Soạn Văn 8 Tập 2 Bài Tức Cảnh Pác Bó / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Soạn Bài Tức Cảnh Pác Bó Sbt Ngữ Văn 8 Tập 2

1. Em có cảm nhận như thế nào về giọng điệu riêng và tinh thần chung của bài thơ ? Những yếu tố nào trong bài thơ giúp em cảm nhận được như vậy ? Trả lời:

Kinh nghiệm phân tích thơ, nhất là phân tích những bài thơ ngắn như thơ tứ tuyệt cho thấy : việc quan trọng đầu tiên là đọc kĩ một lượt cả bài thơ và cố gắng nhận ra giọng điệu chủ yếu cùng tinh thần,chung của bài thơ đó. Ở bước đầu tiên này, đừng vội đi vào phân tích chi tiết : câu, chữ, hình ảnh, thủ pháp tu từ… mà hãy cảm nhận tổng hợp bằng trực giác. Sau đó từ cảm nhận chung ấy mà đi vào phân tích chi tiết.

Cần đọc kĩ để thấy được giọng điệu riêng và tinh thần chung của bài thơ. Trong khi đọc, cần giọng điệu tự nhiên, thoải mái, cố gắng thể hiện đúng tâm trạng của nhân vật trữ tình. Chú ý ngắt nhịp cho đúng, nhất là ở câu thứ hai và thứ ba của bài thơ.

Bài Tức cảnh Pác Bó được sáng tác theo thể thát ngôn tứ tuyệt. Một mặt, nó vẫn tuân thủ khá chặt chẽ quy tắc và theo sát mô hình cấu trúc chung của một bài tứ tuyệt ; mặt khác, toát lên một cái gì thật phóng khoáng, mới mẻ. cảm nhận chung về giọng điệu, tinh thần của Tức cảnh Pác Bó : Bài thơ với bốn câu thật bình dị, thoải mái, có giọng vui đùa hóm hỉnh, toát lên một cảm giác vui thích, sảng khoái.

Cần phải phân tích những yếu tố trong bài thơ để làm sáng tỏ cảm nhận của em. Thực chất đây là bước phân tích tác phẩm theo định hướng đã được trình bày ở phần cảm nhận chung về giọng điệu và nội dung bao trùm của tác phẩm đã nêu ở phần trên. Nên trình bày theo lối bổ ngang, tức là phân tích lần lượt từng câu thơ một. Chẳng hạn câu đầu của bài thơ : Sáng ra bờ suối, tối vào hang ngắt nhịp 4/3 tạo thành hai vế sóng đôi gợi cảm giác nhịp nhàng, nền nếp, cho thấy Hồ Chí Minh sống ung dung, thoải mái, hoà điệu nhịp nhàng với nhịp sông núi rừng. Câu thơ thứ hai vẫn tiếp nốĩ mạch cảm xúc gợi ra từ câu đầu : Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng. Ở đây, có thêm nét đùa vui : lương thực, thực phẩm luôn sẵn sàng, thật đầy đủ ; đầy đủ đến mức dư thừa ! Có người hiểu nghĩa câu này là : tuy ăn uống gian khổ, chỉ có cháo bẹ rau măng, nhưng tinh thần cách mạng vẫn sẵn sàng. Cách hiểu ấy tuy không sai về ngữ pháp nhưng đặt trong mạch cảm xúc của bài thơ với tinh thần chung là vui đùa thoải mái thì không hợp. Và hiểu như vậy sẽ làm giảm cái hay, cái thú vị của bài thơ. Vì vậy, câu thơ cần hiểu là : thức ăn (cháo bẹ rau măng) lúc nào cũng sẵn sàng.

Nếu như câu thứ nhất nói về ở, câu thứ hai nói về ăn thì câu thứ ba (Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng) nói về làm việc. Tất cả đều miêu tả chân thật sinh hoạt hằng ngày của Chủ tịch Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pác Bó. Tác giả không che giấu sự gian khổ (nơi ở chỉ là cái hang tối, thức ăn chỉ có cháo ngô và rau măng, bàn làm việc là một tảng đá chông chênh). Nhưng qua giọng điệu, từ ngữ, hình ảnh thơ và cách nói của Người, ta vẫn thấy toát ra niềm vui to lớn, chân thật hiển nhiên của Người. Câu kết của bài thơ nêu lên một nhận xét tổng quát : “Cuộc đời cách mạng thật là sang”. Sang là sang trọng, tức là không chỉ dồi dào, giàu có về vật chất mà còn là cao quý, đáng tự hào. Chữ sang ở cuối bài thơ đúng là đã kết tính và toả sáng tinh thần của toàn bài thơ.

2. Qua bài thơ, một mặt, có thể thấy cuộc sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pác Bó thật gian khổ, nhưng mặt khác, lại thấy Người rất vui, coi đó là “sang”. Giải thích điều đó như thế nào ? Từ đó, em hiểu Chủ tịch Hồ Chí Minh là người như thế nào ? Trả lời:

Qua bài thơ, một mặt, có thể thấy cuộc sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pác Bó thật gian khổ, nhưng mặt khác, lại thấy Người rất vui và tự hào, coi đó là “sang”. Có thể giải thích điều đó như sau :

Những ngày ở hang Pác Bó, tuy rất gian khổ, thiếu thốn nhưng Chủ tịch HỒ Chí Minh vẫn vui, vì sau ba mươi năm bôn ba khắp năm châu bốn bể tìm đường cựu nước, nay Người được trở về sống trên mảnh đất Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Đặc biệt, Bác Hồ còn rất vui vì Người tin rằng thời cơ giải phóng dân tộc đang tới gần. Ước mơ của Người sắp thành hiện thực. So với niềm vui đó thì những khó khăn gian khổ trước mắt trong sinh hoạt hằng ngày chẳng có nghĩa lí gì. Ngược lại, chúng lại trở thành sang trọng, vì đó là cuộc đời cách mạng. Với Bác, làm cách mạng, cứu dân, cứu nước là niềm vui, là lẽ sống, đáng tự hào.

Hơn nữa, dường như trong con người của Hồ Chí Minh luôn sẵn có cái “thú lâm tuyền” (tức niềm ham thích được sống ở chốn suối rừng, được sống hoà hợp cùng với thiên nhiên cây cỏ). Bình sinh, Bác Hồ luôn cảm thấy vui thích mỗi khi được sống giữa suối rừng, hoà mình với thiên nhiên. Tháng 1 – 1946, Bác phát biểu với các nhà báo : “Cả đời tôi chỉ có một ham muốn, ham muôn tột bậc là làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, để câu cá, trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu không dính líu với vòng danh lợi”. Như vậy, được sông giữa “non xanh nước biếc” là sở nguyện, là ước mơ của Bác. Trong người chiến sĩ cách mạng vĩ đại ấy vẫn có một “khách lâm tuyền”, có cái “thú lâm tuyền” giống như những nhà nho xưa. Vui với suối rừng, lánh xa chốn danh lợi, thì cũng là vui với cái nghèo, không coi nghèo là khổ, mà trái lại, nghèo khổ mà cảm thấy hạnh phúc, giàu sang về tinh thần. Vì vậy mà Bác có cảm giác rất bằng lòng, tự hào với cuộc sống nghèo khó, gian khổ của cuộc đời cách mạng, cảm thấy nghèo mà sang.

Qua bài thơ, có thể thấy Hồ Chí Minh là người yêu nước thiết tha, có tinh thần kiên cường phi thường, thường cười đùa trong khó khăn gian khổ, luôn ung dung tự tại, đồng thời, Bác còn là một con người có tâm hồn thanh cao, ưa thích cuộc sống hoà hợp với thiên nhiên, giống như các nhà nho xưa.

3. Hãy sưu tầm và chép lại những câu thơ nói về niềm vui với cái nghèo, vui vì sống hoà hợp với thiên nhiên. Theo em, giữa niềm vui được sống hoà hợp với thiên nhiên của Hồ Chí Minh và “thú lâm tuyền” của người xưa có gì giống và khác nhau ? Trả lời:

Cố gắng sưu tầm và chép lại một số câu thơ xưa nói về niềm vui với cái nghèo, với cuộc sống hoà hợp với thiên nhiên (chẳng hạn : Bao giờ nhà dựng đâu non / Pha trà nước suối, gối hòn đá ngơi – Nguyễn Trãi ; Thu ăn măng trúc, đông ăn giá / Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao – Nguyễn Bỉnh Khiêm ).

Giữa niềm vui được sống hoà hợp với thiên nhiên của Hồ Chí Minh và “thú lâm tuyền” của người xưa có những nét giống nhau (yêu thích thiên nhiên, sống gần gũi, giao hoà với thiên nhiên). Tuy nhiên, cũng có nét khác nhau : khi tìm đến “thú lâm tuyền”, người xưa thường sống như một ẩn sĩ, xa lánh cõi đời gọi là “lánh đục về trong” ; còn Bác Hồ tuy có vui với “thú lâm tuyền” nhưng không phải là một ẩn sĩ lánh đời, ngược lại, Người vẫn là một chiến sĩ chiến đâu không mệt mỏi cho sự nghiệp cứu dân, cứu nước.

chúng tôi

Soạn Văn 8 Bài Tức Cảnh Pác Bó Vnen

A. Hoạt động khởi động

Em đã được học bài thơ nào của Bác Hồ viết ở chiến khu Việt Bắc? Hãy đọc và nêu cảm nhận của em về hình ảnh Bác trong bài thơ đó.

Bài thơ “Rằm tháng giêng” (Nguyên tiêu) được Bác Hồ viết vào năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc:

Phiên âm:

Nguyên tiêu Kim dạ nguyền tiêu nguyệt chính viên Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên Yên ba thâm xứ đàm quân sự Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền Rằm xuân lồng lộng trăng soi Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân Giữa dòng bàn bạc việc quân Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

Qua bài thơ Nguyên tiêu, hình ảnh Bác Hồ – nhân vật trữ tình hiện lên với một phong thái ung dung, tinh thần lạc quan và tâm hồn giao hòa với thiên nhiên đất trời. Đặt trong hoàn cảnh của đất nước đang trong cuộc kháng chiến chống chống Pháp, ta càng thấy rõ hơn sự bình tĩnh, chủ động, lạc quan của vị lãnh tụ. Hình ảnh con thuyền trăng trong bài thơ này cho thấy tâm hồn Bác giàu tình yêu thiên nhiên, trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Tâm hồn của người nghệ sĩ được hòa quyện với tâm hồn của người thi sĩ.

B. Hoạt động hình thành kiến thức

1. Đọc văn bản “Tức cảnh Pác Bó”.

2. Tìm hiểu văn bản

a) Em hiểu thế nào về hai chữ “tức cảnh” trong nhan đề bài thơ?

b) Đọc hiểu hai câu thơ mở đầu và thực hiện các yêu cầu:

(1) Tìm và nêu tác dụng của các từ trái nghĩa trong câu thơ đầu. Những hình ảnh như hang, bờ suối gợi lên mối quan hệ như thế nào giữa con người với thiên nhiên?

(2) Theo em, hình ảnh nhân vật trữ tình trong hai câu thơ đầu có nét gần gũi với kiểu hình tượng nào sau đây trong thơ ca trung đại?

A – Hình tượng chinh phu, tráng sĩ bày tỏ chí hướng, hoài bão.

B – Hình tượng ẩn sĩ vui thú lâm tuyền.

C -Hình tượng lữ khách mang tâm trạng nhớ quê.

D – Hình tượng người tài tử chán ghét công danh.

(1)

Các từ trái nghĩa trong hai câu thơ đầu:

Các cặp từ trái nghĩa kết hợp với nhịp thơ linh hoạt diễn tả lối sống nhịp nhàng, đều đặn, nề nếp của Bác Hồ.

Những hình ảnh như hang, bờ suối gợi lên mối quan hệ hòa hợp, gắn bó giữa con người với thiên nhiên, sự ung dung, thoải mái giữa cuộc sống núi rừng.

(2)

B – Hình tượng ẩn sĩ vui thú lâm tuyền.

c) Câu thơ thứ ba tạo nên bước chuyển về cảm xúc thơ như thế nào?

d) Vì sao trong câu thơ cuối, nhân vật trữ tình cảm nhận cuộc đời cách mạng “thật là sang”? Câu thơ hé mở điều gì về tâm hồn, lẽ sống của Bác.

e) Nhận xét về giọng điệu của bài thơ.

3. Tìm hiểu về câu cầu khiến

a) Chỉ ra câu cầu khiến trong những đoạn trích sau:

(1) Ông lão chào con cá và nói:

– Mụ vợ tôi lại nổi cơn điên rồi. Nó không muốn làm bà nhất phẩm phu nhân nữa, nó muốn làm nữ hoàng. Con cá trả lời: – Thôi đừng lo lắng. Cứ về đi. Trời phù hộ lão. Mụ già sẽ là nữ hoàng. (Ông lão đánh cá và con cá vàng)

(2) Tôi khóc nấc lên. Mẹ tôi từ ngoài đi vào. Mẹ vuốt tóc tôi và nhẹ nhàng dắt tay em Thuỷ:

(Theo Khánh Hoài, Cuộc chia tay của những con búp bê)

Câu cầu khiến trong các đoạn trích:

(1) – Thôi đừng lo lắng. Cứ về đi.

(2) – Đi thôi con.

– Mở cửa!

Bài làm: Bài làm:

4. Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh

Đọc bài viết sau và trả lời câu hỏi:

HỒ HOÀN KIẾM VÀ ĐỀN NGỌC SƠN

Nếu tính từ khi hồ Hoàn Kiếm còn là một đoạn của dòng cũ sông Hồng để lại sau khi sông chuyển dòng thì tới nay hồ đã có đến vài nghìn tuổi. Nhưng cái tên Hoàn Kiếm thì mới có từ năm thế kỉ nay. Trước đó, hồ có tên là Lục Thủy vì nước hồ bốn mùa xanh ngắt. Tới thế kỉ XV có tên Hoàn Kiếm do sự tích Lê Lợi trả gươm. Truyện kể rằng Lê Lợi khi còn ở Lam Sơn có bắt được một thanh gươm. Gươm ấy luôn ở bên ông trong suốt mười năm chinh chiến. Khi dẹp xong giặc Minh, vua Lê về Thăng Long, một hôm ngự thuyền dạo chơi trên hồ Lục Thủy, bỗng một con rùa nổi lên, ông rút gươm ra trỏ thì rùa liền đớp ngay thanh gươm mà lặn xuống. Như vậy là vua trả gươm cho trời. Vì vậy, hồ có tên là Hoàn Kiếm, gọi nôm na là Hồ Gươm. Sau thủy quân dùng hồ làm nơi luyện tập nên có thêm tên là hồ Thủy Quân.

Theo truyền thuyết thì đời Lê Thánh Tông (nửa sau thế kỉ XV) chỗ này là gò Tháp Rùa từng là Điếu Đài tức là nơi vua đến ngồi câu cá. Đến thời Vĩnh Hựu, chúa Trịnh Giang lập cung Khánh Thụy ở đảo Ngọc làm nơi hóng gió ngày hè. Đầu thế kỉ XIX, một ngôi chùa được dựng lên trên nền cung Khánh Thụy cũ và có tên chùa Ngọc Sơn. Ít lâu sau, nơi đây không thờ Phật nữa mà thờ thánh Văn Xương (chủ về văn chương, khoa cử) và Đức thánh Trần (tức anh hùng Trần Quốc Tuấn), do vậy được đổi gọi là đền Ngọc Sơn. Năm 1864, Nguyễn Văn Siêu, nhà văn hóa lớn của Hà Nội thời đó, đã đứng ra sửa sang lại toàn cảnh. Trên gò Ngọc Bội, ông xây một ngọn tháp hình bút lông, thân tháp có tạc ba chữ Tả thanh thiên (có nghĩa là viết lên trời xanh). Đó là Tháp Bút. Đi qua Tháp Bút tới một cửa cuốn gọi là Đài Nghiên vì trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá. Qua Đài Nghiên đến cầu Thê Húc (có nghĩa là nơi ánh mặt trời đậu lại). Cầu dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn. Đền có ba nếp, nếp ngoài là bái đường, nếp giữa là nơi thờ Văn Xương và nếp sau thờ Trần Hưng Đạo. Trước mặt bái đường là Trấn Ba Đình (đình chắn sóng). Nhìn thẳng về hướng nam là Tháp Rùa. Tháp chỉ mới có từ cuối thế kỉ XIX nhưng đã trở thành biểu tượng quen thuộc của Hồ Gươm Hà Nội.

Ngày nay khu vực quanh hồ đã thành tên là Bờ Hồ, là nơi nhân dân thủ đô dạo chơi ngày hè, nơi đón giao thừa, lại còn là nơi tổ chức hội hoa đăng – đèn hoa – pháo hoa – trong những dịp lễ tết hằng năm.

(Theo Lịch văn hóa tổng hợp 1987 – 1990 )

a) Bài viết giới thiệu hai danh thắng cảnh nào của Thủ đô Hà Nội?

b) Bài viết được sắp xếp theo bố cục, trình tự nào? Bài viết còn có chỗ nào chưa hoàn chỉnh về bố cục?

c) Bài viết đã sử dụng phương pháp thuyết minh nào?

d) Muốn viết được bài giới thiệu về một danh lam thắng cảnh, em cần phải làm gì?

a) Bài viết giới thiệu hai danh thắng cảnh: Hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn của Thủ đô Hà Nội.

b) Bài viết được sắp xếp theo bố cục, trình tự:

+ Giới thiệu hồ Hoàn Kiếm.

+ Giới thiệu đền Ngọc Sơn.

+ Sinh hoạt quanh bờ hồ.

Về bố cục, bài viết này thiếu phần mở bài.

c) Bài viết sử dụng phương pháp thuyết minh chủ yếu là phương pháp miêu tả và giải thích.

Cả hai ý kiến trên đều hoàn toàn đúng. Thứ nhất, trong điều kiện sống giữa núi rừng chiến khi Việt Bắc, những sản vật như “bẹ”, như “rau”, như “măng” rất đầy đủ và lúc nào cũng có “sẵn”. Nhưng bên cạnh đó, ở đây ta còn có thể hiểu là, dẫu trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn về vật chất nhưng người chiến sĩ cách mạng lúc nào cũng “sẵn sàng” để phục vụ cho cách mạng, phục vụ cho lợi ích dân tộc.

2. Luyện tập về câu cầu khiến

a) Gạch dưới những từ ngữ cầu khiến trong các câu sau và thử thêm, bớt hoặc thay đổi chủ ngữ xem ý nghĩa của câu thay đổi như thế nào.

(1) Hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên vương.

(3) Nay chúng ta đừng làm gì nữa, thử xem lão Miệng có sống được không.

b) Gạch dưới câu cầu khiến trong những đoạn trích sau. Nhận xét sự khác nhau về hình thức biểu hiện ý nghĩa cầu khiến giữa các câu đó.

(1) Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi. Đào tổ nông thì cho chết!

(Tô Hoài, Dế Mèn phiêu lưu kí)

(2) Ông đốc tươi cười nhẫn nại chờ chúng tôi:

– Các em đừng khóc. Trưa nay các em được về nhà cơ mà. Và ngày mai lại được nghỉ cả ngày nữa.

(Thanh Tịnh, Tôi đi học)

(3) Có anh chàng nọ tính tình rất keo kiệt. Một hôm đi đò qua sông, anh chàng khát nước bèn cúi xuống, lấy tay vục nước sông uống. Chẳng may quá đà, anh ta lộn cổ xuống sông. Một người ngồi cạnh thấy thế, vội giơ tay hét lên:

– Đưa tay cho tôi mau! Anh chàng sắp chìm nghỉm nhưng vẫn không chịu nắm tay người kia. Bỗng một người có vẻ quen biết anh chàng chạy lại, nói: – Cầm lấy tay tôi này! Tức thì, anh ta cố ngoi lên, nắm chặt lấy tay người nọ và được cứu thoát […]. (Theo Ngữ văn 6, tập một)

c) So sánh hình thức và ý nghĩa của hai câu sau:

(1) Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột.

(2) Hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột!

(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)

a) Những từ cầu khiến trong câu:

(1) Hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên vương.

(2) Ông giáo hút trước đi.

(3) Nay chúng ta đừng làm gì nữa, thử xem lão Miệng có sống được không.

Khi thêm, bớt hoặc thay đổi chủ ngữ, nghĩa của câu có những sự thay đổi nhất định:

(1) Thêm chủ ngữ: Con hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên vương.

Nghĩa của câu về cơ bản không thay đổi nhưng giúp cho đối tượng tiếp nhận được xác định rõ hơn và đồng thời sắc thái của lời yêu cầu những nhẹ nhàng, tình cảm hơn.

(2) Bớt chủ ngữ: Hút trước đi.

Nghĩa của câu thay đổi: Lời đề nghị trở nên sỗ sàng, bất lịch sự và khiếm nhã.

(3) Thay đổi chủ ngữ: Nay các anh đừng làm gì nữa, thử xem lão Miệng có sống được không?

Nghĩa của câu thay đổi: người nói đã bị loại ra khỏi những đối tượng tiếp nhận lời đề nghị.

b) Câu cầu khiến:

(1) Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi.

(2) – Các em đừng khóc.

(3) – Đưa tay cho tôi mau!

– Cầm lấy tay tôi này!

Sự khác nhau về hình thức biểu hiện ý nghĩa cầu khiến giữa các câu:

Câu (1): có từ cầu khiến: đi; không có chủ ngữ.

Câu (2): có từ cầu khiến: đừng, có chủ ngữ: Các em.

Câu (3): Không có chủ ngữ và từ ngữ cầu khiến, chỉ có ngữ điệu cầu khiến.

c)

Câu (1) có chủ ngữ Thầy em, ngược lại câu (2) không có chủ ngữ

3. Luyện tập về văn bản thuyết minh

a) Lập bảng so sánh đặc điểm của văn bản thuyết minh với các loại văn bản đã học trong chương trình (tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận) theo mẫu sau:

b) Lập dàn bài cho các đề bài sau:

(1) Giới thiệu một đồ dùng học tập hoặc đồ dùng sinh hoạt.

(2) Giới thiệu một danh lam thắng cảnh ở quê hương em.

(3) Giới thiệu về một văn bản mà em đã học.

(1) Giới thiệu một đồ dùng học tập hoặc đồ dùng sinh hoạt.

Dàn bài

(Giới thiệu về chiếc bút bí)

Mở bài: Giới thiệu vai trò quan trọng của chiếc bút bi trong học tập đối với người học sinh. (Đây là một sản phẩm của trí tuệ và cũng là dụng cụ quan trọng trong học tập cũng như cuộc sống).

Thân bài: – Xuất xứ của chiếc bút bi:

+ Được phát minh bởi nhà báo Hungari Lazo Biro trong những năm 1930.

+ Tình cờ khi quan sát bọn trẻ chơi bi, ông nảy ra ý tưởng đặt viên bi ở

đầu bút.

+ Nhờ phát hiện ra mực in giấy rất nhanh khô nên ông đã nghiên cứu và tạo ra loại bút sử dụng mực.

– Cấu tạo của chiếc bút bi:

Gồm có 2 bộ phận chính:

+ Vỏ bút bằng nhựa hoặc kim loại, hình trụ rỗng dài từ 14 -15 cm. Trên thân thường in tên bút, nhà sản xuất, có nhiều màu sắc phong phú.

+ Ruột bút nằm bên trong vỏ bút, chứa mực, đầu ruột bút được gắn với ngòi bút bằng kim loại. Đầu ngòi bút được gắn một viên bi nhỏ giúp mực ra đều trên trang giấy.

– Công dụng của chiếc bút bi:

+ Với ưu điểm ra mực nhanh, đều và không bị dây bẩn, bút bi là một vật dụng quan trọng và hữu ích dùng để ghi chép trong đời sống. Đặc biệt đối với học sinh, bút bi là một người bạn thân thiết giúp các em học tập, ghi chép thông tin, kiến thức trên trường lớp.

Kết bài: Nhấn mạnh tầm quan trọng và sự tiện lợi của chiếc bút bi.

(2) Giới thiệu một danh lam thắng cảnh ở quê hương em.

Dàn bài

(Giới thiệu về Vịnh Hạ Long)

Mở bài: Giới thiệu về danh lam thắng cảnh Vịnh Hạ Long (Vịnh Hạ Long là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng được công nhận là di sản văn hóa thế giới của nước ta.)

Thân bài: – Lịch sử ra đời của Vịnh Hạ Long:

+ Tên gọi Hạ Long nghĩa là “nơi rồng đáp xuống”.

+ Vịnh Hạ Long có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo thời kì lịch sử, thời Bắc thuộc được gọi là Lục Châu Lục Hải đến thời người Pháp gọi là Vịnh Hạ Long tên gọi đó được duy trì cho đến ngày nay với ý nghĩa vịnh nơi rồng đáp xuống.

– Vị trí địa lí và cấu trúc của Vịnh Hạ Long:

+ Vịnh Hạ Long là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ Tây vịnh Bắc Bộ tại khu vực biển Đông Bắc Việt Nam, thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh.

+ Vịnh Hạ Long gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ. Đảo ở đây có hai loại là đảo đá vôi và đảo phiếm thạch tập trung ở Bái Tử Long và vịnh Hạ Long.

+ Có một hệ thống những hang động tuyệt đẹp như động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, động Sửng Sốt, hang Trinh Nữ, động Tam Cung…

+ Sở hữu hàng ngàn đảo đá với những hình thù sống động, đẹp như những tác phẩm điêu khắc như Hòn Đầu Người, hòn Trống Mái,…

– Ý nghĩa, giá trị:

+ Là một trong những cái nôi của con người với nền Văn hoá Hạ Long huy hoàng thời Hậu kỳ đồ đá mới tại những địa danh khảo cổ học nổi tiếng như Đồng Mang, Xích Thổ, Soi Nhụ, Thoi Giếng…

+ Thích hợp cho việc nuôi trồng và đánh bắt hải sản do có nhiều điều kiện thuận lợi.

+ Đặc biệt, là một địa điểm du lịch nổi tiếng, thu hút hàng triệu lượt khách mỗi ăm, đem lại nguồn thu lớn về kinh tế.

Kết bài: Khẳng định lại vẻ đẹp, giá trị của danh lăm thắng cảnh Vịnh Hạ Long.

(3) Giới thiệu về một văn bản mà em đã học.

Dàn bài:

Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả O’ Henri và văn bản “Chiếc lá cuối cùng”

Thân bài: – Giới thiệu về tác giả O’ Henri:

O Hen-ri (1862 – 1910) là nhà văn Mĩ chuyên viết truyện ngắn. Nhiều truyện của ông đã để lại trong bạn đọc những ấn tượng sâu sắc như: Căn gác xép, Tên cảnh sát và gã lang thang, Quà tặng của các đạo sĩ,…

Các tác phẩm của ông thường rất cảm động, nhẹ nhàng nhưng toát lên tinh thần nhân đạo cao cả, tình thương yêu người nghèo khổ.

– Giới thiệu về xuất xứ và tóm tắt văn bản “Chiếc lá cuối cùng”:

Văn bản “Chiếc lá cuối cùng” trong SGK là một đoạn trích thuộc phần một của truyện ngắn cùng tên. Truyện ngắn này được xuất bản lần đầu vào năm 1907 trong tập truyện The Trimmed Lamp and Other Stories.

Tóm tắt văn bản:

– Nội dung và nghệ thuật của văn bản “Chiếc lá cuối cùng”:

+ Nội dung:

Đoạn trích Chiếc lá cuối cùng của nhà văn Mĩ Ô-hen-ri là bức thông điệp màu xanh tác giả gửi đến người đọc để ca ngợi tình bạn chung thủy, ca ngợi mục đích và ý nghĩa cao quý của nghệ thuật: hãy yêu thương con người, hãy hi sinh vì sự sống của con người.

Tác phẩm là một bài ca ca ngợi tình yêu cuộc sống chiến thắng bệnh tật và định mệnh; ca ngợi ý nghĩa nhân sinh cao cả của lao động nghệ thuật chân chính, sự lao động nghệ thuật quên mình vì người khác; đồng thời, tác phẩm cũng bày tỏ niềm cảm thông với cuộc sống đói nghèo của giới họa sĩ, cùng giới thiệu với bạn đọc một phẩm chất cao quý của những người nghệ sĩ chân chính.

+ Nghệ thuật:

Kết bài: Khẳng định lại ý nghĩa của văn bản.

Bài làm:

2. Dựa vào những gợi ý ở mục 3, Hoạt động luyện tập, hãy viết bài văn giới thiệu một đồ dùng học tập/ sinh hoạt hoặc giới thiệu một danh lam thắng cảnh ở quê hương em hay giới thiệu một văn bản mà em đã học.

Phát minh ra đời là yếu tố giúp phát triển cuộc sống của con người. Một trong số những phát minh có đóng góp to lớn cho nhân loại đó chính là sự ra đời của chiếc bút bi. Đây là một sản phẩm của trí tuệ và cũng là dụng cụ quan trọng trong học tập cũng như cuộc sống.

Bút bi là sản phẩm được phát minh bởi nhà báo Lazo Biro vào những năm 1930. Lazo Biro làm cộng tác viên cho một tờ báo. Khi đang làm công việc này, ông gặp khó khăn trong việc những cây bút máy luôn làm bẩn giấy và thường xuyên bị hỏng. Một lần tình cờ, ông thấy bọn trẻ chơi bi trong công viên. Một viên bị vô tình chạy qua vũng nước để lại một vệt dài. Điều này dẫn đến ý tưởng đặt viên bi ở đầu bút. Sau đó, khi thăm xưởng in báo, ông để ý rằng loại mực dùng để in báo rất nhanh khô, không làm bẩn giấy nên ông đã nảy ra sáng kiến sử dụng loại mực này. Kể từ khi ra đời, bút bi trở thành vật dụng tiện lợi, hỗ trợ đắc lực cho con người trong ghi chép.

Cấu tạo của bút bi khá đơn giản, bao gồm vỏ bút và ruột bút. Chất liệu làm nên vỏ bút có thể là nhựa hoặc kim loại, tùy thuộc vào từng loại bút. Bút bi có độ dài khoảng 15 cm, đường kính từ 1,5 cm. Vỏ bút có hình trụ dài, chỗ cầm bút có những vân nổi hoặc đệm cao su để dễ cầm bút và không bị tuột. Ruột bút rất nhỏ gọn, ngắn hơn vỏ một chút và nằm bên trong vỏ. Đây là nơi chứa mực, đầu ruột bút được gắn với ngòi bút bằng kim loại. Ngòi bút chính là bộ phận tiếp xúc với trang giấy để viết ra chữ. Nhưng để ngòi bút được hoạt động trơn tru cần gắn một viên bi nhỏ giúp mực ra đều trên trang giấy. Bộ phận điều chỉnh của bút bi có đầu bấm dùng để mở ngòi bút hoặc tắt đi khi sử dụng. Bộ phận này được kết nối với lò xo giúp ruột bút được hoạt động dễ dàng. Người dùng chỉ cần sử dụng nút bấm để điều chỉnh. Đối với những loại bút bi có nắp thì chỉ cần đóng mở nắp khi dùng, không có bộ điều chỉnh.

Trên thị trường hiện nay có đang dạng mẫu mã, kích thước, màu mực của các sản phẩm bút bi. Những loại bút này sử dụng vô cùng tiện lợi cho học sinh, sinh viên cũng như người đi làm với thiết kế nhỏ gọn, có thể mang bên mình mọi lúc, mọi nơi.

Bút bi không chỉ là vật dụng giúp con người dễ dàng tiếp cận với tri thức mà còn là người bạn của con người trong công việc. Với ưu điểm ra mực nhanh, đều và không bị dây bẩn, bút bi là một vật dụng quan trọng và hữu ích dùng để ghi chép trong đời sống. Từ học sinh, sinh viên đến người đi làm đều sử dụng bút bi. Đặc biệt đối với học sinh, bút bi là một người bạn thân thiết giúp các em học tập, ghi chép thông tin, kiến thức trên trường lớp.

Trải qua thời gian, bút bi ngày càng được cải tiến và trở nên tiện dụng hơn, mang đến những tiện ích cho mọi người.

……………………………………..

Soạn Bài: Tức Cảnh Pác Bó

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả: Chủ tịch Hồ Chí Minh

2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Vào tháng 2 – 1941, sau 30 năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Bác Hồ đã trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Người sống và làm việc trong hoàn cảnh hết sức gian khổ: ở trong hang Pác Bó, một hang núi nhỏ sát biên giới Việt – Trung (thuộc huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng); thường phải ăn cháo ngô, măng rừng thay cơm; bàn làm việc là một phiến đá bên bờ suối cạnh hang (được Người đặt tên là suối Lê – nin). Bài thơ Tức cảnh Pác Bó là một trong những bài thơ được Bác sáng tác trong thời gian này.

* Thể thơ: Bài thơ Tức cảnh Pác Bó được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật. Thể thơ này chỉ có một khổ thơ, gồm 4 câu, mỗi câu 7 chữ rất nổi tiếng ở Trung Quốc.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

* Bài thơ thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.

* Một số bài thơ thuộc thể loại này đã được học là: Nam quốc sơn hà, Cảnh khuya, Rằm tháng giêng,…

Câu 2:

* Giọng điệu chung của bài thơ là giọng dí dỏm, vui tươi pha chút hài hước.

* Mặc dù cuộc sống khó khăn, thiếu thốn nhưng Người vẫn cho đó là “sang”. Bởi vì với Bác, niềm vui lớn nhất là được làm cách mạng, được cống hiến cho dân, cho nước.

Câu 3:

Qua bài thơ, có thể thấy rõ Bác Hồ cảm thấy vui thích, thoải mái khi sống giữa thiên nhiên. Nguyễn Trãi cũng từng ca ngợi “thú lâm tuyền” (niềm vui thú được sống với được sống với rừng, suối) trong bài Côn Sơn ca. Sự khác nhau của hai “thú lâm tuyền” ở Nguyễn Trãi và Bác Hồ:

“Thú lâm tuyền” của Nguyễn Trãi là cái “thú lâm tuyền” của người ẩn sĩ đang bất lực trước thực tế xã hội, muốn “lánh đục về trong”, muốn tìm đến một cuộc sống “an bần lạc đạo”.

“Thú lâm tuyền” ở Hồ Chí Minh vẫn gắn với con người hành động và con người chiến sĩ. Nhân vật trữ tình trong bài thơ tuy có dáng vẻ của một ẩn sĩ, nhưng trên thực tế, đó là một người chiến sĩ, một nhà hoạt động cách mạng đang tận tâm, tận lực vì độc lập tự do của dân tộc.

Soạn Bài Tức Cảnh Pác Bó (Chi Tiết)

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Câu 1 Câu 1 (trang 29 SGK Ngữ văn 8, tập 2)

Bài thơ thuộc thể thơ gì? Hãy kể tên một số bài thơ cùng thể thơ này mà em đã học.

Trả lời:

– Bài thơ được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt.

– Có thể kể tên một số bài thơ cùng thể thơ với bài này đã học như: Sông núi nước Nam, Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, Xa ngắm thác núi Lư, Cảnh khuya, Rằm tháng riêng, …

Câu 2 Câu 2 (trang 29 SGK Ngữ văn 8, tập 2)

Nhận xét về giọng điệu chung của bài thơ. Tâm trạng của Bác Hồ ở Pác Bó được biểu hiện như thế nào qua bài thơ? Vì sao Bác lại cảm thấy cuộc sống gian khổ thật là sang?

Trả lời:

– Giọng điệu chung của bài thơ là giọng sảng khoái, tự nhiên, hóm hỉnh pha chút vui đùa. Điều đó cho thấy, dù sống trong gian khổ nhưng tâm trạng của Bác vẫn rất lạc quan, hơn thế, Bác còn cảm thấy vui thích và thoải mái với cuộc sống nơi rừng núi hoang vu. Làm cách mạng và được sống hoà hợp với thiên nhiên là một niềm vui lớn của nhà cách mạng, nhà thơ Hồ Chí Minh

– Những năm tháng sống và làm việc ở Pác Bó, thực tế Bác đã phải trải qua rất nhiều những khó khăn. Thế nhưng những gian khổ ấy, những cháo bẹ, rau măng, bàn đá chông chênh,…không làm mờ đi được niềm tin và niềm vui vì thời cơ của cuộc giải phóng đang tới gần. Có được niềm tin ấy thì những gian khổ nhỏ nhoi trong sinh hoạt cá nhân kia có nghĩa lí gì, thậm chí, tất cả đều trở nên sang trọng cả. Bài thơ cho thấy cả nhân cách cao khiết của Hồ Chí Minh, cho thấy sự hi sinh thầm lặng của người cho đất nước.

Câu 3 Câu 3 (trang 29 SGK Ngữ văn 8, tập 2)

Qua bài thơ, có thể thấy rõ Bác Hồ cảm thấy vui thích, thoải mái khi sống giữa thiên nhiên. Nguyễn Trãi cũng từng ca ngợi “thú lâm tuyền” (niềm vui thú được sống với rừng, suối) trong bài Côn Sơn ca. Hãy cho biết “thú lâm tuyền” ở Nguyễn Trãi và ở Bác Hồ có gì giống và khác nhau.

Trả lời:

Nguyễn Trãi từng ca ngợi “thú lâm tuyền” (niềm vui thú được sống với rừng, suối) trong bài Côn sơn ca. Trong bài thơ này, Hồ Chí Minh cũng cho thấy niềm vui thú đó. Thế nhưng “thú lâm tuyền” của Nguyễn Trãi, ấy là cái “thú lâm tuyền” của người ẩn sĩ bất lực trước thực tế xã hội muốn “lánh đục về trong”, tự tìm đến cuộc sống “an bần lạc đạo”. Ở Hồ Chí Minh, cái “thú lâm tuyền” vẫn gắn với con người hành động, con người chiến sĩ. Nhân vật trữ tình trong bài thơ tuy có dáng vẻ của một ẩn sĩ nhưng thực tế đó lại là một người chiến sĩ đang tận tâm, tận lực vì tự do độc lập của non sông ( Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng).

Bố cục

Bố cục: 2 phần

– Phần 1 (3 câu thơ đầu): Cảnh sinh hoạt và làm việc của Bác.

– Phần 2 (còn lại): Cảm nghĩ của Bác về cuộc đời cách mạng.

ND chính

“ Tức cảnh Pác Bó” là bài thơ tứ tuyệt bình dị pha giọng vui đùa, cho thấy tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác Hồ trong cuộc cách mạng đầy gian khổ ở Pác Bó. Với Người, làm cách mạng và sống hòa hợp với thiên nhiên là niềm vui lớn.

chúng tôi