Soạn Văn 8 Tập 1 Bài Hai Cây Phong / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Soạn Bài: Hai Cây Phong – Ngữ Văn 8 Tập 1

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Ai-ma-tốp trong SGK Ngữ văn 8 Tập 1).

2. Tác phẩm

* Văn bản Hai cây phong là phần đầu của truyện Người thầy đầu tiên – một tác phẩm nổi tiếng của Ai-ma-tốp khá quen thuộc với bạn đọc Việt Nam.

* Tóm tắt

Truyện kể về Làng Ku-ku-rêu nằm ven chân núi. Phía trên làng, giữa một ngọn đồi, có hai cây phong to lớn. Hai cây phong hùng vĩ như những ngọn hải đăng trên núi, như biểu tượng của tiếng nói riêng, tâm hồn riêng của làng. Năm học cuối, bọn trẻ chạy ào lên phá tổ chim, leo lên hai cây phong cao vút để thấy bao vùng đất chưa từng biết và những con sông chưa từng nghe qua. Thuở ấy, nhân vật “tôi” chỉ cảm nhận sự gắn bó tuổi thơ mình với hai cây phong được gọi là “Trường Đuy-sen”.

* Bố cục:

Văn bản Hai cây phong có thể được chia làm 2 phần:

Phần 2: còn lại : Những thước phim quay chậm về kỉ niệm thời thơ ấu gắn bó với hai cây phong.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

* Căn cứ vào đại từ nhân xưng của người kể chuyện, hai mạch kể phân biệt lồng vào nhau trong Hai cây phong là:

“Tôi” là người kể chuyện, là một họa sĩ đứng ở hiện tại và kể về hai cây phong

“Chúng tôi” là người kể đang nhân danh cho “cả bọn con trai” ngày trước, người kể cũng là một trong những đứa trẻ đó.

* Mạch kể của người kể chuyện xưng “tôi” quan trọng hơn vì “tôi” có mặt ở cả hai mạch kể và “tôi” xuất hiện cả ở phần đầu và phần cuối văn bản. Toàn bộ bức tranh thiên nhiên được vẽ qua bằng sự ngắm nhìn cả tâm hồn và cảm nhận của “tôi”.

Câu 2:

Trong mạch kể chuyện của người kể xưng “tôi”, điều thu hút người kể chuyện cùng bọn trẻ và làm cho chúng ngây ngất là:

Kỉ niệm bọn trẻ chạy ào lên phá tổ chim, chân đất, bám vào các mắt mấu,… làm chấn động cả vương quốc loài chim. Ngồi dưới cành cây suy nghĩ… lắng nghe tiếng gió.

Hai cây phong khổng lồ, đung đưa như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền.

Có thể nói, người kể chuyện (một họa sĩ) đã miêu tả hai cây phong và quang cảnh nơi đây bằng ngòi bút đậm chất hội họa vì:

Đường nét phóng khoáng: đất, dải thảo nguyên, dòng sông, đám mây, đồng cỏ.

Màu sắc vừa chứa đầy sức sống vừa huyền ảo, thơ mộng: sương trắng mờ đục, xanh thắm biếc, sông bạc lấp lánh.

Câu 3:

Trong mạch kể chuyện của người kể chuyện xưng “tôi” , nguyên nhân khiến cho hai cây phong chiếm vị trí trung tâm và gây xúc động sâu sắc cho người kể chuyện vì hai cây phong đã gắn bó với “tôi” từ thời ấu thơ, gắn với quê hương, gắn với nơi chôn rau cắt rốn của “tôi”. Và đặc biệt, hai cây phong là nhân chứng cảm động về tình thầy trò giữa cô bé An-tư-nai và thầy Đuy-sen.

Có thể nói, trong mạch kể xen lẫn tả này, hai cây phong đã được miêu tả hết sức sống động, như hai con người, và không chỉ thông qua sự quan sát của người nghệ sĩ vì nhân vật “tôi” đã hóa thân vào hai cây phong để hiểu được linh hồn của nó chứ không phải chỉ là sự quan sát của người nghệ sĩ bình thường.

Câu 4:

4.4

/

5

(

36

bình chọn

)

Soạn Văn 8 Bài Hai Cây Phong Vnen

Soạn Văn 8 VNEN bài 9: Hai cây phong được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo giúp các bạn học sinh nắm rõ kiến thức về tình yêu quê hương đất nước thông qua những cảm xúc bồi hồi của người kể về hai cây phong từng gắn bó với tuổi học trò trong kí ức và trong hiện tại để từ đó học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 8 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình. Mời các bạn cùng tham khảo

Soạn Văn 8 bài 9: Hai cây phong VNEN

A. Hoạt động khởi động

“Nội dung truyện Người thầy đầu tiên được đặt vào bối cảnh vùng quê hẻo lánh……….. như đôi cây phong nhỏ này”

B. Hoạt động hình thành kiến thức

1. Đọc văn bản sau: Hai cây phong

2. Tìm hiểu văn bản

a. Xác định ý của các đoạn trong văn bản:

(1)Từ “Làng Ku-Ku-rêu” đến “phía tây”

Giới thiệu chung vị trí, cảnh vật nổi bật của làng Ku – ku – rêu.

(2)Từ “Phía trên làng” đến “chiếc gương thần xanh”

Hai cây phong trong cam nhận của nhân vật tôi

(3) Từ “Vài năm học” đến “biêng biếc kia”

Kí ức tuổi thơ về hai cây phong

(4) Từ “Tôi lắng nghe” đến hết

Nhân vật tôi nhớ về người trồng hai phong

b. Căn cứ vào đại từ nhân xưng (tôi, chúng tôi) của người kể chuyện, xác nhận định hai mạch kể chuyện phân biệt lồng vào nhau trong Hai cây phong. Hãy tách thành hai câu chuyện và tóm tắt nội dung theo từng mạch:

Người kể chuyện xưng”tôi” (đoạn 2,4)

Người kể chuyện xưng “chúng tôi”(đoạn 1,3)

So sánh điểm khác nhau của “hai cây phong” trong hai mạch câu chuyện:

…………………………………………………………………………………….

người kể chuyện, người ấy tự giới thiệu là họa sĩ. Chúng ta có thể nghĩ rằng người kể chuyện ở đây chính là nhà văn Ai-ma-tốp. Tuy nhiên, không phải nhất thiết bao giờ người kể chuyện cũng là tác giả

vẫn là người kể chuyện trên, nhưng lại nhân danh là “cả bọn con trai” ngày trước, và hồi ấy người kể chuyện cũng là một đứa trẻ trong bọn con trai.

So sánh điểm khác nhau của “hai cây phong” trong hai mạch câu chuyện:

Điểm khác nhau trong hai mạch kể chuyện chính là ở ngôi kể, hai cây phong hiện lên trong mắt người đọc qua 2 ngôi kể khác nhau. Tuy nhiên mạch kể xưng “tôi” quan trọng hơn vì nó nắm giữ vai trò là người chứng kiến kể lại câu chuyện đồng thời vẽ lên bức tranh thiên nhiên được vẽ qua bằng sự ngắm nhìn cả tâm hồn, bằng sự cảm nhận và rung động rất sâu sắc của nhân vật tôi.

c. Nhân vật người kể chuyện xưng “chúng tôi”, điều gì thu hút người kể chuyện cùng bọn trẻ và làm cho chúng ngây ngất? Những chi tiết nào miêu tả hai cây phong và quang cảnh nơi đây thể hiện ngòi bút đậm chất hội họa của tác giả?

d. Trong mạch kể của người kể chuyện xưng ”chúng tôi ”, điều gì thu hút người kể chuyện cùng bọn trẻ và làm cho chúng ngây ngất? Những chi tiết nào miêu tả cây phong và quang cảnh nơi đây thể hiện ngòi bút đậm chất hội họa của tác giả?

* Miêu tả quang cảnh:

Đường nét:

Màu sắc:

e. Trong mạch kể của người kể chuyện xưng “tôi” nguyên nhân nào khiến hai cây phong chiếm vị trí trung tâm và gây xúc động sâu sắc cho người kể chuyện? Tại sao có thể nói trong mạch kể xen lẫn tả này, hai cây phong được miêu tả hết sức sống động, như hai con người và không chỉ thông qua sự quan sát của người kể chuyện?

Học sinh tự làm

3. Tìm hiểu về biện pháp nói quá và tác dụng của nói quá.

a. Thực hiện yêu cầu trong phiếu học tập:

………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………..

Bài làm:

Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày

b. Đọc và bổ sung ví dụ về nói quá:

Nói quá là biện pháp tu từ phong đại mức độ, quy mô, tính chất của sự vật, hiện lượng được miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng tăng sức biểu cảm Ví dụ: Xương đồng da sắt

Bầm gan tím ruột

Nghiêng nước nghiêng thành

C. Hoạt động luyện tập

1. Các nhóm đọc diễn cảm văn bản Hai Cây Phong

2. Luyện tập sử dụng biện pháp nói quá

a. Gạch dưới những từ ngữ thể hiện cách nói quá và giải thích ý nghĩa của chúng trong các ví dụ sau:

Bàn tay ta làm nên tất cả

Có sức người sỏi đá cũng thành cơm

Nói quá về sức người, nhưng rất đúng: bàn tay con người có thể biến sỏi đá thành cơm (lao động tỉa trên sỏi đá để lấy hạt thóc)

Anh cứ yên tâm, vết thương chỉ sướt da thôi. Từ giờ đến sáng em có thể đi lên đến tận trời được

Có ý nhấn mạnh dù vết thương có đau vẫn có thể đi bất cứ đâu – đi lên đến tận chân

Cái cụ bá thét ra lửa ấy lại xử nhũn mời hắn vào nhà xơi nước

Ý muốn nói quá về lời nói của con người có quyền hành, mỗi lời nói ra là người khác phải nghe theo. “Thét ra lửa” là nói quá về nhân vật Bá Kiến trong tác phẩm Chí Phèo.

b. Điền thành ngữ cho sắn vào chỗ trống (…) trong các câu sau đây để tạo biện pháp tu từ nói quá:

bầm gan tím ruột nổ từng khúc ruột chó ăn đá, gà ăn sỏi ruột để ngoài da vắt chân lên cổ

a. Ở nơi ……………… thế này, đến cỏ không mọc nổi nữa là trồng rau, trồng cà.

b. Nhìn thấy tội ác của giặc ai ai cũng ……………………….

c. Cô Nam tính tình xởi lởi………………………..

d. Lời khen của cô giáo làm cho nó……………………

e. Bọn giặc hoảng hồn ……………………..

D. Hoạt động vận dụng

1. Biện pháp nói quá

a. Đặt câu với các thành ngữ dùng biện pháp nói quá sau đây:

nghiêng nước nghiêng thành, dời non lấp biển, lấp biển vá trời, mình đồng da sắt, nghĩ nát óc.

b. Tìm năm thành ngữ so sánh có dùng biện pháp nói quá.

c. Viết một đoạn văn có dùng biện pháp nói quá.

2. Viết bài tập làm văn số 2 (làm tại lớp)-Văn tự sự kết hợp với miêu tả, biểu cảm.

Đề 1: Hãy kể về một kỉ niệm đánh nhớ với một con vật nuôi mà em yêu thích

Đè 2: Kể về một lần em mặc khuyết điểm khiến thầy, cô giáo buồn

Đề 3: Kể về một việc em đã làm khiến bố mẹ em rất vui lòng

Đề 4: Nếu là người được chứng kiến cảnh lão Hạc kể chuyện bán chó với ông giáo trong truyện ngắn của Nam Cao, em sẽ ghi lại câu chuyện đó như thế nào?

Đề 1: Bài văn mẫu lớp 8 số 2 đề 1: Hãy kể về một kỉ niệm đáng nhớ đối với một con vật nuôi mà em yêu thích Đề 2: Bài văn mẫu lớp 8 số 2 đề 2: Hãy kể về một lần em mắc khuyết điểm khiến thầy cô giáo buồn Đề 3: Bài văn mẫu lớp 8 số 2 đề 3: Kể về một việc em đã làm khiến bố mẹ vui lòng Đề 4:

Ngày ấy tôi mới lên mười, xã hội hỗn loạn, nay thấy đánh nhau chỗ này, mai thấy Tây đi càn chỗ kia. Thầy giáo Thứ đang dậy chúng tôi lớp đệ nhị ở trường làng bên, phải cho đám trò nghỉ. Tôi không biết vì sao, chỉ thấy người ta láo pháo đồn rằng thầy tôi ghét Tây, ngán cảnh chúng dòm ngó trường lớp nên cho chúng tôi nghỉ.

Ngày ngày thầy vẫn sang nhà lão Hạc trò chuyện với ông cụ. Tôi ở gần hay sang qua lại cùng thầy lúc giúp lão dọn nhà, lúc đùa nghịch với con chó Vàng. Không ngờ những chuyện thật về lão Hạc lại được thầy giáo tôi viết thành câu chuyện cảm động đến thế. Cái cảnh lão Hạc kể với thầy tôi về chuyện bán chó là lúc tôi chứng kiến tất cả.

Chả là hôm ấy, tôi đang giúp thầy nhặt đống khoai và lân la hỏi thầy về mấy chữ Hán khó hiểu. Thầy đang giảng cho tôi thì thấy lão Hạc tiến vào. Cái dáng điệu gầy gò của lão, hôm nay trông buồn thảm quá. Vừa nhìn thấy thầy Thứ, lão đã báo ngay:

– Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!

– Cụ bán rồi?

– Bán rồi! Họ vừa bắt xong.

Lão Hạc cố làm ra vẻ vui vẻ nhưng tôi thấy lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước. Thầy tôi chắc cũng ái ngại cho lão nên chỉ ôm đôi bờ vai lão vỗ nhẹ như đồng cảm. Tôi thấy đôi mắt của thầy Thứ cũng như muốn khóc. Thầy hỏi lão Hạc:

– Thế nó cho bắt à?

Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những nếp nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…

– Khốn nạn… Ông giáo ơi!… Nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi thì chạy ngay về vẫy đuôi mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục nấp trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy, hai cẳng sau nó dốc ngược nó lên. Cứ thế là thằng Mục và thằng Xiên, hai thằng chỉ loay hoay một lúc đã trói chặt cả bốn chân nó lại. Bây giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết!… Này! ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn! Nó cứ nằm im như trách tôi, nó kêu ư ử, nhìn tôi như muốn bảo rằng “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão đối xử với tôi như thế này à?”. Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!

Thầy Thứ lại an ủi lão:

– Cụ cứ tưởng thế chứ nó chẳng hiểu gì đâu! Vả lại ai nuôi chó mà chả bán hay giết thịt! Ta giết nó chính là ta hoá kiếp cho nó đấy. Hoá kiếp để cho nó làm kiếp khác.

Lão Hạc chua chát bảo:

– Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra nó sung sướng hơn một chút… Kiếp người như tôi chẳng hạn!…

Câu nói của lão làm tôi bùi ngùi, thầy Thứ hạ giọng:

– Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?

– Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?

Lão cười và ho sòng sọc. Thầy tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo:

– Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: Bây giờ cụ ngồi xuống phản chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu môt ấm nước chè tươi thật đặc, ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào… thế là sung sướng.

– Vâng! Ông lão dậy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng

Lão nói xong lại cười đưa đà. Tiếng cười gượng nhưng nghe đã hiền hậu lại, thấy vậy tôi tê tái đứng lên:

– Nói đùa thế chứ ông giáo cho để khi khác… Lão Hạc ngần ngại.

– Việc gì còn phải chờ khi khác… Không bao giờ nên hoãn sự sung sướng lại, cụ cứ ngồi xuống đây.

Tôi đi luộc khoai. Thầy Thứ và lão Hạc ngồi nói chuyện lâu lắm, thầy tôi là người nhiều chữ nghĩa, hiểu biết và thương người nên có chuyện gì lão Hạc cũng tâm sự và sẻ chia.

Vừa luộc khoai, tôi vừa nghĩ về lão Hạc nhiều lắm. Tôi thương lão, con người già cả cô đơn nhưng ai cũng quý lão bởi lão sống lương thiện và nhân hậu. Tôi biết lão quý con Vàng của mình lắm vì nó là kỷ vật của anh con trai lão để lại mà. Tôi hiểu vì bần cùng lão mới làm như vậy.

Đã 60 năm, đất nước đổi thay chế độ, lão Hạc không còn, cuộc sống của người nông dân ngày nay đã khác. Nhưng hình ảnh lão Hạc đau đớn vì bán con chó cứ ám ảnh tôi mãi. Đó là kỷ niệm một thời khổ đau của đất nước mà người nông dân phải chịu nhiều cơ cực nhất. Nhưng chính trong hoàn cảnh đó tôi hiểu hơn về họ, về tình yêu thương chia sẻ của người thầy giáo tôi với những con người khốn khổ, về nhân cách và vẻ đẹp của người nông dân.

E. Hoạt động tìm tòi mở rộng

……………………………………..

Soạn Bài Văn Hai Cây Phong Lớp 8, Tóm Tắt Văn Bản 2 Cây Phong

Tiếp tục soạn bài nào, hôm nay chúng ta cùng đến với bài Hai Cây Phong (trích Người Thầy Đầu Tiên – Ai-ma-tốp), sau đây mà bài soạn một số câu hỏi mà chúng tôi sưu tầm được.

Câu hỏi: Hãy nêu ý nghĩa và nghệ thuật của bài hai cây phong. qua đó e có nhận xét gì?

Nghệ thuật:

-Lựa chọn ngôi kể,ng kể chuyện tạo nên 2 mạch kể lồng ghép độc đáo.

-Miêu tả = ngồi bút đậm chất hội họa,..

-Liên tưởng,tưởng tưởng phong phú.

Ý nghĩa:

2 cây phong là biểu tượng của tình yêu quê hương sâu nặng, gắn liền vs những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ của ng họa sĩ làng ku-ku-rêu.

Câu hỏi: Tại sao có thể nói người kể chuyện đã miêu tả 2 cây phong và quan cảnh nơi đây bằng ngòi bút đậm chất hội họa. Hãy chứng minh tính chất hội họa đó.

Câu hỏi: Tóm tắt văn bản 2 cây phong

Làng Ku-ku-rêu nằm ven chân núi, một cao nguyên, phía dưới là thung lũng Vàng. Phía trên làng, giữa một ngọn đồi, hai cây phong to lớn, hai cây phong hùng vĩ như những ngọn hải đăng trên núi, như biểu tượng của tiếng nói riêng, như tâm hồn riêng của làng.

Vào năm học cuối, bọn trẻ chạy ào lên đấy phá tổ chim, leo lên hai cây phong cao vút để thấy hiện ra trước mắt chúng biết bao vùng đất chưa từng biết và những con sông chưa từng nghe.

Thuở ấy, nhân vât “tôi” chỉ cảm nhận sự gắn bó tuổi thơ mình với hai cây phong, tìm đến nó để tìm đến âm thanh kì diệu, những kí ức gắn liền suốt tuổi thơ, và ” tôi ” cũng ko biết vì sao ở đó được gọi là ” Trường Đuy-sen”.

Tình cảm yêu mến hai cây phong của “tôi”, của “chúng tôi”, của những người dân làng Ku-ku-rêu khiến chúng ta trân trọng chính là vì hai cây phong ấy gắn với câu chuyện về một con người cao đẹp, người thầy giáo không có bằng sư phạm nhưng đã vun trồng bao ước mơ, hi vọng cho những trò nhỏ của mình.

Câu hỏi: Những đặc điểm của 2 cây phong khiến người kể chuyện luôn nhớ và ong ước trở về bên nó để “lắng nghe tiếng reo cho đến khi say sưa ngây ngất”

Kỷ niệm gắn bó với hai cây phong được kể lại theo hai mạch dẫn ***g vào nhau: mạch dẫn chuyện trực tiếp của nhân vật “tôi” – một hoạ sĩ đã lớn lên từ chính mảnh đất này và mạch kỷ niệm của cả một thế hệ “chúng tôi”. Ký ức thật đậm nét của tuổi thơ đã khiến cho người hoạ sĩ – nhân vật “tôi” đã tái hiện lại thật đẹp và xúc động hình ảnh hai cây phong – biểu tượng của quê hương, một mảnh hồn làng sống động.

Bắt đầu của những ký ức về làng quê là lời dẫn chuyện đưa người đọc trở về một nơi nằm ven chân núi, trên một cao nguyên rộng, có những khe nước ào ào từ nhiều ngách đá đổ xuống. Ku-ku-rêu đã hiện ra với tất cả vẻ hoang sơ của thiên nhiên với thung lũng, thảo nguyên, rặng núi. Hai cây phong không phải là món quà của tự nhiên nhưng đã từ rất lâu, những đứa trẻ đã biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình. Để cũng rất tự nhiên, hình ảnh hai cây phong đã trở thành của riêng làng Ku-ku-rêu: “chúng luôn hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi”, trở thành mốc định hướng cho mọi người tìm đến. Riêng đối với “tôi”, “mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa đi qua thảo nguyên về làng, tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy”.

Anh đã dành tình cảm đặc biệt với hai cây phong như với những người bạn, nhìn bằng cặp mắt chan chứa tình cảm yêu thương, nên dù khó nhìn đến mấy, anh bao giờ cũng cảm biết được chúng, lúc nào cũng nhìn rõ. Hai cây phong đã trở thành một phần tâm hồn của anh, chi phối cả niềm vui, nỗi buồn của người hoạ sĩ.

Bằng tình yêu ấy, anh đã tạo nên một bức tranh thật sinh động, đẹp đẽ. Một bức tranh ngân nga cả những giai điệu “tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”. Đoạn văn miêu tả hình ảnh hai cây phong đẹp như một bài thơ về một loài cây “có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”. Có lẽ chính tình yêu quê hương của người hoạ sĩ đã đem đến cảm giác choáng ngợp say sưa ấy: “Dù ta tới đây vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm, chúng cũng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau. Có khi tưởng chừng như một làn sóng thủy triều dâng lên vỗ vào bãi cát, có khi lại nghe như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm chuyển qua lá cành như một đốm lửa vô hình, có khi hai cây phong bỗng im bặt một thoáng, rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”. Ngay cả khi thời tiết thay đổi khắc nghiệt, hai cây phong ấy vẫn như một con người bền bỉ kiên cường đối chọi với sức mạnh tàn phá của bão dông, “nghiêng ngả tấm thân dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Cảm nhận của tuổi thơ đã được người họa sĩ ấy trân trọng gìn giữ, ngay cả khi khám phá ra điều bí ẩn về hai cây phong bằng những giải thích chính xác khoa học thì: “việc khám phá ra chân lí giản đơn ấy vẫn không làm tôi vỡ mộng xưa, không làm tôi bỏ mất cách cảm thụ của tuổi thơ mà tôi còn giữ đến tận ngày nay”. Bởi lẽ cây phong ấy đã gắn với cả một thời tươi đẹp: ” Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh…”. Hình ảnh thời ấu thơ đã tạo thành không gian cổ tích rất riêng, phải chăng chính từ tình yêu và sự gắn bó với hai cây phong, đã làm cậu bé năm xưa lớn lên trở thành họa sĩ với mong muốn vẽ lại linh hồn nồng thắm của làng quê?

Hai cây phong ấy còn là kỷ niệm chung của chúng tôi – bọn con trai tinh nghịch ở làng Ku-ku-rêu, những người bạn cùng trang lứa của người họa sĩ. Đó là tất cả những ngày tháng được vui chơi, chạy nhảy giữa núi đồi rộng lớn, trong bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền của hai cây phong. Đẹp làm sao khoảnh khắc những cậu bé ấy được nâng lên cao từ những cành cao ngất, cao đến ngang tầm chim bay, một thế giới khác đã được mở ra, vượt ra khỏi giới hạn của làng quê Ku-ku-rêu nhỏ bé, “như có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”. Hai cây phong trở thành bệ đỡ, nâng cánh ước mơ cho những đứa trẻ, mở tầm nhận thức về một thế giới đầy những điều mới lạ cần khám phá, hướng về “những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thẳm biêng biếc kia”. Cũng như bạn bè của mình, “tôi” – chú bé sau này là họa sĩ cũng trải qua cảm giác “tim đập rộn ràng vì thảng thốt và vui sướng, rồi trong tiếng xào xạc không ngớt ấy, tôi cố hình dung ra những miền xa lạ kia”. Hai cây phong đã trở thành người bạn lớn, người bạn tâm tình thân thiết đem lại những niềm vui vỡ oà hạnh phúc cho tuổi thơ.

Khi hưởng thụ niềm vui trong bao tháng ngày hồn nhiên thơ mộng bên hai cây phong ấy, không cậu bé nào đặt câu hỏi về người đã vun mầm, ấp ủ những niềm hi vọng, đem lại hạnh phúc tuổi thơ. Đó cũng là điều bình thường với bất cứ em bé nào. Hai cây phong của người chiến sĩ Hồng quân, đoàn viên thanh niên cộng sản Đuy-sen đã cùng trồng với em bé khốn khổ An-tư-nai trong những ngày làng Ku-ku-rêu còn chìm đắm trong lạc hậu tối tăm và những hủ tục còn đè nặng trong đời sống dân làng những năm đầu sau cách mạng tháng Mười đã trở thành chứng nhân cho sự lớn khôn của bao thế hệ. Bản thân người thầy đầu tiên ấy vẫn ở lại với làng, đã trở thành một ông lão đưa thư mẫn cán Đuy-sen, thế nhưng khi các em bé gọi quả đồi có hai cây phong là “Trường Đuy-sen” như bao dân làng, có mấy ai còn nhớ ông lão ấy chính là thầy Đuy-sen, người đem đến ánh sáng cách mạng góp phần xoá tan đi bóng tối cho bao cuộc đời? Hai cây phong còn là minh chứng cho sự hy sinh lặng thầm của những người cộng sản trẻ tuổi đã không ngại ngần cống hiến thời thanh xuân tươi đẹp cho quê hương thay da đổi thịt. Tình cảm yêu mến hai cây phong của “tôi”, của “chúng tôi”, của những người dân làng Ku-ku-rêu khiến chúng ta trân trọng chính là vì hai cây phong ấy gắn với câu chuyện về một con người cao đẹp, người thầy giáo không có bằng sư phạm nhưng đã vun trồng bao ước mơ, hi vọng cho những trò nhỏ của mình.

Soạn Bài Lớp 8: Hai Cây Phong

Soạn bài lớp 8: Hai cây phong

Soạn bài môn Ngữ văn lớp 8 học kì I

Soạn bài: Hai cây phong

trích truyện Người thầy đầu tiên do Ai-ma-tốp sáng tác được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo giúp các bạn học sinh nắm rõ kiến thức về tình yêu quê hương đất nước thông qua những cảm xúc bồi hồi của người kể về hai cây phong từng gắn bó với tuổi học trò trong kí ức và trong hiện tại để từ đó học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 8 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình.

HAI CÂY PHONG(Trích truyện Người thầy đầu tiên – Ai-ma-tốp)

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Về tác giả:

Ai-ma-tốp là nhà văn nước Cộng hoà Cư-rơ-gư-xtan, một nước cộng hoà ở vùng Trung Á, thuộc Liên Xô trước đây. Hoạt động văn học của Ai-ma-tốp bắt đầu từ năm 1952, khi ông là sinh viên Trường Đại học Nông nghiệp Cư-rơ-gư-xtan. Từ năm 1956 đến năm 1958 ông học Trường viết văn M. Goóc-ki ở Mát-xcơ-va. Sau khi tốt nghiệp (1959), Ai-ma-tốp làm phóng viên báo Sự thật thường trú tại Cư-rơ-gư-xtan. Tác phẩm đầu tiên khiến Ai-ma-tốp nổi tiếng là tập truyện Núi đồi và thảo nguyên (được tặng giải thưởng Lê-nin về văn học năm 1963). Các tác phẩm chủ yếu tiếp theo là: Cánh đồng mẹ (1963), Vĩnh biệt Gun-xa-rư (1967), Con tàu trắng (1970),… Đề tài chủ yếu trong các truyện ngắn của Ai-ma-tốp là cuộc sống khắc nghiệt nhưng cũng đầy chất lãng mạn của người dân vùng đồi núi Kưr-gư-xtan, tình yêu, tình bạn, tinh thần dũng cảm vượt qua những thử thách hi sinh thời chiến tranh, thái độ tích cực đấu tranh của tầng lớp thanh niên, trước hết là nữ thanh niên để thoát khỏi sự ràng buộc của những tập tục lạc hậu.

Nhiều tác phẩm của ông từ lâu đã rất quen thuộc với bạn đọc Việt Nam như Cây phong non trùm khăn đỏ, Người thầy đầu tiên, Con tàu trắng,…

2. Về tác phẩm:

a) Phần trích Hai cây phong trong sách giáo khoa do người biên soạn đặt. Bối cảnh của truyện là một vùng quê hẻo lánh thuộc Cư-rơ-gư-xtan giữa những năm 20 của thế kỉ XX khi nơi đây tư tưởng phong kiến và gia trưởng còn nặng nề, do đó phụ nữ và trẻ mồ côi bị coi thường và rẻ rúng.

b) Hình ảnh hai cây phong được miêu tả với một tâm trạng đầy xúc động của người kể chuyện. Nó dẫn dắt người đọc trở lại với 40 năm trước để chứng kiến những tình cảm sâu nặng giữa thầy Đuy-sen và cô trò nhỏ An-tư-nai. Người kể chuyện xưng “tôi” (có lúc là “chúng tôi”) cũng là người gắn bó với làng quê Ku-ku-rêu, nơi có hai cây phong thân thuộc, gắn với bao kỉ niệm tuổi thơ của mình.

c) Trong văn bản này, mặc dù không thể đồng nhất giữa “tôi” (hoặc “chúng tôi”) với tác giả song rõ ràng là nhà văn đã uỷ thác cho người kể chuyện xưng “tôi” một vai trò quan trọng: người chứng kiến và kể lại câu chuyện. Dưới hình thức kể chuyện này, tác giả như là người đứng ngoài, không can dự vào câu chuyện nhưng thực chất là đã ẩn mình (ở một mức độ nào đó) vào “tôi”. Ở đây, bằng một giọng trầm tha thiết, “tôi” say sưa kể về làng Ku-ku-rêu, về hai cây phong với mạch xúc cảm dào dạt. Từ đoạn “Vào năm học cuối cùng…” đến “… sau chân trời xa thẳm biêng biếc kia”, người kể lại xưng “chúng tôi”. Trước đó, là xưng “tôi” (lưu ý ở đầu bài văn có hai lần “chúng tôi” xuất hiện nhưng nó nằm trong cụm làng Ku-ku-rêu chúng tôi chứ không phải là ngôi xưng để kể). Đến cuối văn bản, người kể trở lại với hình thức nhân xưng “tôi”. Thực chất, đứng ở góc độ kể thì “chúng tôi” cũng từ “tôi” mà ra. Khi hồi nhớ về kỉ niệm cùng “bọn con trai” ngày ấy, người kể xưng “chúng tôi” nghĩa là nhân danh cho cả những đứa trẻ cùng trang lứa. Dù thế thì xúc cảm cụ thể, cái nhìn cụ thể vẫn thuộc về “tôi” – Cũng có thể nói đến sự lồng ghép của hai mạch kể (“tôi” và “chúng tôi”). Mạch kể “chúng tôi” được lồng vào giữa, nằm trong sự chi phối của mạch kể “tôi”. Chúng ta được chiêm ngưỡng một bức tranh tuyệt đẹp, ở đó hình ảnh hai cây phong được đặt trong nền cảnh làng Ku-ku-rêu với không gian bao la của cao nguyên, thung lũng, đồng cỏ…

d) Bằng con mắt của một hoạ sĩ thực thụ và mối giao cảm tinh tế, người kể chuyện đã phác hoạ thật tài tình vẻ đẹp, thần sắc của hai cây phong: “rì rào”, “thì thầm”, “im bặt”, “thở dài”, “reo vù vù”, “tim đập rộn ràng”, “vẻ thảng thốt”, “vui sướng”, “xào xạc”… Tất cả những từ ngữ ấy khiến hình ảnh hai cây phong trở nên “sinh động khác thường”.

II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG 1. Tóm tắt:

Đoạn trích thể hiện tình yêu quê hương đất nước thông qua những cảm xúc bồi hồi của người kể về hai cây phong từng gắn bó với tuổi học trò trong kí ức và trong hiện tại.

2. Cách đọc:

Khi đọc bài văn cần chú ý giọng đọc bồi hồi xúc động.

Về ngôi kể: cần phân biệt nhân vật người kể chuyện khi thì xưng “tôi” (tự giới thiệu mình là hoạ sĩ), khi thì xưng “chúng tôi” (vẫn là người kể chuyện đó, nhưng lại kể nhân danh là một đứa trẻ trong số bọn con trai ngày trước).