu thơ từ câu 3 đến câu 8: Cảnh dân chài hào hứng dong buồm ra khơi.– Mở đầu cho buổi ra khơi, là khung cảnh “trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng”, thời tiết vô cùng thuận lợi, trời trong xanh, gió thoang thoảng, lại thêm những tia nắng hồng nhàn nhạt, ấm áp.– Những người ra khơi đều là “dân trai tráng”, khỏe khoắn, sung sức, đầy khí thế. Lòng tự tin mãnh liệt, trong tư thế sẵn sàng chinh phục biển lớn.– “Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã/Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang”, các động từ “hăng”, “phăng” mang một khí thế mạnh mẽ, dạt dào sức sống, lòng hăng say, đem lại cho cảnh thuyền ra khơi một vẻ đẹp đầy ấn tượng, hào hùng.b. Tám câu thơ tiếp theo: Diễn tả cảnh tượng đón thuyền về bến đỗ của dân làng chài với tâm thế vui vẻ náo nhiệt, mang theo sức sống mạnh mẽ.– Thông qua các từ “ồn ào”, “tấp nập” như thấy hiện lên một khung cảnh đông vui, rộn ràng, trước thành quả lao động sau một đêm vất vả của các trai tráng trong làng. Với lòng biết ơn vì trời cho “biển lặng cá đầy ghe”, giăng lưới thu được “Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”– Những người dân chài lưới tuy vất vả cả đêm dài nhưng vẫn khỏe khoắn, mạnh mẽ với “làn da ngăm rám nắng”, thân thể mang nồng đậm “vị xa xăm”, có lẽ là vị gió, vị muối từ khơi xa theo về.– Hình ảnh con thuyền được nhân hóa với các từ “im”, “mỏi”, “nằm”, như có sức sống, có lúc mạnh mẽ ra khơi, khi trở về đã thấm mệt, muốn được im lìm nghỉ ngơi, để “Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”. Sự liên tưởng đặc sắc này chứng tỏ tác giả phải có một thứ tình cảm nồng nàn, sâu sắc mới có thể đủ tinh tế nhìn ra được cả sự mỏi mệt của con thuyền, một sự vật vốn vô tri vô giác.Câu 2: (Trang 18 SGK Ngữ văn 8, tập 2)Trả lời:– “Cánh buồm giương to” đem so sánh với “mảnh hồn làng”, cánh buồm trắng to lớn, vững chãi, “rướn thân trắng” căng phồng đón gió nơi biển khơi, vừa gợi cảm, vừa cường tráng mạnh mẽ, vốn đã trở nên thân thuộc, gần gũi, khắc sâu vào tâm trí mỗi người dân làng chài. Tác giả lấy làm biểu tượng linh hồn thiêng liêng cho cả làng chài, đem một cái hữu hình so với một cái vô hình, sự so sánh trừu tượng này vừa diễn tả được hồn vừa diễn tả được hình ảnh của người dân làng chài một cách chính xác, lại đầy chất thi vị, bay bổng. Đây chính là cái sáng tạo độc đáo của nhà thơ.– “Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng” câu này đem tả thực rõ nét đặc trưng của người dân làng chài với làn da ngăm, nhuộm nắng, nhuộm gió, nhuộm sương từ biển cả. Tác giả còn “nhìn” thấy được cái mùi nồng nàn “vị xa xăm” từ thân hình của người dân làng chài, một biện pháp ẩn dụ thật tinh tế, diễn tả cái mặn mòi, cái hơi thở nồng đượm của biển cả đã thấm đẫm vào thân thể từng người dân chài, mà chỉ cần nhìn bằng mắt thôi tác giả cũng đã thấy được. Từ đó thấy được sự gắn bó mật thiết giữa dân làng chài và biển khơi, biển chính là nguồn sống, là sức mạnh của người dân nơi đây, đồng thời cũng thấy được tình yêu quê hương sâu sắc của tác giả.Câu 3: (Trang 18 SGK Ngữ văn 8, tập 2)Tế Hanh mãi nhớ “Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi”, “nhớ cái mùi nồng mặn quá”, có thể thấy hình ảnh quê nhà luôn khắc sâu trong tâm trí của tác giả. Mang nỗi lòng của người con xa xứ mà viết ra một bài thơ tươi đẹp, khỏe khoắn, hào hùng với những hình ảnh giản dị, những âm thanh náo nhiệt, sinh động. Khắc họa rõ nét và chân thực hình ảnh người dân làng chài lam lũ, vất vả nhưng vẫn căng tràn sức sống. Bài thơ đã thể hiện tình yêu quê hương, niềm tự hào sâu sắc, cùng với nỗi nhớ tha thiết của tác giả với miền biển đầy nắng và gió. Qua đó cũng thể hiện được tài năng và tâm hồn tinh tế, óc quan sát nhạy bén và sức sáng tạo của Tế Hanh đã tạo nên bức tranh làng chài vô cùng sinh động và đẹp đẽ.Câu 4: (Trang 18 SGK Ngữ văn 8, tập 2)Trả lời:Những đặc sắc nghệ thuật nổi bật trong bài thơ bao gồm:– Hình ảnh so sánh trừu tượng sâu sắc, so sánh cái hữu hình với vô hình, mang đến giá trị thiêng liêng, cao cả.– Phép nhân hóa đặc sắc tinh tế, giàu tính biểu cảm, thể hiện được tầm nhìn, tâm tư lãng mạn của tác giả.– Sử dụng nhiều từ ngữ mang sắc thái mạnh, khơi gợi được vẻ mạnh mẽ, hùng tráng của cả bài thơ.– Kết hợp cả ba phương thức tự sự, miêu tả và biểu cảm. Tác giả vừa kể lại vừa tả, trong từng câu từng chữ đều gửi gắm tâm tình của tác giả bằng một giọng thơ rất mộc mạc, thân thiết nhưng giàu cảm xúc, đem lại cho người đọc người nghe nhiều liên tưởng độc đáo.

Tình thái từ là một bài học quan trọng trong chương trình Ngữ Văn lớp 8 mà các em cần phải đặc biệt lưu tâm.

https://thuthuat.taimienphi.vn/soan-van-lop-8-que-huong-30210n.aspx

Bài Soạn Anh Văn 9 (Fame) Tập 9

Đề thi học kì I Đề dự bị Sở giáo dục Kon Tum §Ò KIÓM TRA TRA HäC K× IM”n: TiÕng anh 9N¨m häc: 2010- 2011I. Choose the best answer 1. We have never………………….. any experience of livung in the city A. wish B. done C. had D. made 2. They have to take that English course,………………….they? A. haven‘t B. don‘t C. needn‘t D. mustn‘t 3. Viet can not earn money………………….. he has no job A. unless B. until C. if D. without 4. This shirt is different ……………. The one I saw last Sunday A. from B. at C. on D. in

5. I wish that I ………………… how to mend this suit A. know B. knows C. knowing D. knew 6. I used to……………… money by delivering vegetables to the city A. earn B. get C. make D. gain 7. We will play tennis and…………… we will have lunch A. so B. so that C. after D. then 8. It is wonderful…………………… the weekend in the countryside A. spend B. spending C. to spend D. spent 9. There is a meeting…………… 9 a.m and 4 p.m on Sunday A. at B. between C. to D. on 10. Would you like………………. Now or shall we wait until the end? A. go B. to go C. going D. went 11. When I entered the room. The baby ………………. Quitely A. is sleeping B. was sleeping C. slept D. were sleeping 12. I prefer dogs………… cats . I hate cats A. from B. over C. to D . thanII. Rewrite the sentences with the same meanings. 1. ” Do you still live in Ha Noi now? ” Trang said to me  Trang asked me…………………. 2. Your brother use the Internet everyday, doesn‘t he?  Does………………………………………………… 3. They will have to change the day of the meeting again  The date…………………………… 4. The boy is sorry he is not a teacher  The boy wishes………………………………………. 5. We nolonger write to each other very often  We used…………………………………… 6. My parents have given me an interesting book  I………………………………………..III. Circle the word that has different pronunciation 1. A. gather B. there C. ethnic D. although 2. A. region B. group C. gather D. guitarĐề thi học kì I Đề dự bị 3. A. climate B. comprise C. notice D. divide 4. A. please B. pleasure C. easy D. teacher IV . Read the letter carefully then answer the questions below.Dear Mai,

I am very pleased that we are going to be pepals. I will tell you a little about myself and you can do the sameWhen you write to me. I live in an area of Lon Don called Maida Vale. It is quite near the center but there are parks nearbywhere I often take my dog, Mickey for a walk. I live with my parents and my younger brother ,Paul . My father works for the post office and my mother has apart- time job as a nurseI go to the local comprehensive school, Where I have a lot of friends. I like most subjects but not allof them. In the evening I sometimes visit friends or stay at home and listen to music and at the weekends I like going swimming or horse – ridingAt the moment I am working very hard Because I have exams soon, so I spend a lot of time in the library? I am looking forward from you . Write soon? Best wishes MaryQuestions: 1. Where does Mai‘s pepal live?…………………………………………………. 2. Whose does she live with?……………………………………………….. 3. Does her father work for the post office?……………………………………………….. 4. What are her hobbies ( at the weekend)?………………………………………………… 5. Why does she have to work very hard now?………………………………………………. 6. What does she ask Mai to do?………………………………………………..