Soạn Văn 9 Bài 1 Tập 2 / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Soạn Bài Trả Bài Tập Làm Văn Số 2 Sách Bài Tập Ngữ Văn 9 Tập 1

Đọc văn bản sau và làm các bài tập nêu ở dưới.

BẠN ƠI ĐỪNG NGHỈ HỌC Ngày đầu tiên đến lớp vỡ lòng, tôi đã có cảm tình đặc biệt với Mai Hương. Hôm đó, tôi đánh rơi mất viên phấn trên đường đến lớp. Nếu không có nửa viên phấn của Mai Hương, chắc tôi không bao giờ viết nổi chữ a lên mảnh bảng đen. Dĩ nhiên đây chỉ là một ý nghĩ tôi nói với Mai Hương khi hai đứa đã lớn. Đường đến lớp vỡ lòng, chúng tôi gặp nhau ở ngã ba cây si, cùng đi qua cánh đồng. Khi về, đến ngã ba cây si, lại chia tay. Đi được một quãng, tôi quay lại nhìn xem Mai Hương đi tới đâu rồi. Có lần, chúng tôi bắt gặp cái nhìn của nhau. Hai đứa cùng cười tươi và vẫy tay với nhau. Một hôm, đến ngã ba cây si, tôi không thấy Mai Hương trong lũ bạn xóm dưới. Tôi đứng chờ. Chờ lâu quá, tôi chạy một mạch qua cánh đồng. Mai Hương không có ở lớp. Tôi ngồi không yên. Rốt cuộc là tôi đã bỏ dở buổi học, chạy về làng. Tôi chạy thẳng tới nhà Mai Hương. Bố mẹ đi làm cả. Mai Hương nằm đắp kín chăn trên giường : – Bạn làm sao thế ? – Tôi hỏi. – Tớ bị cảm từ đêm qua – Mai Hương đáp – Bạn không đến lớp à ? – Không thấy Mai Hương ở lớp, tớ bỏ học chạy về. Mai Hương nghe tôi nói thế, cảm động nói: – Thế thì từ nay, nếu bị ốm tớ cũng sẽ đi học, để bạn khỏi bỏ học giữa buổi. Được không ? Sau lần ấy, Mai Hương không nghỉ học buổi nào. Tôi cũng vậy. Chúng tôi đi học đều đặn, và hầu như hôm nào hai đứa cũng đi tới ngã ba cây si là vừa gặp nhau. Có những hôm bị cảm, trời rét, suýt nữa tôi đã gửi giấy xin phép nghỉ học. Nhưng tôi đã cố gắng dậy, cắp sách tới trường. Tôi không muốn Mai Hương phải bỏ học về tìm tôi. Chúng tôi học cùng lớp cho đến cấp ba. Điều ấy ngoài sự tưởng tượng của Mai Hương. Mai Hương càng lớn càng xinh và ngoan nữa. Không đứa bạn nào trách cứ Mai Hương được điểm gì. Thật là một người bạn “lí tưởng”. Càng ngày, chúng tôi càng thân thiết nhau hơn. Tôi đã biết đóng một quyển sổ bằng giấy trắng loại tốt, bọc bìa cứng, thật đẹp, tặng Mai Hương để chép những bài hát chúng tôi ưa thích. Trang đầu cuốn sổ, tôi ghi nắn nót những dòng chữ : “Đời không có tiếng hát, khác nào cuộc sống không ánh sáng mặt trời. Mong tình bạn đẹp mãi như tiếng hát không ngừng.”. Mai Hương tặng tôi một chiếc khăn trắng muốt, thêu một bông hoa trắng cùng với dòng chữ trắng : “Đẹp mãi tuổi thơ”. Có những buổi sáng, chúng tôi đi qua cánh đồng sương giăng trắng như sữa, nghe đồng lúa vang lên âm thanh rạo rực : Bạn ơi, đừng nghỉ học, bạn ơi… Rồi một hôm, Mai Hương không đến lớp. Tôi ngóng bạn nao lòng. Giá hôm qua tôi cùng đạp xe rời nhà trọ về làng cùng với Mai Hương. Tôi tự trách mình và lo lắng cho Mai Hương. Mai Hương về làng chắc có gì trắc trở, sáng nay không đạp xe tới trường được. Tan học, tôi đạp xe về làng. Nửa làng tôi xác xơ, cây cối cháy rực lên. Máy bay Mỹ đã ném bom vào trạm sơ tán tàu hàng, những toa xăng đã cháy đêm qua. Nhiều ngôi nhà xóm Mai Hương trúng bom bốc cháy. Ngôi nhà của Mai Hương chỉ còn lại những hố bom sâu. Cả gia đình không còn ai. Tôi muốn nhìn thấy người bạn gái thân thương một lần cuối. Nhưng điều ấy không bao giờ có được nữa. Tôi trở lại mái trường, như tin rằng Mai Hương đang chờ mình. Cuộc sống như thế đấy, chúng ta say sưa sống tốt mãi lên vì tin rằng có ai đó đang chờ đợi chúng ta, ở phía trước. Và trong đầu tôi cứ vang mãi âm thanh trong trẻo và rạo rực của tuổi học trò: – Bạn ơi, đừng nghỉ học !…

(Nguyễn Trọng Tạo, Mảnh hồn làng,

NXB Kim Đồng, Hà Nội, 1997)

1. Nếu viết bài văn theo đề bài: Hãy kể về một kỉ niệm với người bạn tuổi thơ khiến em xúc động và nhớ mãi thì bài văn trên có đáp ứng được yêu cầu không ? Vì sao ?

Trả lời:

Muốn xem bài văn Bạn ơi đừng nghỉ học có đáp ứng được yêu cầu của đề hay không, cần phân tích và chỉ ra các yêu cầu cụ thể của đề bài này. Có thể nêu lên các yêu cầu chính sau đây :

Đó phải là một câu chuyện đã xảy ra lâu rồi, từ hồi tuổi thơ.

– Kỉ niệm ấy phải gắn với người bạn thân thiết của người viết.

– Kỉ niệm ấy phải có ý nghĩa, phải xúc động và đáng nhớ.

– Người kể lại phải là người trong cuộc, người chứng kiến câu chuyện,…

Với các yêu cầu đó, em tự đối chiếu với văn bản để trả lời câu hỏi.

2. Hãy rút ra dàn ý của bài văn Bạn ơi đừng nghỉ học.

Trả lời:

Dàn ý của bài văn bao gồm các phần và các ý lớn. Cần phải xác định được ba phần của bài văn : Mở bài, Thân bài và Kết bài. Sau đó chỉ ra nội dung khái quát của từng phần.

3. Bài văn kể về chuyện gì ? Hãy chỉ ra các yếu tố miêu tả được sử dụng trong bài văn đó.

Bài 2 Trang 15 Sgk Ngữ Văn 9 Tập 1

Trả lời câu hỏi bài 2 trang 15 SGK Ngữ văn lớp 9 tập 1 phần hướng dẫn soạn bài Sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh

Hướng dẫn chi tiết trả lời bài 2 trang 15 SGK Ngữ văn lớp 9 tập 1 phần trả lời câu hỏi mục Luyện tập, soạn bài Sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh ngắn gọn nhất giúp các em chuẩn bị tốt kiến thức trước khi tới lớp.

Đọc đoạn văn sau và nêu nhận xét về biện pháp nghệ thuật được sử dụng để thuyết minh:

Bà tôi thường kể cho tôi nghe rằng chim cú kêu là có ma tới. Tôi hỏi vì sao thì bà giải thích: “Thế cháu không nghe tiếng cú kêu thường vọng từ bãi tha ma đến hay sao?”. Sau này học môn Sinh học tôi mới biết là không phải như vậy. Chim cú là loài chim ăn thịt, thường ăn thịt lũ chuột đồng, kẻ phá hoại mùa màng. Chim cú là giống vật có lợi, là bạn của nhà nông. Sở dĩ chim cú thường lui tới bãi tha ma là vì ở đó có lũ chuột đồng đào hang. Bây giờ mỗi lần nghe tiếng chim cú, tôi chẳng những không sợ mà còn vui vì biết rằng người bạn của nhà nông đang hoạt động.

Trả lời bài 2 trang 15 SGK Ngữ văn 9 tập 1

Biện pháp nghệ thuật nào được sử dụng ở đoạn văn này là nghệ thuật kể chuyện: Kể câu chuyện ngày thơ ấu nghe bà kể chuyện về chim cú, khi chim cú kêu là có ma tới. Nhưng khi nhân vật được học môn Sinh học, đã hiểu hơn về kiến thức khoa học loài Cú.

Câu trả lời 2

– Biện pháp nghệ thuật được sử dụng: nghệ thuật kể chuyện.

– Tác dụng:

Dẫn dắt người đọc vào đối tượng thuyết minh.

Giải thích một cách khoa học hiện tượng “cú kêu là có ma tới”, đưa ra những lợi tích của loài chim cú.

Các em vừa tham khảo cách trả lời bài 2 trang 15 SGK ngữ văn 9 tập 1 được Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn giúp em chuẩn bị bài và soạn bài Sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh tốt hơn trước khi đến lớp.

Soạn Bài: Làng – Ngữ Văn 9 Tập 1

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Kim Lân trong SGK Ngữ văn 9 Tập 1).

2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Truyện ngắn Làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948.

* Tóm tắt:

Ông Hai là một người làng chợ Dầu, nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh chống Pháp nên ông phải đưa gia đình đi tản cư. Sống ở ngôi làng mới, lúc nào ông cũng nhớ về làng cũ và luôn theo dõi tin tức của cách mạng. Nhưng một hôm, bất ngờ ông nghe tin đồn làng chợ Dầu của ông theo giặc, ông thấy vô cùng đau khổ. Suốt nhiều ngày liền, ông không dám đi ra ngoài vì sợ nghe thấy mọi người bàn tán về làng mình. Nỗi đau khổ ông không biết giãi bày với ai, đành tâm sự với cậu con út để vơi bớt nỗi buồn. Cho đến khi chủ tịch xã lên cải chính làng chợ Dầu không theo Tây, ông vui mừng khoe với mọi người, mua quà bánh chia cho các con, ông càng thêm yêu và tự hào về làng mình.

* Bố cục:

Văn bản có thể được chia làm 3 đoạn:

Đoạn 3: còn lại: Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin cải chính về việc làng chợ Dầu theo giặc.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

Truyện ngắn Làng đã xây dựng được một tình huống truyện làm bộc lộ sâu sắc tình yêu làng quê và lòng yêu nước ở nhân vật ông Hai. Tình huống truyện đó là: Ông Hai là một người dân làng chợ Dầu rất yêu và tự hào về làng mình, vì chiến tranh mà ông và gia đình phải đi tản cư, ông nghe được tin đồn làng chợ Dầu theo giặc từ những người tản cư đi qua.

Câu 2:

* Diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai từ lúc nghe tin làng mình theo giặc đến kết thúc truyện:

Khi nghe được tin xấu “cổ họng ông lão nghẹn ắng lại, da tê rân rân,… ông không thể không tin”.

Ông đi về nhà, mặt cúi gằm xuống đất, về đến nhà ông nằm vật ra giường, nhìn lũ con mà cảm thấy tủi thân, nước mắt trào ra, ông đau đớn rít lên và nguyền rủa bọn phản quốc.

Những ngày sau đó, ông chỉ ở nhà, không dám đi đâu, luôn cảm thấy chột dạ khi có tiếng xì xầm ngoài đường.

Ông quyết định đoạn tuyệt vời làng để đi theo kháng chiến, theo cách mạng bởi “Làng thì yêu thật nhưng làng làm Việt Gian thì phải thù”.

Khi nghe tin cải chính làng chợ Dầu không theo giặc, ông Hai như được hồi sinh, mặt mày rạng rỡ hẳn lên, mua quà bánh chia cho các con, đi khoe với mọi người.

* Ông Hai cảm thấy đau đớn, tủi hổ khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc cũng bởi vì ông yêu làng của ông như đứa con yêu mẹ của mình, tự hào và tôn thờ mẹ. Chính vì thế, ông càng yêu, càng tin tưởng, càng hãng diện bao nhiêu thì lại càng đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu.

* Tâm trạng của ông Hai được biểu hiện: ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề, thậm chí ông còn tuyệt giao với tất cả mọi người, không dám bước chân ra ngoài vì xấu hổ.

Câu 3:

* Đoạn văn ông Hai trò chuyện với đứa con út thực chất là đoạn ông đang giãi bày nỗi lòng mình.

* Qua những lời trò chuyện ấy, em thấy:

Tình yêu làng, yêu quê hương của ông Hai rất sâu nặng, ông như muốn khắc ghi vào trong tâm trí của đứa con út rằng “Nhà ta ở chợ Dầu”.

Tình yêu đất nước, tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng, với Bác Hồ. Đây là tình cảm sâu nặng, bền vững, tuyệt đối không bao giờ thay đổi.

* Tình yêu làng quê và lòng yêu nước ở ông Hai đã gắn bó làm một và hòa quyện trong con người ông Hai, trở thành một thứ tình cảm thiêng liêng, bền vững. Những tình cảm đó không chỉ có ở nhân vật ông Hai mà ở trong tất cả những người con của dân tộc Việt Nam.

Câu 4:

* Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất chân thực, sâu sắc và sinh động

* Ngôn ngữ nhân vật chủ yếu là khẩu ngữ, tự nhiên, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân.

4.2

/

5

(

6

bình chọn

)

Bài 2 Trang 203 Sgk Ngữ Văn 9 Tập 1

Trả lời câu hỏi bài 2 trang 203 SGK Ngữ văn lớp 9 tập 1 phần hướng dẫn soạn bài Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)

Hướng dẫn chi tiết trả lời bài 2 trang 203 SGK Ngữ văn lớp 9 tập 1 phần trả lời câu hỏi luyện tập, soạn bài Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng) ngắn gọn nhất giúp các em luyện tập tốt kiến thức trước khi tới lớp.

Em hãy viết lại đoạn truyện kể về cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai cha con ông Sáu theo lời hồi tưởng của một nhân vật khác (ông Sáu hoặc bé Thu).

Trả lời bài 1 trang 203 SGK Ngữ văn 9 tập 1

– Xác định ngôi kể: ngôi thứ nhất; người kể chuyện là bé Thu (xưng “tôi”) – Nội dung: Kể lại cuộc gặp gỡ giữa nhân vật “tôi” và người cha (ông Sáu) – Chú ý thay đổi một số chi tiết cho phù hợp với ngôi kể thứ nhất với người kể chuyện là bé Thu (thay tâm trạng của nhân vật bác Ba bằng diễn biến tâm trạng, suy nghĩ của bé Thu)

Tối qua nghe lời bà giảng giải tôi đã hiểu ra tất cả mọi chuyện. Thì ra người tôi vẫn ruồng bỏ mấy ngày nay chính là ba tôi. Chỉ tại chiến tranh mà tôi đã cứng đầu không nhận ra ba. Sáng cuối cùng ba tôi còn ở nhà, tôi theo ngoại về, lòng đầy day dứt, ân hận. Nhà tôi sáng hôm ấy rất đông họ hàng nội ngoại. Ba tôi bận bịu tiếp khách, tôi đứng nép vào góc nhà, tựa cửa và nhìn mọi người đang vây quanh ba tôi. Tôi muốn chạy lại phía ba, gọi ba nhưng chỉ có thể đứng trân trân ở đấy. Đến lúc chia tay, sau khi bắt tay hết mọi người, ba tôi đưa mắt nhìn tôi đứng trong góc nhà. Ba nói khe khẽ “Thôi! Ba đi nghe con!”. Tôi như vỡ òa, nỗi nhớ ba không thể kìm nén được nữa, thét lên “Ba…a…a…ba!”. Tôi ôm cổ ba, vừa khóc vừa nói không muốn cho ba đi. Hai ba con ôm hôn nhau, tôi hôn cả vết thẹo dài bên má ba tôi. Ba tôi một tay ôm tôi, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên tóc tôi và bảo “Ba đi rồi ba về với con”. Tôi vẫn không thể chấp nhận được sự thật rằng mình phải xa ba ngay lúc này, lỗi của tôi đã phung phí thời gian ở cạnh ba những ngày vừa rồi. Nhưng biết ba phải đi kháng chiến, chẳng đành nhưng tôi với ba cũng phải chia tay nhau. Trước khi ba đi, tôi mếu máo bảo ông: “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba” rồi từ từ tuột xuống khỏi tay ba. Đó là lần cuối cùng tôi còn được gặp ba mình.

Cha tôi xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi tôi lên tám tuổi, cha mới có dịp về thăm nhà, thăm tôi. Tôi không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm cho tôi thấy không giống với cha trong bức ảnh chụp chung với má. Tôi đối xử với cha như người xa lạ. Đến lúc tôi nhận ra cha, thì cũng là lúc cha phải ra đi. Tại khu căn cứ, cha tôi dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương vào làm chiếc lược bằng ngà voi để tặng tôi. Trong một trận càn, ông hy sinh. Trước lúc nhắm mắt ông còn kịp trao cây lược cho người bạn để gửi cho tôi.

Tôi còn nhớ như in, những ngày đầu khi ba về, nhìn vết thẹo dài trên má của ba, tôi vừa sợ, vừa không tin đó là ba. Những ngày ba ở nhà, tôi bướng bỉnh không nhận ba. Cho tới khi được bà ngoại giải thích, lúc tôi nhận ra ba cũng là lúc ba phải trở lại chiến trường. Lúc chia tay ba, tôi sợ ba đi mất, tôi hét lên “ba ở nhà với con” trong tiếng nức nở, rồi tôi quắp hai chân chặt lấy người ba, tôi hôn ba cùng khắp, rồi còn đòi ba hứa tặng tôi cây lược ngà.