Soạn Văn 8 Bài Viết Số 2 Đề 3 / Top 3 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Bài Viết Số 2 Đề 3

[Văn 8] Bài viết số 2 đề 3

Tớ chỉ có đề 2 thui : các bạn xem đỡ , nếu thấy hay thì nhớ thanks : ĐỀ 2 : Dòng sông lớn dần theo năm tháng Người lái đò tuổi bạc thời gian Đưa người khách sang sông Đưa khát vọng vào bờ Nhưng biết bao giờ, Người khách Quay đầu ngó lại ?!

Là người Việt Nam, ai cũng nhớ nằm lòng truyLà người Việt Nam, ai cũng nhớ nằm lòng truyền thống tôn sư trọng đạo mà cha ông ta đã truyền dạy từ bao đời nay. Thầy cô là người chắp cánh cho ước mơ của chúng ta bay cao, bay xa, cho chúng ta hành trang tri thức vào đời và trở thành người hữu ích cho xã hội. Ngày 20 -11, ngày vui của hàng triệu nhà giáo trên đất nước Việt Nam và cũng là ngày để chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người cha, người mẹ thứ hai trong cuộc đời mình. Hôm nay đi học về, em bị mệt, lên giường nằm, trằn trọc mãi mà hôk ngủ đc. Bỗng dưng em nghĩ đến ngày mai- ngày 20/11…và nghĩ về cô Nếucó ai hỏi em người phụ nữ thân nhất của em là ai??? Em sẽ hôk ngần ngại mà nói đó hôk pải mẹ, chỵ gái hay bà em, mà là cô. Người đã luôn bên em trong suốt 2 năm học qua. Cùng em bước đi trong suốt 2 năm học cấp 3.( năm nay nữa là 3). Với em cô vừa là cô vừa là người mẹ thứ 2 của em. Cô còn nhớ hôk cô. Cái hôm trước đại hội chi đoàn lớp ngày, cô đã mắng em vì tội mặc quần bò với cả áo phông cổ rộng( Sai đồng phục) cô bít hôk lúc đó e tức lắm, thậm chí em đã ghét cô. Hum đó cô bảo em đi cùng xe với cô, đến nhà cô Huệ cô nhỷ Thấy cô nói chuyện, em cũng thấy thích thích, rồi dần dần em đã lấy hết can đảm nói chuyện với cô…Thời gian cứ thế trôi đi. Cô đã cùng em bước tiếp trong suốt gần 3 năm. Cô đã dạy cho em thật nhiều…thật nhiều điều. Về học tập cũng như kinh nghiệm sống…để em có thể vững tin bước vào đời. Cô àh! có lẽ em sẽ hôk bao giờ quên được cô_ người mẹ thứ 2 đã dìu dắt em suốt mấy năm qua. Em sẽ nhớ về cô-“cô còi” của e. Năm 11, em thật nghịch pải hôk cô. Giờ nghĩ lại em thấy mình có lỗi với cô quá. Em vẫn còn nhớ như in. Hôm đó, lúc em xuống văn phòng nhận phấn cho lớp, các bạn con trai lớp 11A1 đã dùng con rắn nhựa để trêu em. Mặc dù em rất sợ rắn, nhưng em vẫn cúi xuống và cầm nó về lớp. Ban đầu em chỉ định trêu bạn Vân( vì bạn Vân rất nhát gan) lúc quay về chỗ thấy cô nằm úp mặt xuống bàn. Em đã nãy ra ý định sẽ dọa cô. Em để con rắn lên tay cô. Cô tỉnh dậy vì giật mình mà ngất đi. Em cứ nghĩ cô đùa vẫn cứ đứng cười to ơi là to. Nhưng mãi chẳg thấy cô ngồi dậy. Lúc đó em đã rât sợ. Bạn Ý vội bồng cô chạy xuống văn phòng. Em vừa chạy theo sau vừa khóc. Lúc cô tỉnh em chỉ biết lí nhí nói xin lỗi cô. Các thầy cô khác bảo nếu biết ai làm thỳ sẽ đuổi học. Lúc đó em sợ lắm. Suốt mấy ngày liền em tránh mặt cô. Em sợ cô mắng, em đã nghĩ chắc cô sẽ ghét em lắm. Sẽ cho em 1 con 0 to tướng vào sổ điểm cho đỡ ghét. Nhưng cô đã hôk làm vậy. Cô đã chủ động nói chuyện với em. Kỷ niệm đó em có lẽ em sẽ hôk bao giờ quên. Có lẽ em sẽ hôk bao gi

do toi lam roi ne.

Dàn bài nàk

Việc làm bố mẹ vui thì thiếu cha gì, nhưng ai đâu nhớ

do toi lam roi ne.

ọe đây bài văn mẫu trên mạng mà tui cần 1 bài đúng thực tế và đúng tuổi cơ đây tận lớp 11 ồy

GOOD LUCK

ღ♫ Không ai có thể vượt qua được chính mình Tuy không cao nhưng ai cũng phải ngước nhìn ღ♫

Soạn Văn 8: Viết Bài Tập Làm Văn Số 3: Văn Thuyết Minh

Soạn Văn 8: Viết bài tập làm văn số 3: Văn thuyết minh

Soạn Văn Viết bài tập làm văn số 3: Văn thuyết minh

được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo giúp các bạn học sinh nắm rõ kiến thức từ đó học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 8 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình.

Soạn Văn: Viết bài tập làm văn số 3: Văn thuyết minh Đề 1: Thuyết minh về kính đeo mắt.

Mở bài: Kính đeo mắt là vật dụng quen thuộc trong thời đại ngày nay, cần thiết với nhiều lứa tuổi.

– Cấu tạo của kính: Gọng kính và mắt kính.

+ Gọng kính làm bằng nhựa cao cấp hoặc kim loại, có nhiều hình dạng, màu sắc.

+ Mắt kính làm bằng nhựa hoặc thủy tinh trong suốt.

– Kính đeo mắt có nhiều loại như kính cận, kính viễn, kính thời trang, kính râm,… Không nên sử dụng tùy tiện vì có một số loại kính chỉ dùng trong những trường hợp nhất định, kính cận chỉ người bị cận thị mới đeo,…

– Cách sử dụng và giữ gìn: Sau khi dùng nên lau kính và cho vào hộp tránh trầy xước.

Kết bài: Cần có hiểu biết về kính để sử dụng và giữ gìn kính đúng cách bảo vệ đôi mắt khỏe đẹp.

Đề 2: Thuyết minh về cây bút máy hoặc bút bi.

Mở bài: Nêu khái quát vai trò của bút bi trong học tập và công việc.

– Cấu tạo gồm nhiều bộ phận:

+ Vỏ bút phong phú về chủng loại, kiểu dáng, màu sắc thường làm bằng nhựa hoặc kim loại có công dụng bảo vệ các vật bên trong, để dễ cầm viết và còn thể hiện phong cách của người viết khi lựa chọn cây bút đó.

+ Ngòi bút chứa mực, đầu có một viên bi nhỏ như mũi kim điều hòa lượng mực ra đề mỗi khi viết. Đây cũng là lí do để đặt tên bút bi. Trên thân ngòi bút thường có kèm theo chiếc lò xo để tạo lực đàn hồi khi ấn và bấm bút khi viết.

– Hình dạng chung của bút bi: Thường ở dạng hình trụ dài, hoặc nhiều nhà sản xuất tạo ra nhiều kiểu dáng mập gầy cho cây bút, có khi còn gắn thêm trên đầu bút hình chú thỏ hay con gà dễ thương.

– Công dụng: Rất tiện lợi vì tính viết nhanh gọn, người bạn đồng hành của học sinh, sinh viên, giáo viên và tất cả mọi người.

– Cách bảo quản: Ngòi bút là phần quan trọng nên khi dùng xong nên bấm ngòi thụt vào tránh rơi gây vỡ, gai ngòi bút.

Kết bài: Bút bi mãi là vật dụng cần thiết, gắn bó trong cuộc sống con người.

Đề 3: Giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiến.

Mở bài: Đôi dép lốp trong kháng chiến là vật chứng tiêu biểu cho một quá trình gian khổ của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến.

– Giới thiệu khái quát lịch sử ra đời của đôi dép lốp cao su: Trong cuộc kháng chiến muôn vàn khó khăn, đôi dép cắt từ lốp xe cùng một vài vật dụng khác là trang phục kháng chiến của các anh bộ đội.

– Đặc điểm hình dáng, cấu tạo:

+ Hình dáng giống như đôi dép bình thường có quai dép làm từ săm xe ô tô cũ, hai quai trước bắt chéo, hai quai sau song song, vắt ngang cổ chân.

+ Đế dép làm từ lốp xe ô tô cũ hoặc đúc bằng cao su, đế được đục những cái lỗ để xỏ quai qua.

+ Điểm đặc biệt: Giữa quai và đế không dính băng keo mà cố định nhau bằng sự giãn nở của cao su.

– Dép lốp cao su dễ làm, dễ sử dụng trong mọi địa hình, rất bền.

– Rất dễ bảo quản: Chỉ cần không để ở nơi có nhiệt độ cao.

Kết bài: Dép lốp tuy không còn phổ biến như xưa nhưng đó là một thời kì lịch sử với bao gian khó. Chúng ta sống ở thời bình phải biết trân trọng những giá trị quá khứ.

Đề 4: Giới thiệu về chiếc áo dài Việt Nam.

Mở bài: Chiếc áo dài là biểu tượng cho nét duyên dáng của người phụ nữ Việt.

– Lịch sử ra đời: Đầu thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1739 – 1765). Áo dài thay đổi theo từng thời gian và giai đoạn lịch sử khác nhau.

– Cấu tạo:

+ Cổ áo cao 4 – 5cm, khoét hình chữ V trước cổ, ngày nay được biến tấu đa dạng.

+ Thân áo từ cổ xuống phần eo, được may vừa vặn, ôm sát, phần eo được chít ben (hai ben ở thân sau và hai ben ở thân trước). Cúc áo thường là cúc bấm từ cổ áo qua vai xuống đến eo.

+ Từ eo xẻ làm hai tà: Tà trước và tà sau đều dài quá gối.

+ Tay áo may sát cánh tay, dài đến qua cổ tay.

+ Quần mặc trong hai tà xẻ là quần ống rộng, may chấm gót chân, vải mềm, rũ.

– Chất liệu và màu sắc: Vải mềm, có độ rũ cao như lụa, voan, nhung,… màu sắc cũng đa dạng phong phú, tùy thuộc tuổi tác người mặc.

– Công dụng: Trang phục lễ hội truyền thống, trang phục của các ngành nghề như tiếp viên hàng không, học sinh, giáo viên, …

– Bảo quản: Mặc xong nên giặt phơi nhẹ nhàng, tránh bạc màu, không vứt bừa tránh nhàu xấu. Nên treo trên mắc áo để giữ dáng áo.

Kết bài: Chiếc áo dài là trang phục truyền thống không bị lu mờ thời buổi hiện đại, được thiết kế cách tân với nhiều kiểu dáng mẫu hiện đại.

Bài Viết Số 3 Lớp 8

Bài viết số 3 lớp 8

Bài viết số 3 đề 1: Thuyết minh về chiếc áo dài

Bài làm

Áo dài là tượng trưng cho tâm hồn Việt, nó mang đến vẻ đẹp yêu kiều và tôn lên vóc dáng của người con gái Việt làm rung động biết bao trái tim của thi sĩ xưa nay. Trải qua nhiều năm tháng chiếc áo dài cũng đã có nhiều biến đổi theo thời gian nhưng dù có thay đổi thế nào thì nó vẫn đồng hành cùng người phụ nữ Viêt Nam. Nếu phụ nữ Nhật tự hào với Kimono, phụ nữ Hàn Quốc nổi tiếng với Hanbok, phụ nữ Ấn Độ để lại cho ta ấn tượng rất đặc biệt với bộ Sari. Còn phụ nữ Việt Nam, từ xưa đến nay vẫn mãi song hành với chiếc áo dài duyên dáng và thướt tha.

Áo dài có rất nhiều loại. Nhưng sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giai lãnh: cũng giống như áo tứ thân nhưng khi,mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Vì sau này, phụ nữ phải làm việc đồng áng hay buôn bán nên áo giai lãnh được thu gọn lại thành áo tứ thân: gồm bốn vạt nửa trước phải, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái. Nhưng với những người phụ nữ tỉnh thành nhàn nhạ, muốn có một kiểu áo dài dược cách tân thế nào đó dể giảm chế nét dân dã lao động và tăng dáng dấp sang trọng, khuê các. Thế là áo tứ thân được biến cải ở chỗ vạt nửa trước phải nay lại được thu bé trở lai thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước trở thành áo ngũ thân.

Ngoài ra còn áo dài Le Mor của một họa sĩ vào đầu thập niên 1930, áo dài Lê Phổ của họa sĩ Lê Phổ được thiết kế vào năm 1934, áo dài với tay giác lăng vào thập niên 1960, áo dài miniraglan danh cho các nữ sinh…

Khác với Kimono của Nhật Bản hay Hanbok của Hàn Quốc, chiếc áo dài Việt Nam vừa truyền thống lại vừa hiện đại, có thể mặc ở mọi lúc mọi nơi: dùng làm trang phục công sở, đồng phục đi học, mặc để tiếp khách trang trọng trong nhà… Việc mặc loại trang phục này không hề rườm rà hay cầu kì, những thứ mặc kèm đơn giản: mặc với một quần lụa hay vải mềm, dưới chân đi hài guốc, hay giày đều được; nếu cần trang trọng (như trang phục cô dâu) thì thêm ái dài và chiếc khăn đóng truyền thống đội đầu, hay một chiếc miện Tây tùy thích. Đây chính là điểm đặc biệt của thứ trang phục truyền thống này.

Áo dài có thể nhiều màu nhưng có lẽ đẹp nhất vẫn là chiếc áo dài trắng thể hiện sự thuần khiết của người phụ nữ Việt Nam. Trong trường học, không gì đẹp mắt và thanh bình cho bằng mỗi sáng, từng nhóm nữ sinh trong bộ áo dài, thướt tha, xõa tóc dài chạy xe đạp đến trường. Cũng nơi đó, những cô giáo, những người mẹ thứ hai của các học sinh nhẹ nhàng đón rón những đứa con của mình trước giờ vào học trong chiếc áo dài mới thực sự toát lên vẻ đằm thắm, và thương yêu. Trong những dịp lễ Tết, chiếc áo dài lại thêm một lần nữa thấp thoáng trên các ngã tư đường phố, cùng hoa va cảnh sắc của trời mới đất mới, khoe sắc ngày Tết. Áo dài giũa phố đông chật chội người và xe, ấm ào náo động, làm dịu lại cảnh sắc và làm mát lại những hồn người, làm cho ai đó phải quay lại ngắm nhìn dù chỉ một lần, dịu đi cái khó chịu và u uất vốn có trong bản tính mỗi con người bân rộn.

Chiếc áo dài hình như có cách riêng để tôn lên nét đẹp của mọi thân hình. Phần trên ôm sát thân nhưng hai vạt buông thật rộng trên đôi ống quần rộng. Hai tà xẻ đến trên vòng eo khiến cho người mặc có cảm giác thoải mái, lại tạo dáng thướt tha tôn lên vẻ nữ tính, vừa kín kẽ vì toàn thân được bao bọc bằng vài lụa mềm lại cũng vừa khiêu gợi vì nó làm lộ ra sống eo. Chính vì thế, chiếc áo dài mang tính cá nhân hóa rất cao, mỗi chiếc chỉ may riêng cho một người và chỉ dành cho ngươi ấy, không thể là một công nghệ “sản xuất đại trà” cho chiếc áo dài. Người đi may được lấy số đo rất kĩ, khi may xong phải thử và chỉnh sửa lại thêm vài lần nữa thì mới hoàn thiện được.

Thực vậy, trong các hội nghị quốc tế, ở hội thảo khoa học nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nữ học giả Mỹ đã vận một chiếc áo dài, và mở đầu bài phát biểu của mình bằng một câu tiếng Việt: “Xin chào các bạn”, cả hội trường Ba Đỉnh trang trọng khi đó bỗng tràn ngập một không khí thân thương trìu mến. Trong hội nghị cấp cao APEC lần thứ 14 ở Việt Nam, áo dài đã được vinh dự là trang phục chính cho các vị lãnh đạo nguyên thủ quốc gia của các nước mặc trong buổi lễ bế mạc kết thúc hội nghị. Áo dài, như vậy có thể là đại sứ tinh thần của văn hóa Việt, mang nước Việt Nam cùng hòa chung vào dòng kinh tế năng động và nhiệt huyết trên thương trường thế giới, là một nét riêng của người phụ nữ Việt nói riêng và cả dân tộc Việt nói chung.

Áo dài là hiện thân của dân tộc Việt, một vẻ đẹp mĩ miều nhưng đằm thắm, là một phần tất yếu trong mỗi phụ nữ Việt, là đặc trưng cho một quốc gia có người phụ nữ chịu thương chịu khó, luôn hy sinh, đứng phía sau để cổ động tinh thần cho nước nhà, cùng nhau hòa nhịp và phát triển. Trải qua từng thời kì, từng giai đoạn cùng với những diễn biến của quà trình lịch sử Việt Nam, tà áo dài Việt Nam luôn tồn tại theo dòng thời gian, vẫn mãi sẽ là tâm hồn Việt, văn hóa Việt, là tinh thần Việt và là trang phục truyền thống mang đậm tính lịch sử lâu đời của nước Việt ngàn năm văn hiến.

Kín đáo, duyên dáng và gợi cảm là một trong những yếu tố đưa áo dài trở thành niềm kiêu hãnh của người Việt. Không chỉ là cái áo nữa – chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của trang phục phụ nữ Việt, tạo thành sản phẩm văn hoá vật thể truyền thống không thể thiếu cho vẻ duyên dáng của người phụ nữ Việt.Bài viết số 3 đề 3: Thuyết minh về cây bút máy Bài làm Từ thuở xa xưa, Khi sáng tạo ra được những ký tự, con người đã luôn khao khát lưu lại bằng văn bản những cuộc phiêu lưu như là một bằng chứng thể hiện khả năng chinh phục thiên nhiên, cuộc sống để lại cho thế hệ sau. Để làm được điều đó, người ta cần hai thứ: dụng cụ để viết và vật để lưu những ký tự đó. Người Xume là những người đầu tiên ghi lại lịch sử trên những phiến đất sét. Cách thức này được gọi là “chữ hình nêm” (tức chữ Ba Tư cổ), có từ khỏang 3.000 năm trước.

Bút và giấy đầu tiên được ra đời trong nền văn minh Ai Cập cổ. Những người chép sử đã sử dụng cây sậy với đuôi được nhai nát để chấm lên chất màu. Sau đó, họ vẽ những chữ tượng hình lên tường hoặc giấy cói. Dần dần, cùng với sự phát triển của chất màu, những cây sậy được “lên đời” thành dụng cụ sắc nhọn với đường rãnh ở cuối, dọn đường cho việc ra đời bút lông chim.

Trong thế kỷ 16, bút làm bằng lông cánh chim thiên nga trở thành dụng cụ viết số một với những ưu điểm là đầu dễ vót nhọn, dễ uốn hơn và ít gãy hơn dưới lực ép từ bàn tay nhằm tạo ra những nét thanh, nét đậm. Ống lông có thể lưu trữ mực đủ để viết nhiều dòng.

Đến giữa thế kỷ 19, kim loại được sử dụng để chế tạo đầu bút vì dễ làm được chuẩn xác mà lại bền. Thế nhưng, người viết vẫn phải chấm bút vào lọ mực nên mỗi khi di chuyển thì rất phiền phức.

Năm 1884, anh nhân viên môi giới bảo hiểm Lewis Waterman phát chán với những bất tiện trên đã tiến hành một cuộc cách mạng trong thế giới bút. Waterman phát hiện ra rằng lực hút mao dẫn có mối liên hệ động lực với áp suất khí quyển. Waterman tạo ra hai hoặc ba rãnh để không khí và mực đồng thời vận động. Không khí sẽ thế chỗ của phần mực đã sử dụng. Và cuộc cách mạng bắt đầu.

Bút máy gồm có ba phần nắp bút được làm bằng nhôm, có khi được mạ đồng. Thân bút có thể chia thành ba phần: bình mực dự trữ, ống dẫn và ngòi bút. Trong đa số bút máy hiện đại, phần này dự trữ mực theo hai cách. Một cách đơn giản là đổ mực vào bình. Cách thứ hai sử dụng hệ thống pistol. Ống dẫn đưa mực xuống ngòi bút bằng một loạt các rãnh.

Bút máy tạo nên những nét đậm nhạt khác nhau tùy thuộc vào lực tay người viết, góc độ của bút với mặt giấy và độ quay của đầu ngòi bút. Hiệu quả là những nét tao nhã được tạo nên và hình thành cả nghệ thuật viết chữ đẹp.

Những kim loại quý đóng vai trò quan trọng trong việc chế tạo ngòi bút, giúp ngòi bút có độ bền và viết đẹp hơn. Thường thì người ta dùng ngòi bút bằng thép không rỉ hoặc mạ vàng. Ở dạng nguyên chất, vàng không đáp ứng được những tiêu chuẩn đàn hồi nên dùng vàng pha là tốt nhất. Loại vàng hay được sử dụng để chế tạo ngòi bút là vàng mười bốn nghìn và vàng mười tám.

Đầu ngòi bút không thể làm bằng vàng vì sẽ nhanh mòn trong thời gian ngắn. người ta chọn một chất liệu rắn, thường là Iridium hoặc Rhodium. Nhờ đó, người dùng có thể viết cả đời mà đầu bút vẫn nguyên vẹn.

Thân bút thường làm bằng những chất liệu bền để nâng tuổi thọ cho cây bút. Những cây bút máy đời đầu có vỏ bằng cao su đã qua xử lý lưu huỳnh rất chắc chắn.

Ngày nay, các nhà sản xuất sử dụng những chất liệu hiện đại hơn. Ở Italia, người ta dùng Celluloid cho những cây bút đắt tiền. Loại chất liệu này có khả năng chống va đập rất tốt và có thể tạo nên vẻ tao nhã, lịch lãm. Những cây bút làm bằng celluloid lúc mới dùng có mùi long não do có chất này trong quá trình nitơ hóa celluloid. Axetat hay nhựa tổng hợp cũng là các chất liệu quen thuộc đáp ứng được yêu cầu về độ bền.

Loại bút vừa túi tiền thường có thân được làm bằng đồng thau phủ sơn, giúp cây bút có độ thăng bằng tốt và có dáng vẻ bắt mắt. Những chất liệu hiện đại giúp tạo nên nhiều màu sắc cho cây bút hơn. Còn với những cây bút cao cấp, thân bút thường được làm bằng bạc, bạc mạ vàng, vàng hoặc thậm chí cả bạch kim.

Ngày nay đã xuất hiện nhiều loại bút máy của các hãng nổi tiếng. Những cây bút đẹp của hãng Paker. Những nét bút lướt nhẹ nhàng trên giấy tập của hãng Pilot và nhiều hãng khác. Giá thành những cây bút cao cấp này không dưới 100$ một cây. Những cây bút làm bằng vàng hoặc mạ vàng, giá thành không dưới 1000$.

Bút không có thuộc tính chọn chủ như những cây đũa phép trong truyện Hary Potter. Con người chọn nó tùy vào túi tiền, cá tính của họ. Có cây giá bình dân 15.000đ đến 20.000đ… loại được ưa chuộng nhất trên thị trường, cũng có cây lên cả bạc triệu.

Nhìn bút, con người biết được “đẳng cấp” của nhau, nhìn vào nét chữ họ đoán tính cách, đánh giá những gì thành chữ họ rõ trình độ của nhau.

Một cái áo cà sa không làm nên ông thầy tu, một cây bút tốt, đắt đến cỡ nào cũng chỉ là vật để trang trí nếu vào tay kẻ đầu rỗng.

Ngày nay, nhiều loại bút bi đa dạng nhiều kiểu dáng và giá thành rẻ đã ra đời và chiếm lĩng thị trường văn phòng phẩm; đã xuất hiện nhữhng cây bút điện tử thông minh. Liệu cây bút máy còn tồn tại được bao nhiêu lâu nữa?

Nhưng, dù bút hiện đại có đa dạng cỡ nào cũng không thể thay thế được bút máy bởi những nét chữ thanh đậm sống động, có hồn đòi hỏi con người phải gai công rèn luyện.

Cây bút máy dù bị thu hẹp thị trường nhưng giá trị của nó vẫn không thể nào thay đổi với thời gian.

“Dù cho sống thác ai ơi

Bút ta vẫn sống trọn đời tươi vuiBài viết số 3 đề 4: Thuyết minh về cái kéo Bài làm Cái kéo được phát minh ở đâu và bao giờ là chuyện ngày nay vẫn còn gây tranh cãi. Xuất phát điểm cho sự phát triển của cái kéo dường như bắt đầu từ việc dùng đồng thời một cặp dao một lúc. Đó là hai lưỡi dao rời nhau. Trong khi một tay giữ lưỡi dao nằm dưới, tay kia thực hiện động tác cắt. Những di vật thuộc thế kỷ 2 – 3 sau Công nguyên (CN) tìm thấy ở khu vực La Mã- sông Ranh đã chứng minh cho điều đó. Nhưng có thể kéo đã xuất hiện trước đó rất lâu.

Kéo có nhiều loại tùy theo tính chất công việc từng loại kéo mà người ta sáng tạo ra các mẫu kéo phù hợp với công dụng của nó như: kéo chốt đuôi, kéo kẹp, kéo khớp…

Kéo chốt đuôi: Bước phát triển tiếp của kéo là chiếc kéo có chốt ở đuôi. Đó là hai lưỡi kéo mà phần đuôi của chúng được gắn một cái chốt tạo thành khớp nối. Sử dụng chiếc kéo kiểu này trong thực tế khá rắc rối, vì để cắt được cần phải ấn các lưỡi kéo vào nhau, và sau đó phải dùng tay tách chúng ra khỏi nhau.

Kéo kẹp: So với kéo khớp, kéo kẹp với cần kéo hình chữ U nằm ngang có tiến bộ hơn hẳn, vì nó có thể sử dụng được bằng một tay do sức đàn hồi của vật liệu mà cánh kéo có thể tự mở ra. Kép kẹp chỉ xuất hiện khi người ta sản xuất được đồng thau hay hợp kim của sắt có thể rèn được vào khoảng năm 1000 trước CN. Đó là điều kiện để cánh kéo có thể đàn hồi được. Vì độ đàn hồi của đồng thau mau chóng giảm đi, nên kéo kẹp bằng đồng thau ngày một hiếm dần. Người ta đã tìm được kéo kẹp bằng sắt ở Trung Âu được sản xuất vào khoảng năm 500 trước CN. Có những mẫu kéo thời đó có lò xo hình chữ U, để tăng độ căng, người ta dần chuyển cần kéo sang dạng gần tròn. Thời Đường ở Trung Quốc đã có dạng kéo kẹp mà cần kéo có dạng cần bắt chéo lên nhau như hai chữ oo liền nhau. Đến tận thế kỷ 17, kéo kẹp là dạng kép phổ biến nhất ở châu Âu.

Kéo khớp: Dạng kéo khớp được sử dụng ngày nay xuất hiện khoảng năm 300 trước CN. Vì chỉ còn rất ít di vật còn lại nên không thể xác định chính xác năm xuất hiện. Vào thế kỷ 17 và từ đó trở đi những loại kéo chuyên dụng được phát triển: kéo cắt giấy dài và lưỡi mỏng, kéo bản lưỡi rộng để cắt vải và kéo đa năng có lưỡi nhọn dần.

Kéo được cấu tạo bằng hai thanh kim loại được mài sắc tạo thành lưỡi kéo, phần đuôi uốn cong tạo thành tay cầm. Lưỡi kéo có thể được làm bằng sắt hay một hợp chất sắt pha gang, phần tay cầm được bọc bởi một lớp nhựa dẻo hoặc nhựa cứng.

Có thể nói, kéo là một dụng cụ chủ yếu dùng để cắt, tuy nhiên, tùy theo mục đích sử dụng mà kéo cũng có nhiều loại khác nhau như: kéo cắt vải để thợ may tạo nên quần áo đẹp, đa dạng và hợp thời trang; các em bé thì dùng kéo cắt giấy để cắt giấy xếp tàu bay, tên lửa…; thợ hớt tóc không thể tỉa ra các mô-đen nếu không có kéo; kéo cắt tôn cắt sắt; kéo phục vụ cho việc bếp núc để cắt cá, cắt bánh tráng, khô bò…; còn có kéo dùng trong y tế khi phẫu thuật…

Kéo là một vật dụng không thể thiếu trong cuộc sống, tuy nhỏ nhưng kéo thường được sử dụng trong các ngành công nghiệp, nông nghiêp, thủ công nghiệp và sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày. Vì vậy, kéo có rất có ích cho cuộc sống của con người, không có kéo, chúng ta sẽ rất vất vả khi xử lý một việc nào đó mà dùng dao hoặc sức bằng tay của chúng ta không thể làm tốt được.Bài viết số 3 đề 5: Thuyết minh về cái cặp Bài làm Suốt quãng đời cắp sách tới trường, người học sinh luôn bầu bạn với sách, vở, bút, thước,… và coi đó là những vật dụng không thể thiếu được. Trong số những dụng cụ học tập ấy thì vật dụng để đựng các thứ kể trên chính là chiếc cặp – một vật đã gắn bó với tôi nhiều năm và chắc trong tương lai sẽ còn hữu ích với tôi lắm!

Cặp sách được sử dụng nhiều trong quá trình học tập cũng như trong đời sống. Chắc chắn một điều rằng, cặp sách có thể được đưa vào danh sách hàng loạt những phát minh quan trọng của loài người. Việc phát minh ra cặp sách là do người Mỹ nghĩ ra vào năm 1988.

Về cấu tạo, bên ngoài, ta dễ thấy nhất: nắp cặp, quai xách, kẹp nắp cặp, một số cặp có quai đeo, một số khác có bánh xe nhỏ được dùng để kéo trên đường,… Cấu tạo bên trong, có thể có một hoặc nhiều ngăn dùng để đựng tập sách, đồ dùng học tập, áo mưa, có thể có ngăn đựng ví tiền hay cả đồ ăn, nước uống nữa,…

Về quy trình, cho dù quy trình làm ra chiếc cặp như thế nào đi nữa thì nó cũng chỉ có những công đoạn chính gồm: lựa chọn chất liệu, xử lí, khâu may, ghép nối. Chất liệu thì có rất nhiều loại cho phù hợp với yêu cầu của người dùng: vải nỉ, vải bố, da cá sấu, gải da,… Dù làm bằng chất liệu gì thì cặp cũng phải chắc, vì nó phải khiêng vác rất nặng các tập sách. Kèm theo đó, kiểu dáng cặp cũng phải phù hợp, ví dụ như con trai thì thường đeo cặp có quai sang một bên cho có khí phách, năng động. Con gái mặc áo dài thì ôm cặp trước ngực để có vẻ dịu dàng, thùy mị. Con nít thì đeo cặp ra sau lưng để dễ dàng chạy nhảy, vui đùa. Cùng với màu sắc, hiện đang thịnh hành rất nhiều loại cặp với nhiều màu sắc, hình ảnh đa dạng, phong phú, bắt mắt phù hợp cho từng lứa tuổi.

Một số lời khuyên về việc sử dụng cặp cho đúng cách: chiếc cặp khi đeo không nên vượt quá 15% trọng lượng cơ thể của mình. Nên xếp những đồ vật nặng nhất vào phần trong của cặp (phần tiếp giáp với lưng). Xếp sách vở và đồ dùng học tập sao cho chúng không bị xô lệch. Chắc chắn rằng những vật dụng để trong cặp đều càn thiết cho các hoạt động trong ngày. Đối với cặp hai quai, chúng ta không nên đeo lủng lẳng một quai, dễ cong vẹo người. Đối với cặp chỉ có một quai, nên thay đổi vai đeo để tránh cong vẹo người. Khi mua cặp, nên chọn loại quai đeo có độn bông, mút hoặc vải,…

Ngày nay, có rất nhiều nhãn hiệu nổi tiếng như Miti, Samsonite, Tian Ling, Ling Hao,… phổ biến ở khắp mọi nơi như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc,… Nhưng cho dù chúng đẹp đến đâu, bền cỡ nào đi chăng nữa, cũng từ từ theo thời gian mà hỏng dần đi nếu như chúng ta không biết cách bảo quản nó, chẳng hạn như quăng chúng ình ình mỗi khi gặp chuyện bực mình hoặc ham vui mà quăng nó đi. Thế nên, chúng ta không nên quăng cặp bừa bãi, mạnh tay, thường xuyên lau chùi cặp cho sạch sẽ.

Nói tóm lại, cặp sách là một vật dụng rất cần thiết trong việc học tập và cả trong đời sống của chúng ta. Nếu chúng ta sử dụng đúng cách, nó sẽ mang lại cho chúng ta nhiều lợi ích và có thể được coi là người bạn luôn luôn đồng hành với mỗi chúng ta. Đặc biệt là đối với học sinh- chủ nhân tương lai của đất nước.

Nguồn: Vietvanhoctro.com

Thống kê tìm kiếm

Soạn Bài Viết Bài Tập Làm Văn Số 2

Soạn bài Viết bài tập làm văn số 2 – Văn tự sự

A. Đề văn và bài văn mẫu

Đề 1: Tưởng tượng 20 năm sau, vào một ngày hè, em về thăm lại trường cũ. Hãy viết thư cho một bạn học hồi ấy kể lại buổi thăm trường đầy xúc động đó.

I. Dàn ý

Đầu thư : Thời gian, địa điểm viết. Lời chào, giới thiệu bản thân, lí do viết thư.

Nội dung thư :

– Hỏi thăm tình hình bạn trong những năm qua (học tập, cuộc sống, công tác của bạn).

– Giới thiệu hoàn cảnh hiện tại của bản thân (công việc, gia đình)

– Kể lại tình huống về thăm trường : vô tình đi ngang hay có chủ ý, thời gian (mùa hè), có đi cùng ai không?

– Hình ảnh ngôi trường sau 20 năm xa cách có thay đổi nhiều :

+ Con đường đến trường, cổng trường, toàn bộ quang cảnh (sân trường, cây cối, các dãy nhà, lớp học, cơ sở vật chất).

+ Những người thầy, người cô sau 20 năm đã thấy tuổi già hiện trên gương mặt.

+ Hồi tưởng về quá khứ với bạn bè thầy cô.

– Cuộc gặp gỡ người xưa : gặp lại thầy cô, bạn bè, ôn chuyện cũ và bày tỏ cảm nhận khi thấy ngôi trường trở nên khang trang, sạch sẽ hơn.

– Bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ sau buổi thăm trường.

Cuối thư : Lời chào, lời chúc, hứa hẹn và ký tên.

Đề 2: Kể lại một giấc mơ, trong đó em được gặp lại người thân đã xa cách lâu ngày.

I. Dàn ý

Mở bài : Giới thiệu về giấc mơ đó (hoàn cảnh, nội dung).

Thân bài : Kể lại giấc mơ :

– Không gian, thời gian cuộc gặp gỡ trong mơ ấy.

– Nhân vật trong giấc mơ : em là ai, người thân đã xa lâu ngày đó là ai (ông bà,…), người đó xuất hiện trong giấc mơ từ đâu, hình ảnh đầu tiên (dáng người, khuôn mặt thân quen…)

– Cuộc gặp gỡ, câu chuyện (kỉ niệm, những chuyện vui buồn đã qua, điều mơ ước của em chưa kịp làm khi người thân đã đi xa)

Đề 3: Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh.

I. Dàn ý

Mở bài : Giới thiệu chung về trận chiến em muốn kể lại, hoàn cảnh em đã đọc, nghe, xem trận chiến đó.

Thân bài :

– Hoàn cảnh lịch sử diễn ra trận chiến.

– Diễn biến :

+ Không gian, thời gian.

+ Người chỉ huy, lực lượng chiến đấu của hai bên tham chiến.

+ Những binh sách yếu lược được vận dụng thành công trong cuộc chiến.

– Kết quả trận chiến đó : quân nào chiến thắng, những chiến công lẫy lừng nào, có để lại hậu quả, thương vong lớn cho nhân dân.

Kết bài : Cảm nghĩ của bản thân.

Đề 4: Đã có lần em cùng bố, mẹ (hoặc anh, chị) đi thăm mộ người thân trong ngày lễ, tết. Hãy viết bài văn kể về buổi đi thăm đáng nhớ đó.

I. Dàn ý

Mở bài : Giới thiệu không gian, thời gian, sự vật, cảm xúc của em (sáng 30 Tết, em đi lễ tảo mộ cùng gia đình theo phong tục truyền thống).

Thân bài :

– Giải thích khái niệm “tảo mộ” : tảo mộ là thăm viếng, sửa sang và khang trang lại phần mộ tổ tiên, ông bà, người thân trong sáng ngày cuối năm trước khi vào Tết Nguyên đán.

– Việc đi tảo mộ :

+ Công cuộc chuẩn bị, em đi cùng với ai, phương tiện gì.

+ Quang cảnh ngày hôm ấy : khí trời mùa xuân mát mẻ, trong xanh.

+ Đến nghĩa trang : tìm được phần mộ người thân, quét dọn, chuẩn bị đồ lễ (thắp hương, cắm hoa, bày hoa quả…), khấn vái thành tâm.

+ Không khí nghiêm trang.

Kết bài : Cảm nhận của em sau buổi tảo mộ đó (em nhớ những người thân của mình, nghĩ về đời người ngắn ngủi, em hiểu được rằng chúng ta không được quên và tôn trọng những người đã xa chúng ta đến một thế giới khác). Lễ tảo mộ là một phong tục đáng được giữ gìn để nhớ về tổ tiên trong văn hóa Việt.

Đề 3: Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã học, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh.

Đề 4: Đã có một lần em cùng bố, mẹ (hoặc anh, chị) đi thăm mộ người thân trong ngày lễ, tết. Hãy kể lại cuộc thăm viếng đó.

B. Hướng dẫn tìm hiểu đề, lập dàn ý

1. Tìm hiểu đề:

– Xác định yêu cầu của đề bài:

+ Đề bài yêu cầu kể về đối tượng nào?

+ Có cần kết hợp giữa kể với các thao tác khác (miêu tả, biểu cảm,…) không?

– Lập ý: Nhớ lại hoặc tưởng tượng ra câu chuyện (nhân vật, sự việc, diễn biến,…); lựa chọn ngôi kể.

2. Lập dàn ý:

Lập dàn ý cho bài văn tự sự có kết hợp với miêu tả theo bố cục ba phần.

– Mở bài: Giới thiệu về câu chuyện sẽ kể, dẫn dắt để lôi cuốn người đọc.

– Thân bài: Trình bày diễn biến các sự việc.

+ Nhân vật: chỉ có nhân vật người kể chuyện hay còn có những nhân vật khác? Có thể kết hợp giới thiệu nhân vật trong diễn biến sự việc.

+ Sắp xếp trình tự các sự việc theo diễn biến trước – sau hoặc theo trình tự đảo ngược từ hiện tại nhớ về quá khứ.

+ Em dự định sử dụng miêu tả ở những tình tiết nào, để làm gì?

– Kết bài: Kết thúc câu chuyện; nêu suy nghĩ của mình về kết cục câu chuyện hoặc ấn tượng về những gì đã diễn ra trong câu chuyện. Nêu bài học hoặc cảm nhận chung mà câu chuyện đã gợi ra.

3. Viết một số đoạn văn:

– Đoạn tả lại cảm xúc của mình trước khung cảnh ngôi trường cũ; những hình ảnh gắn với kỉ niệm thời đi học.

– Đoạn tả diễn tả tình cảm vui sướng, xúc động của mình khi gặp lại người thân; đoạn tả hình ảnh người thân.

– Đoạn tả khung cảnh trận chiến đấu, khắc hoạ diễn biến các sự việc chính trong trận chiến đấu, hình ảnh những đội quân,…

– Đoạn diễn tả cảm xúc của mình trước ngội mộ người thân; tả ngôi mộ người thân,…

– Đoạn tả những hình ảnh em bắt gặp trong các bức tranh khi xem triển lãm,…

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k6: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube: