Soạn Văn 8 Bài Xưng Hô Trong Hội Thoại / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Soạn Văn Bài: Xưng Hô Trong Hội Thoại

Soạn văn bài: Xưng hô trong hội thoại

I. Từ ngữ xưng hô và việc sử dụng từ ngữ xưng hô

Câu 1. Một số từ ngữ thường dùng để xưng hô trong tiếng Việt: tôi – chúng tôi; bạn – các bạn; nó – chúng nó (họ); ta – chúng ta; anh, bác, ông – các anh, các bác, các ông; tao – chúng tao; mày – chúng mày; anh ấy, chị ấy, …

Câu 2. Xác định từ ngữ xưng hô trong hai đoạn trích sau:

a.

– Dế Mèn – nhân vật kể chuyện xưng “tôi”

– Dế Mèn xưng hô với Dế Choắt: ta – chú mày trong đoạn trích (1), tôi – anh trong đoạn trích (2).

– Dế Choắt xưng hô với Dế Mèn: em – anh trong đoạn trích (1), tôi – anh trong đoạn trích (2).

b. Trong đoạn trích thứ nhất, sự xưng hô của hai nhân vật rất khác nhau, đó là sự xưng hô bất bình đẳng của một kẻ ở vị thế yếu và một kẻ ở vị thế mạnh kiêu căng, hách dịch. Nhưng trong đoạn trích thứ hai, sự xưng hô thay đổi hẳn, đó là sự xưng hô bình đẳng.

Có sự thay đổi đó vì tình huống giao tiếp thay đổi, vị thế của hai nhân vật thay đổi. Dế Choắt và Dế Mèn đã coi nhau như người bạn. Dế Choắt khuyên nhủ bản chân thành. Dế Mèn xúc động, thấm thía, cảm phục bạn.

II. Luyện tập

Câu 1. Cần phân biệt các phương tiện từ ngữ chỉ ngôi:

chúng ta: gồm cả người nói và người nghe

chúng tôi/chúng em: không gồm người nghe

chúng mình: có thể gồm người nghe hoặc không

Cô học viên đã dùng từ xưng hô chúng ta nhầm lẫn – dễ gây hiểu lầm: mai cô và giáo sư sẽ làm lễ thành hôn.

Cần thay từ chúng ta bằng từ: chúng em hoặc chúng tôi.

Câu 2. Trong các văn bản khoa học, mặc dù có khi tác giả của văn bản chỉ gồm 1 người nhưng người ta vẫn xưng là chúng tôi. Việc dùng chúng tôi trong những trường hợp này là có dụng ý làm tăng tính khách quan trong ngôn ngữ khoa học và thể hiện sự khiêm tốn của tác giả. Cũng có khi tác giả của văn bản khoa học xưng tôi, khi đó người viết (nói) muốn nhấn mạnh quan điểm riêng của mình trước một vấn đề nào đó hoặc có ý bộc lộ tính chủ quan của ý kiến.

Câu 3. Trong truyện Thánh Gióng, đứa bé gọi mẹ mình theo cách gọi thông thường.Nhưng cách xưng hô với sứ giả thì dùng: ta – ông. Cách xưng hô như vậy cho thấy Thánh Gióng là một đứa bé kì lạ, khác thường.

Mặt khác, điều đó báo trước, đối với người mẹ, Gióng chỉ là một đứa trẻ, nhưng đối với quốc gia, xã hội, Gióng sẽ là một người anh hùng.

Câu 4. Câu chuyện về một vi danh tướng trên đường đi kinh lí, ghé vào thăm trường cũ. Vị tướng, tuy đã trở thành một nhân vật nổi tiếng, có quyền cao chức trọng, nhưng khi gặp lại thầy giáo cũ, vẫn gọi thầy cũ của mình là thầy và xưng em. Cách xưng hô của vị tướng đối với thầy của mình thể hiện thái độ tôn trọng người đã dạy dỗ mình. Cách xưng hô của người thầy với vị tướng thể hiện sự khiêm tốn, lịch sự và thể hiện sự tôn trọng người đối thoại với mình. Câu chuyện trên khuyên chúng ta phải biết “tôn sư trọng đạo”.

Câu 5. Trước cách mạng tháng tám 1945, đất nước ta còn là một nước phong kiến, người đứng đầu nhà nước là vua, xưng với dân chúng là “Trẫm”. Việc Bác, người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, xưng “tôi” và gọi dân chúng là “đồng bào” tạo cho người nghe cảm giác gần gũi, thân thiết, tạo sự thân mật giữa người nói với người nghe.

Câu 6. Cách xưng hộ trong đoạn văn thứ nhất thể hiện rõ sự cách biệt về địa vị và hoàn cảnh giữa các nhân vật. Chị Dậu, người dân thấp cổ bé họng, lại đang thiếu sưu nên phải hạ mình, nhịn nhục: xưng hô cháu, nhà cháu – ông; cai lệ, người nhà lí trưởng trái lại cậy quyền, cậy thế nên hống hách: xưng hô ông – thằng kia, mày.

Sang đoạn sau, cách xưng hô thay đổi. Chị Dậu chuyển sang tôi – ông rồi sang bà – mày. Đó là hành vi thể hiện sự “tức nước – vỡ bờ”, sự tự vệ cần thiết để bảo vệ chồng của chị.

Soạn Bài Xưng Hô Trong Hội Thoại

Soạn bài Xưng hô trong hội thoại

I. Từ ngữ xưng hô và việc sử dụng từ ngữ xưng hô

Câu 1. Một số từ ngữ thường dùng để xưng hô trong tiếng Việt: tôi – chúng tôi; bạn – các bạn; nó – chúng nó (họ); ta – chúng ta; anh, bác, ông – các anh, các bác, các ông; tao – chúng tao; mày – chúng mày; anh ấy, chị ấy, …

– Tao – chúng tao, mày – chúng mày, anh ấy, chị ấy…

Câu 2.

a, Dế Mèn- nhân vật kể chuyện xưng “tôi”

– Dế Mèn xưng hô với Dế Choắt: ban đầu là anh- chú mày, về sau là tôi – anh

– Dế Choắt xưng hô với Dế Mèn: ban đầu là em – anh , về sau tôi – anh

Trong đoạn (1), hai nhân vật rất khác nhau, xưng hô hô vị thế kẻ mạnh, kiêu căng, hách dịch với kẻ yếu

– Đoạn (2) có sự thay đổi tình huống, vị thế giao tiếp. Dế Choắt – Dế mèn xưng hô bình đẳng như những người bạn

II. Luyện tập Bài 1 (trang 39 sgk ngữ văn 9 tập 1)

– Chúng ta: người nói với người nghe

– Chúng tôi/ chúng em: không gồm người nghe

– Chúng mình: có thể gồm người nghe hoặc không

– Cô học viên nhầm từ xưng hô “chúng ta”, dễ dẫn tới hiểu lầm: cô và giáo sư sẽ làm lễ thành hôn

– Cần thay từ chúng ta bằng từ: chúng em hoặc chúng tôi

Bài 2 (trang 40 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Trong văn bản khoa học, mặc dù tác giả văn bản chỉ gồm 1 người nhưng người ta vẫn xưng là chúng tôi

Việc dùng “chúng tôi” dụng ý làm tăng tính khách quan ngôn ngữ khoa học, thể hiện sự khiêm tốn của tác giả

– Khi tác giả văn bản khoa học xưng tôi, tác giả muốn nhấn mạnh quan điểm cá nhân của mình trước vấn đề nào đó.

Bài 3 (trang 40 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Truyện Thánh Gióng, đứa bé gọi mẹ mình theo cách gọi thông thường

– Cách xưng hô giữa Gióng với sứ giả: ta – ông

– Cho thấy Thánh Gióng là một đứa bé kì lạ, khác thường, chững chạc

→ Đối với mẹ, Gióng là đứa trẻ, đối với quốc gia, Gióng là người hùng

Bài 4 (Trang 40 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Câu chuyện kể về vị danh tướng, dù đã là nhân vật nổi tiếng, có quyền có chức trọng nhưng khi gặp thầy cũ xưng hô: em – thầy

– Cách xưng hô thể hiện thái độ tôn trọng, sự khiêm tốn, lịch sự với người thầy của mình

→ Câu chuyện giáo dục về tinh thần “tôn sư trọng đạo”

Bài 5 (Trang 40 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Trước Cách mạng tháng tám 1945, đất nước phong kiến, người đứng đầu nhà nước xưng “trẫm” với bề tôi, kẻ dưới

Việc Bác, chủ tịch nước, người đứng đầu nước Việt Nam mới xưng “tôi” gọi nhân dân là “đồng bào”

→ Người nghe cảm giác gần gũi người nói với người nghe

Bài 6 (trang 41 sgk ngữ văn 9 tập 1)

– Cách xưng hô trong đoạn văn thứ nhất thể hiện rõ cách biệt về địa vị, hoàn cảnh giữa

+ Chị Dậu: người dân thấp cổ bé họng, thiếu sưu nên phải hạ mình, nhịn nhục: xưng hô cháu, nhà cháu – ông

+ Cai lệ, người nhà lí trưởng trái lại cậy quyền thế nên hống hách, xưng hô ông – thằng kia, mày

Cuối cùng khi bị o ép, dồn đến đường cùng chị Dậu chuyển sang xưng tôi – ông, rồi bà – mày

→ Cách xưng hô thể hiện sự “tức nước- vỡ bờ”, sự tự vệ cần thiết để bảo vệ chồng của chị

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k6: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Soạn Bài Lớp 9: Xưng Hô Trong Hội Thoại

Soạn bài lớp 9: Xưng hô trong hội thoại

Xưng hô trong hội thoại

Gợi ý: Thường ngày em vẫn dùng những từ ngữ nào để xưng hô (xưng mình và gọi người khác)? Ví dụ: tôi – chúng tôi; bạn – các bạn; nó – chúng nó (họ); ta – chúng ta; anh, bác, ông – các anh, các bác, các ông; tao – chúng tao; mày – chúng mày; anh ấy, chị ấy,…

b) Xác định từ ngữ xưng hô trong hai đoạn trích sau:

(1) Dế Choắt nhìn tôi mà rằng: – Anh đã nghĩ thương em như thế thì hay là anh đào giúp cho em một cái ngách sang bên nhà anh, phòng khi tắt lửa tối đèn có đứa nào đến bắt nạt thì em chạy sang… Chưa nghe hết câu, tôi đã hếch răng lên, xì một hơi rõ dài. Rồi, với bộ điệu khinh khỉnh, tôi mắng: – Hức! Thông ngách sang nhà ta? Dễ nghe nhỉ! Chú mày hôi như cú mèo thế này, ta nào chịu được. Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi. Đào tổ nông thì cho chết! Tôi về, không chút bân tâm. (2) Choắt không dậy được nữa, nằm thoi thóp. Thấy thế, tôi hốt hoảng quỳ xuống, nâng đầu Choắt lên mà than rằng: – Nào tôi đâu biết cơ sự lại ra nông nỗi này! Tôi hối lắm! Tôi hói hận lắm. Anh mà chết là chỉ tại cái tội ngông cuồng dại dột của tôi. Tôi biết làm thế nào bây giờ? Tôi không ngờ Dế Choắt nói với tôi một câu thế này: – Thôi, tôi ốm yếu quá rồi, chết cũng được. Nhưng trước khi nhắm mắt, tôi khuyên anh: ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi cũng mang vạ vào mình đấy.

( Tô Hoài, Dế Mèn phiêu lưu kí)

Gợi ý:

Dế Mèn (nhân vật kể chuyện) tự xưng là gì?

Dế Choắt xưng hô thế nào với Dế Mèn?

Dế Mèn xưng hô thế nào với Dế Choắt?

Dế Mèn – nhân vật kể chuyện xưng “tôi”; Dế Mèn xưng hô với Dế Choắt: ta – chú mày trong đoạn trích (1), tôi – anh trong đoạn trích (2). Dế Choắt xưng hô với Dế Mèn: em – anh trong đoạn trích (1), tôi – anh trong đoạn trích (2).

c) So sánh cách xưng hô giữa hai nhân vật Dế Mèn – Dế Choắt trong hai đoạn trích. Sự thay đổi cách xưng hô giữa hai nhân vật trong hai đoạn trích trên có ý nghĩa như thế nào?

Gợi ý: Sự thay đổi cách xưng hô giữa hai nhân vật trong hai đoạn trích cho thấy sự thay đổi về vị thế của các nhân vật này trong hai tình huống giao tiếp. Phân tích mối quan hệ giữa hai nhân vật trong hai đoạn trích để thấy được tính chất khác nhau giữa hai tình huống giao tiếp. Giữa hai đoạn trích, trong câu chuyện đã có biến cố gì xảy ra? Biến cố này có ảnh hưởng gì đến sự thay đổi trong cách xưng hô của Dế Mèn và Dế Choắt? Ở đoạn tích thứ nhất, có sự bình đẳng không trong cách xưng hô của hai nhân vật giao tiếp? Tại sao Dế Mèn và Dế Choắt lại thay đổi cách xưng hô với nhau trong đoạn trích thứ hai?

d) Như vậy, trong giao tiếp cần phải lựa chọn từ ngữ xưng hô như thế nào?

Gợi ý: Lưu ý đến tình huống giao tiếp và mối quan hệ giữa người nói với người nghe trong tình huông giao tiếp để lựa chọn từ ngữ xưng hô cho thích hợp.

II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG 1. Một vị giáo sư Việt Nam nhận được một tấm thiếp mời dự đám cưới của một nữ sinh viên người châu Âu đang học tiếng Việt, trên tấm thiếp mời có ghi: Ngày mai, chúng ta làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự.

Các từ ngữ được dùng trong câu trên có đúng không? Người viết đã phạm phải sai lầm gì?

Gợi ý: Cần phân biệt các phương tiện từ ngữ chỉ ngôi:

chúng ta: gồm cả người nói và người nghe;

chúng tôi/chúng em: không gồm người nghe;

chúng mình: có thể gồm người nghe hoặc không.

Việc dùng từ xưng hô chúng ta trong câu trên có thể dẫn đến sự hiểu lầm nào? Cần dùng từ nào để xưng trong tình huống này? Vì sao?

2. Lưu ý về cách dùng từ ngữ xưng hô trong các văn bản khoa học: Trong các văn bản khoa học, mặc dù có khi tác giả của văn bản chỉ gồm 1 người nhưng người ta vẫn xưng là chúng tôi. Việc dùng chúng tôi trong những trường hợp này là có dụng ý làm tăng tính khách quan trong ngôn ngữ khoa học và thể hiện sự khiêm tốn của tác giả. Cũng có khi tác giả của văn bản khoa học xưng tôi, khi đó người viết (nói) muốn nhấn mạnh quan điểm riêng của mình trước một vấn đề nào đó hoặc có ý bộc lộ tính chủ quan của ý kiến.

3. Đọc đoạn trích sau và nhận xét về cách xưng hô của cậu bé Gióng với mẹ và với sứ giả: Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”.

( Thánh Gióng)

Điều gì được thể hiện trong cách xưng hô ấy?

4. Đọc câu chuyện sau và trả lời câu hỏi:

Chuyện kể rằng có một danh tướng trên đường kinh lí, một hôm đi ngang qua trường học cũ của mình, ông ghé vào thì gặp lại người thầy từng dạy ông ở lớp 1. Ông kính cẩn thưa: – Thưa thầy, thầy còn nhớ em không? Em là… Người thầy giáo già hoảng hốt: – Thưa ngài, ngài là… – Thưa thầy, với thầy, em vẫn là đứa học trò cũ. Em có được những thành công hôm nay là nhờ sự giáo dục của thầy ngày nào…

Cách xưng hô của danh tướng với người thầy như thế nào? Cách xưng hô của người thầy với học trò cũ của mình có gì khác thường không? Tại sao lại như vậy?

Gợi ý: Cách xưng hô của vị tướng đối với thầy của mình thể hiện thái độ tôn trọng người đã dạy dỗ mình. Cách xưng hô của người thầy với vị tướng thể hiện sự khiêm tốn, lịch sự và thể hiện sự tôn trọng người đối thoại với mình. Câu chuyện trên khuyên chúng ta phải biết “tôn sư trọng đạo”.

5. Đọc đoạn trích sau và cho biết Bác đã xưng hô với nhân dân như thế nào? Cách xưng hô ấy thể hiện điều gì?

Đọc bản Tuyên ngôn Độc lập đến nửa chừng, Bác dừng lại và bỗng dưng hỏi:

– Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?

Một triệu con người cùng đáp, tiếng dậy vang như sấm:

– Co.o.ó…!

Từ giây phút đó, Bác cùng với cả biển người đã hoà làm một…

(Võ Nguyên Giáp kể, Hữu Mai ghi, Những năm tháng không thể nào quên)

Gợi ý: Tra từ điển Hán Việt để hiểu được nghĩa của từ đồng bào. Việc Bác Hồ, người đứng đầu nhà nước Việt Nam lúc bấy giờ, xưng tôi và gọi nhân dân là đồng bào thể hiện sự gần gũi, gắn bó, bình đẳng trong quan hệ giữa lãnh tụ và nhân dân.

6. Trong đoạn trích sau, những từ ngữ nào được dùng để xưng hô? Gõ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái cũ: – Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau! Hoảng quá, anh Dậu vội để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó, không nói được câu gì. Người nhà lí trưởng cười một cách mỉa mai: – Anh ta lại sắp phải gió như đêm qua đấy! Rồi hắn chỉ luôn vào mặt chị Dậu: – Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Đấy! Chị hãy nói với ông cai, để ông ấy ra đình kêu với quan cho! Chứ ông lí với tôi thì không có quyền dám cho chị khất một giờ nào nữa! Chị Dậu run run: – Nhà cháu đã túng lại đóng cả suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất… Cai lệ không để cho chị được nói hết câu, trợn ngược hai mắt, hắn quát: – Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất! Chị Dậu vẫn thiết tha: – Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông có chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại! Cai lệ vẫn giọng hầm hè: – Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à! Rồi hắn quay ra bảo anh người nhà lí trưởng: – Không hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia! Người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng, ngơ ngác, muốn nói mà không dám nói. Đùng đùng, cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu: Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn: – Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho! – Tha này! Tha này! Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu. Hình như tức quá không thể chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại: – Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! Cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu. Chị Dậu nghiến hai hàm răng: – Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!

(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)

Gợi ý: Chú ý các từ ngữ in đậm.

“Thoạt đầu chị xưng cháu gọi cai lệ bằng ông. Nhưng đáp lại những lời lẽ thấu tình đạt lí của chị là: Mày định nói cho cha mày nghe đấy à?”, rồi: “Ông sẽ dỡ cả nhà mày đi”, chưa hết: “Đùng đùng, cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu”. Đến lúc này, chị Dậu vẫn một mực tha thiết: “Cháu van ông,… ông tha cho!”. Đến mức như thế nhưng cai lệ không những không mủi lòng mà còn đấm vào ngực chị Dậu mấy đấm. Đến đây, bắt đầu thấy những dấu hiệu của sự phản kháng: chị xưng tôi, gọi cai lệ là ông. Không thể chịu được nữa, chị Dậu đã đứng lên, với vị thế của kẻ ngang hàng, trực diện với kẻ thù.

Quá trình diễn biến ấy được đẩy lên đỉnh điểm, kịch tính đã hết mức căng thẳng khi tên cai lệ tát “đánh bốp” vào mặt chị Dậu. Thế là thực sự bắt đầu một giai đoạn mới của sự phản kháng, chị xưng bà gọi mày với tên cai lệ. Từ cháu – ông đến tôi – ông và đến đây là bà – mày, niềm căm phẫn đang bốc lên ngùn ngụt trong người phụ nữ nông dân ấy.”

(Theo Nguyễn Trọng Hoàn – cb, Rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh lớp 8)

Theo chúng tôi

Soạn Văn 9 Ngắn Nhất Bài: Xưng Hô Trong Hội Thoại

Câu 1: Có lần, một giáo sư Việt Nam nhận được thư mời dự đám cưới của một nữ học viên người châu Âu đang học tiếng Việt. Trong thư có dòng chữ:

“Ngày mai, chúng ta làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự”.

Lời mời trên có sự nhầm lẫn trong cách dùng từ như thế nào? Vì sao có sự nhầm lẫn đó?

Câu 2: Trong các văn bản khoa học, nhiều khi tác giả của văn bản chỉ là một người nhưng vẫn xưng chúng tôi chứ không xưng tôi. Giải thích vì sao?

Câu 3: Đọc đoạn trích trong Thánh Gióng. Phân tích từ xưng hô mà cậu bé dùng để nói với mẹ mình và nói với sứ giả. Cách xưng hô như vậy nhằm thể hiện điều gì?

Câu 4: Phân tích cách dùng từ xưng hô và thái độ của người nói trong câu chuyện

Chuyện kể, một danh tướng có lần đi ngang qua trường học cũ của mình, liền ghé vào thăm. Ông gặp lại người thầy từng dạy mình hồi nhỏ và kính cẩn thưa:

– Thưa thầy, thầy còn nhớ con không? Con là…

Người thầy giáo già hoảng hốt:

– Thưa ngài, ngài là…

– Thưa thầy, với thầy, con vẫn là đứa học trò cũ. Con có được những thành công hôm nay là nhờ sự giáo dục của thầy ngày nào…

Câu 5: Đọc đoạn trích từ Những năm tháng không thể nào quên (Võ Nguyên Giáp kể). Phân tích tác động của việc dùng từ xưng hô trong câu nói của Bác. (Chú ý so sánh: Trước năm 1945, người đứng đầu nhà nước có xưng hô với người dân của mình như vậy không?)

Câu 6: Đọc đoạn trích Tức nước vỡ bờ, chú ý những từ ngữ in đậm.

Gõ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái cũ:

– Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!

Hoảng quá, anh Dậu vội để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó, không nói được câu gì. Người nhà lí trưởng cười một cách mỉa mai:

– Anh ta lại sắp phải gió như đêm qua đấy!

Rồi hắn chỉ luôn vào mặt chị Dậu:

– Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Đấy! Chị hãy nói với ông cai, để ông ấy ra đình kêu với con cho! Chứ ông lí tôi thì không cso quyền dám cho chị khất thêm một giờ nào nữa.

Chị Dậu run run:

– Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất…

Cai lệ không để cho chị được nói hết câu, trợn ngược hai mắt, hắn quát:

– Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất?

Chị Dậu vẫn thiết tha:

– Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông có chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!

Cai lệ giọng vẫn hầm hè:

– Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à!

Rồi hắn quay ra bảo anh người nhà lí trưởng:

– Không hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia!

Người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng, ngơ ngác, muốn nói mà không dám nói. Đùng đùng, cai lệ giật phắ cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu.

Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn:

– Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!

– Tha này! Tha này!

Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu.

Hình như tức quá không thể chịu được nữa, chị Dậu liều mạng cự lại:

– Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!

Cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi cứ nhảy vào cạnh anh Dậu.

Chị Dậu nghiến hai hàm răng:

– Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!

(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)

Các từ ngữ xưng hô trong đoạn trích trên được ai dùng và dùng với ai? Phân tích vị thế xã hội, thái độ, tính cách của từng nhân vật qua cách xưng hô của họ. Nhận xét sự thay dổi cách xưng hô của chị Dậu và giải thích lí do của sự thay đổi đó.

Câu 1: Lời mời dự đám cưới có dòng chữ “Ngày mai, chúng ta làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự” là có sự nhầm lẫn trong cách dùng từ.

Theo cách nói của các ngôn ngữ Ấn – Âu, Cô sinh viên không phân biệt chúng với chúng tôi trong khi người Việt Nam lại có sự phân biệt này.

Câu 2: Trong các văn bản khoa học, nhiều khi tác giả chỉ là một nhưng vẫn xưng chúng tôi vì người viết muốn :

Thể hiện tính khách quan của các luận điểm.

Thể hiện sự khiêm tốn của người viết.

Câu 3: Trong truyện Thánh Gióng, đứa bé gọi mẹ mình theo cách gọi thông thường.

Khi xưng hô với sứ giả thì dùng: ta – ông. Cách xưng hô như vậy cho thấy Thánh Gióng là một đứa bé kì lạ, khác thường.

Câu 4: Phân tích cách dùng từ xưng hô và thái độ của người nói:

Vị tướng tuy đã trở thành một nhân vật nổi tiếng, có quyền cao chức trọng, nhưng khi gặp lại thầy giáo cũ, vẫn gọi thầy cũ của mình là thầy và xưng em.

Câu 5: Trước cách mạng tháng tám 1945, nước ta là một nước phong kiến, nhà vua xưng trẫm với dân chúng để thể hiện sự uy nghi, cách biệt.

Việc Bác Hồ – người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, xưng “tôi” và gọi dân chúng là “đồng bào” tạo cho người nghe cảm giác gần gũi, thân thiết, tạo sự thân mật giữa người nói với người nghe.

Câu 6: Cách xưng hô ở lời nói của cai lệ nói với anh Dậu, chị Dậu: thằng kia, ông, mày, chị…

Chị Dậu (thấp cổ bé họng, lại đang thiếu sư): xưng hô cháu, nhà cháu – ông.

Cai lệ (cậy quyền, cậy thế nên hống hách): xưng hô ông – thằng kia, mày.

Cách xưng hô thay đổi: chuyển sang tôi – ông rồi sang bà – mày. Đó là hành vi thể hiện sự “tức nước – vỡ bờ”, sự tự vệ cần thiết để bảo vệ chồng của chị.

Câu 1: Lời mời dự đám cưới của một nữ học viên người châu Âu có sự nhầm lẫn trong cách dùng từ. Do Cô sinh viên không phân biệt chúng với chúng tôi (theo cách nói Ấn – Âu), Cô sinh viên không phân biệt chúng với chúng tôi.

Câu 2: Trong các văn bản khoa học, nhiều khi tác giả chỉ là một nhưng vẫn xưng chúng tôi vì người viết muốn thể hiện tính khách quan của các luận điểm và sự khiêm tốn của người viết.

Câu 3: Cách xưng hô với xứ giả và mẹ:

Khi xưng hô với mẹ: theo cách thông thường.

Khi xưng hô với sứ giả: ta – ông

Câu 4: Cách xưng hô của người nói (Vị tướng): Gặp thầy giáo cũ xưng em – gọi thầy. Tuy có quyền cao chức trọng, địa vị cao nhưng vẫn không thay đổi cách xưng hô khi gặp thầy cũ. thể hiện sự khiêm tốn, lịch sự và thể hiện sự tôn trọng của vị tướng.

Câu 5: Tác động của việc dùng từ xưng hô trong câu nói của Bác:

Câu 1: Cô sinh viên đã nhầm lẫn trong cách dùng từ khi mời dự đám cưới có dòng chữ “Ngày mai, chúng ta làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự”

Câu 2: Tác giả muốn thể hiện tính khách quan của các luận điểm và thái độ khiêm tốn của tác nên nhiều khi tác giả của văn bản chỉ là một người nhưng vẫn xưng chúng tôi chứ không xưng tôi trong văn bản khoa học.

Câu 5: Cách xưng hô “tôi – đồng bào” của Bác Hồ thể hiện sự gần gũi, thân thiết, coi nhau như ruột thịt của Bác đối với người dân. Còn trước cách mạng tháng tám 1945 nhà vua xưng trẫm với dân chúng thể hiện sự uy nghi, cách biệt.

Câu 6: Phân tích cách xưng hô của Chị Dậu: