Soạn Văn 8 Bài Quê Hương Tập 2 / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Soạn Bài: Quê Hương – Ngữ Văn 8 Tập 2

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả ( các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Tế Hanh trong SGK Ngữ văn 8 Tập 2).

2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Bài thơ Quê hương được rút từ tập Nghẹn ngào (1939), sau được in lại trong tập Hoa niên, xuất bản năm 1945.

* Thể thơ: Bài thơ được viết theo thể thơ 8 chữ.

* Bố cục:

Văn bản Quê hương có thể được chia làm 4 phần:

Phần 1: Hai câu thơ đầu : Giới thiệu chung về làng quê

Phần 2: 6 câu thơ tiếp : Cảnh dân làng chài bơi thuyền ra khơi đánh cá.

Phần 3: 8 câu thơ tiếp : Cảnh thuyền cá trở về bến.

Phần 4: 4 câu thơ cuối : Nỗi nhớ làng quê, nhớ quê hương da diết của tác giả.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

* Câu 3 – câu 8 : Cảnh dân làng bơi thuyền ra khơi

Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.

Hai câu đầu: khung cảnh đoàn thuyền ra khơi là vào một buổi sáng đẹp trời, bầu trời cao rộng, trong trẻo, nhuốm màu nắng hồng bình minh – thời tiết rất thuận lợi cho việc đi biển. Dân làng chài là những chàng trai căng tràn sức sống, khỏe mạnh, háo hức ra khơi.

Hai câu 5 – 6: Hình ảnh con thuyền ra khơi một cách dũng mãnh được tác giả ví như con tuấn mã đẹp và khỏe mạnh. Một loạt từ ngữ đã được tác giả sử dụng để diễn tả thế băng tới của con thuyền: hăng, phăng, mạnh mẽ, vượt càng tạo nên khí thế lao động hăng say, sức mạnh khỏe khoắn của người dân chài.

Hai câu 7 – 8: Là hình ảnh cánh buồm trắng căng phồng ra khơi được so sánh với mảnh hồn làng sáng lên vẻ đẹp lãng mạn. Từ đó, hình ảnh cánh buồm căng gió biển quen thuộc bỗng trở nên lớn lao, thiêng liêng, thơ mộng và hùng tráng.

* 8 câu thơ tiếp theo: Hình ảnh đón thuyền cá về bến

Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Cảnh ồn ào, tấp nập trên bến khi đón thuyền về và niềm vui trước những thành quả lao động, gợi ra một sức sống, một nhịp sống náo nhiệt

Hình ảnh người dân chài mang vẻ đẹp khỏe khoắn, mặn mà của biển, mặc dù công việc vất vả nhưng thú vị.

Hình ảnh con thuyền: tác giả không chỉ thấy con thuyền nằm im lìm trên bến mà còn thấy con thuyền dường như “mệt mỏi” sau một ngày lao động vất vả lênh đênh trên biển.

Câu 2:

Phân tích các câu thơ:

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Hình ảnh cánh buồm được so sánh với “mảnh hồn làng”, cánh buồm vô tri vô giác đã được người thi sĩ thổi vào một tâm hồn. Cái vô hồn, vô sắc được cụ thể hóa bằng hình ảnh có hình khối, đường nét, màu sắc. Cảnh mang hồn người, nhà thơ đã thổi vào cảnh linh hồn của làng chài. Cánh buồm vốn gắn bó, gần gũi trong cuộc sống của người dân chài bỗng trở nên bay bổng và giàu tính tượng trưng.

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.

Hai câu thơ này là một bức tranh vẽ phác họa hình ảnh người dân làng chài. Họ là những con người dường như được sinh ra từ biển. Cuộc sống biển khơi dãi dầu mưa nắng làm cho làn da của họ “ngăm rám” lại và hơi thở dường như cũng mang vị xa xăm của biển cả. Hai câu thơ trên không chỉ là sự miêu tả đơn thuần mà trong nó ẩn chứa những tình cảm gắn bó sâu sắc với con người nơi làng chài ven biển.

Câu 3:

Tình cảm của tác giả đối với quê hương thật đằm thắm và sâu sắc. Mặc dù sống xa quê nhưng những hình ảnh về quê hương, về người dân nơi làng chài ven biển vẫn luôn in đậm trong tâm trí nhà thơ. Từ đó cho chúng ta thấy, tác giả phải là một người gắn bó sâu nặng với con người và cuộc sống lao động của làng chài quê hương thì mới có được những vần thơ xuất thần, độc đáo như vậy.

Câu 4:

* Đặc sắc nổi bật của bài thơ:

Giọng thơ mộc mạc, giản dị, ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm

Những hình ảnh so sánh giàu hình ảnh, có giá trị biểu cảm cao, phép nhân hóa

Phép ẩn dụ và đảo trật tự từ trong câu

Hàng loạt động từ mạnh, tính từ và phép liệt kê

Sử dụng phương pháp biểu đạt, tự sự, đan xen lẫn miêu tả và biểu cảm.

* Bài thơ được viết theo phương thức miêu tả kết hợp với biểu cảm, nhưng phương thức chính vẫn là miêu tả. Chính nhờ sự kết hợp này mà hình ảnh thơ được lột tả một cách chân thực, tinh tế, vừa cho người đọc thấy được cảnh vật và cuộc sống lao động của con người miền biển, vừa thể hiện sâu sắc những rung động mãnh liệt của tâm hồn nhà thơ.

4.5

/

5

(

10

bình chọn

)

Giải Soạn Bài Quê Hương Sbt Ngữ Văn 8 Tập 2

Giải câu 1, 2, 3 trang 12 SBT Ngữ Văn 8 tập 2. Theo em, bức tranh quê hương được tác giả miêu tả trong bài thơ là bức tranh phong cảnh hay bức tranh sinh hoạt ? Từ đó, em có nhận xét gì về tình cảm quê hương của nhà thơ ?

Hai câu thơ sau, tác giả đều dùng biện pháp so sánh :

– Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã – Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Em thấy hai cách so sánh trên có gì khác nhau ? Hiệu quả nghệ thuật riêng của mỗi cách như thế nào ?

Trả lời:

Ở cả hai câu thơ đều sử dụng biện pháp so sánh. Nhưng đó là hai cách so sánh khác nhau, đem lại hiệu quả nghệ thuật cũng khác nhau.

– Câu trên (Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã) là so sánh một vật cụ thể, hữu hình này với một vật cụ thể, hữu hình khác. Con thuyền bơi trên sông hăng hái như con ngựa đẹp, khoẻ đang phi nhanh về phía trước. So sánh như vậy làm nổi bật sự hăng hái, mạnh mẽ của con thuyền ra khơi.

– Câu dưới (Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng) là so sánh một vật cụ thể, hữu hình (cánh buồm giương to) với một cái trừu tượng, vô hình mang ý nghĩa thiêng liêng (mảnh hồn làng). So sánh như vậy không làm cho hình ảnh cánh buồm được cụ thể, rõ nét hơn nhưng khiến cho cánh buồm vô tri trở nên có hồn và mang ý nghĩa lớn lao, trang trọng. Cánh buồm căng gió trở thành một biểu tượng đẹp, đầy ý nghĩa của làng chài.

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng, Cả thân hình nồng thở vị xa xăm ;

Cách miêu tả ở hai câu đó có gì khác nhau ? Hiệu quả nghệ thuật riêng ở mỗi câu là gì ?

Trả lời:

Hai câu thơ sau đều miêu tả người dân chài:

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng, Cả thân hình nồng thở vị xa xăm ;

Cách miêu tả ở mỗi câu mỗi khác, ở câu trên, tác giả tả lần da ngăm rám nắng của. những người lao động nơi biển cả, thường là dưới ánh nắng chói chang. Đây là câu thơ tả thực, làm nổi bật một nét ngoại hình tiêu biểu thường thấy của người dân chài. Câu thứ hai là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Tuy vẫn nói về thân hình người lao động làng chài nhưng không phải được miêu tả bằng thị giác (như câu trên) mà chủ yếu được cảm nhận bằng tâm hồn nhà thơ : vẻ đẹp khoẻ khoắn, lớn lao, đầy lãng mạn của những đứa con của biển khơi ; cả thân hình như thấm đượm “vị xa xăm” của biển khơi bao la, khoáng đạt và đầy bí ẩn. Chú ý : “thân hình nồng thở” và “vị xa xăm” đều là cách nói không có trong ngôn ngừ thông dụng, ở đây, có một hiệu quả nghệ thuật bắt ngờ, thú vị.

Theo em, bức tranh quê hương được tác giả miêu tả trong bài thơ là bức tranh phong cảnh hay bức tranh sinh hoạt ? Từ đó, em có nhận xét gì về tình cảm quê hương của nhà thơ ?

Trả lời:

Tranh phong cảnh là tranh về cảnh đẹp của thiên nhiên, tranh sinh hoạt là tranh về những cảnh sinh hoạt như lao động, vui chơi, mua bán,… của con người. Bài Quê hương mở ra trước mắt người đọc nhiều bức tranh về quê hương làng chài của tác giả. Đó vừa là tranh phong cảnh (cảnh “trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng” ở phần đầu, cảnh “màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi” vẽ khái quát làng quê trong nỗi nhớ của tác giả ở khổ thơ cuối), vừa là những bức tranh sinh hoạt: tiếp sau hai câu mở đầu là đoạn thơ sáu câu miêu tả cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá ; tám câu tiếp theo là cảnh “dân làng tấp nập đón ghe về”.

Chú ý : Bức tranh phong cảnh và bức tranh sinh hoạt không phải bao giờ cũng có thể phân biệt rõ ràng, nhiều khi một bức tranh có thể vừa là phong cảnh vừa là sinh hoạt (sáu câu tả cảnh sớm mai đoàn thuyền ra khơi vừa là tranh sinh hoạt, vừa là tranh phong cảnh).

– Những bức tranh được vẽ ra trong bài Quê hương chủ yếu là tranh sinh hoạt. Chẳng những chúng chiếm nhiều câu thơ hơn hẳn những cấu tả thiên nhiên mà còn vì trong đó, những câu hay nhất, được sáng tạo độc đáo nhất là miêu tả sinh hoạt lao động và con người lao động của quê hương làng chài. Như vậy, Tế Hanh nhớ quê hương thì trước hết là nhớ những con người và cuộc sống lao động của quê hương. Đó là một tình cảm đối với quê hương thật trong trẻo, thắm thiết và thật khoẻ khoắn, không có nhiều trong phong trào Thơ mới.

Soạn Văn 8 Siêu Ngắn Bài: Quê Hương

Trả lời

Bốn câu thơ vừa là phong cảnh thiên nhiên tươi sáng, vừa là bức tranh lao động đầy hứng khởi và dào dạt sức sống của người làng chài chinh phục sông nước. Hình ảnh cánh buồm trắng căng gió biển khơi quen thuộc bỗng trở nên lớn lao, thiêng liêng, vừa thơ mộng vừa hùng tráng.

Khổ 3 là cảnh dân làng chài đón thuyền cá trở về, một bức tranh lao động náo nhiệt, đầy ắp niềm vui và sự sống: toát ra từ không khí ồn ào, tấp nập đông vui, từ những chiếc ghe đầy cá, từ những con cá tươi ngon thân bạc trắng thật thích mắt, cả từ lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng yên “biển lặng” che chở người đi chài trở về an toàn với “cá đầy ghe”…

Hình ảnh người dân làng chài và cuộc sống làng chài hiện lên trong hai cảnh này: đó là những hình ảnh tươi vui, khỏe khoắn của người dân làng chài. Cảnh sum họp đông vui đầm ấm, hừng hực khí thế lại vô cùng lãng mạn.

Trả lời

ánh buồm trương to như mảnh hồn làng

Rướm thân trắng bao ba thâu góp gió

Hình ảnh cánh buồm trắng căng gió biển khơi quen thuộc bỗng trở nên lớn lao, thiêng liêng, vừa thơ mộng vừa hùng tráng. Sự so sánh ở đây không chỉ làm cho việc miêu tả được cụ thể hơn mà đã gợi ra một vẻ đẹp bay bổng, mang ý nghĩa lớn lao.

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.

Hai câu thơ là một bức tranh vẽ phác về hình ảnh dân chài. Cuộc sống biển khơi dãi dầu mưa nắng làm cho làn da “ngăm rám” lại, trong cả “hơi thở” của thân hình cũng là hương vị xa xăm của biển.

Trả lời

Thấm đượm trong bài thơ là nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả

Những đồ vật ông chỉ cần nhớ đến đều gợi lên từng kỉ niệm tại quê nhà. Mỗi hình ảnh ông đều miêu tả với tâm thế nâng niu, lưu luyến.Con người trong bài thơ được nhắc đến với tình cảm yêu mến, gần gũi, sự kính trọng của một người con xa xứ luôn hướng tới quê nhà.

Cuộc sống bình dị, yên ả trôi qua trên mảnh đất chài lưới thân yêu của tác giả.

Trả lời

Giọng thơ mộc mạc, giản dị, ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm.

Hình ảnh so sánh giàu hình ảnh, có giá trị biểu cảm cao, phép nhân hóa.

Phép ẩn dụ, đảo trật tự từ trong câu.

Hàng loạt động từ mạnh, tính từ, phép liệt kê.

Sử dụng phương pháp biểu đạt tự sự đan xen miêu tả và biểu cảm.

Soạn Bài Quê Hương Lớp 8

Soạn văn 8 bài Quê hương thuộc: Bài 19 SGK ngữ văn 8

I. VỀ TÁC GIẢ

– Nhà thơ Tế Hanh (tên khai sinh là Trần Tế Hanh), sinh năm 1921 tại xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

– Tham gia cách mạng từ tháng 8-1945, Tế Hanh đã trải qua các công tác văn hoá, giáo dục ở Huế, Đà Nẵng. Năm 1948, ông ở trong Ban phụ trách Liên đoàn kháng chiến Nam Trung Bộ; Uỷ viên Thường vụ cho Hội Văn nghệ Trung ương. Năm 1957 khi thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, ông là Uỷ viên Thường vụ Hội khóa I, II, Uỷ viên Thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam (1963), ông tham gia nhiều khóa Ban chấp hành Hội Nhà văn, giữ các chức vụ: Trưởng ban đối ngoại (1968), Chủ tịch Hội đồng dịch (1983), Chủ tịch Hội đồng thơ (1986).

– Ông đã cho xuất bản các tập thơ: Hoa niên (1945); Hoa mùa thi (1948); Nhân dân một lòng (1953); Bài thơ tháng bảy (1961); Hai nửa yêu thương (1963); Khúc ca mới (1966); Đi suốt bài ca (1970); Câu chuyện quê hương (1973); Theo nhịp tháng ngày (1974); Giữa những ngày xuân (1977); Con đường và dòng sông(1980); Bài ca sự sống (1985); Tế Hanh tuyển tập (1987); Thơ Tế Hanh (1989); Vườn xưa (1992); Giữa anh và em (1992); Em chờ anh (1994); Ngoài ra ông còn xuất bản các tập tiểu luận, và nhiều tập thơ viết cho thiếu nhi. Ông cũng đã xuất bản nhiều tập thơ dịch của các nhà thơ lớn trên thế giới.

– Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học: Giải Tự lực văn đoàn năm 1939; Giải thưởng Phạm Văn Đồng do Hội Văn nghệ Liên khu V tặng. Ông được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật (năm 1996).

II. TRẢ LỜI CÂU HỎI SGK

Câu 1. Phân tích cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi (từ câu 3 đến câu 8) và cảnh đón thuyền cá về bến (8 câu tiếp theo). Hình ảnh người dân chài và cuộc sống làng chài được thể hiện trong hai cảnh này có nét gì nổi bật đáng chú ý?

Trả lời:

Hình ảnh nổi bật trong bài thơ của Tế Hanh là hình ảnh làng chài với những sinh hoạt vô cùng thân thuộc, những người dân chài mạnh khoẻ, cường tráng và đương nhiên không thể thiếu hình ảnh những con thuyền, những cánh buồm vốn được coi là biểu tượng của làng chài.

Vì được tái hiện lên từ nỗi nhớ êm đềm nên làng chài phải gắn liền với hoạt động chủ yếu: đánh cá. Đoàn thuyền ra khơi trong một ngày thật đẹp:

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng.

Thời tiết đẹp không chỉ thiết thực với người dân chài (thời tiết có đẹp thì mới ra khơi được) mà còn làm nổi bật vẻ đẹp của làng chài trong tình yêu và nỗi nhớ của nhà thơ. Sức lực tràn trề của những người trai làng như truyền vào con thuyền, tạo nên khung cảnh ấn tượng, rất mạnh mẽ và hoành tráng:

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang. Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Những con thuyền rẽ sóng băng băng và lời thơ cũng theo đó mà bay bổng trong không gian vô cùng rộng rãi, khoáng đạt. Mọi hình ảnh đều được nâng lên đến mức biểu tượng. Chiếc thuyền thì “hăng như con tuấn mã”, một từ “phăng” thật mạnh mẽ, dứt khoát đã đưa con thuyền “mạnh mẽ vượt trường giang”. Đặc sắc nhất là cánh buồm. Trên sóng nước, hình ảnh dễ thấy nhất là cánh buồm chứ không phải con thuyền:

Anh đi đấy, anh về đâu Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm …

( Qua đò – Nguyễn Bính)

Rất ít khi trong các bức tranh vẽ thuyền mà lại thiếu cánh buồm bởi nó chính là yếu tố tạo nên sự hài hoà cân đối và vẻ đẹp lãng mạn. Với một người xa quê, cánh buồm còn “như mảnh hồn làng”, nó đã trở thành hình ảnh tượng trưng cho quê hương bởi dáng vẻ vô cùng mạnh mẽ và khoáng đạt:

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

Phải có tình yêu quê hương tha thiết và niềm tự hào mãnh liệt, Tế Hanh mới viết được câu thơ giàu giá trị biểu hiện đến như vậy:

Sau cảnh ” khắp dân làng tấp nập đón ghe về ” (gợi tả không khí sinh hoạt vô cùng thân thuộc của làng chài), những câu thơ đột ngột chùng xuống:

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng, Cả thân hình nồng thở vị xa xăm; Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Từ tả thực, những câu thơ lại dần nghiêng về sắc thái biểu tượng lắng câu. Điều đó góp phần tạo cho bài thơ một cấu trúc hài hoà, cân đối. Bên trên là cảnh rẽ sóng vượt trùng dương thì đến đây là cảnh nghỉ ngơi. Cái tĩnh đi liền ngay sau cái động nhưng không tách biệt hoàn toàn. Có một sợi dây liên kết, một sự gắn bó rất mật thiết phía sau hình ảnh “làn da ngăm rám nắng” và “thân hình nồng thở vị xa xăm” của những người trai làng chài, bên cạnh đó còn phải kể đến chi tiết rất gợi cảm: chiếc thuyền đã trở về nghỉ ngơi trên bến nhưng vẫn “nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”. Từ “chất muối” cho đến hơi thở “vị xa xăm” đều gợi đến biển cả, đến những chuyển động vượt qua muôn ngàn sóng gió. Đó chính là khát vọng chinh phục đại dương rất mãnh liệt, đã ngấm sâu trong huyết quản của những người dân làng chài, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Câu 2. Phân tích các câu thơ sau:

– Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

– Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.

Lối nói ẩn dụ và biện pháp so sánh ở những câu này có hiệu quả nghệ thuật như thế nào?

Trả lời:

Ai sinh ra ở vùng duyên hải hẳn chẳng lạ gì những cánh buồm. Thế nhưng những câu thơ của Tế Hanh vẫn có một cái gì đó là lạ và cuốn hút:

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Cánh buồm vô tri đã được người thi sĩ thổi vào một tâm hồn. Đó chính là cái hồn thiêng liêng (trong tâm khảm nhà thơ) của ngôi làng ấy. Nhà thơ đã lấy cái đặc trưng nhất (những cánh buồm) để mà gợi ra bao ước mơ khao khát về một cuốc sống no ấm, đủ đầy. Câu thơ sau thậm chí còn “có hồn” hơn. Thuyền không phải tự ra khơi mà đang “rướn” mình ra biển cả. Hình ảnh thơ đẹp và thi vị biết bao.

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng, Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.

Hai câu thơ là một bức tranh vẽ phác về hình ảnh dân chài. Đó là những con người dường như được sinh ra từ biển. Cuộc sống biển khơi dãi dầu mưa nắng làm cho làn da “ngăm rám” lại, trong cả “hơi thở” của thân hình cũng là hương vị xa xăm của biển. Hai câu thơ không phải chỉ là sự miêu tả đơn thuần mà nó là sự cảm nhận bằng cả một tâm hồn sâu sắc với quê hương.

Câu 3. Hãy nhận xét về tính cảm của tác giả đối với cảnh vật, cuộc sống và con người quê hương ông.

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ.

Trong nỗi nhớ lại thấp thoáng màu nước xanh, cát bạc, cánh buồm… và hẳnkhông thể thiếu con thuyền “rẽ sóng chạy ra khơi”. Có thể thấy những hình ảnh ấy cứ trở đi trở lại, day dứt mãi trong tâm trí nhà thơ để rồi cuối cùng lại làm bật lên cảm xúc:

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

Câu thơ được viết thật giản dị nhưng cũng thật gợi cảm, đủ nôn nao lòng người. Bởi nó có sức nặng ngay từ nỗi nhớ da diết và chân thành của tác giả đối với quê hương.

Câu 4. Bài thơ có những đặc sắc nghệ thuật gì nổi bật? Theo em, bài thơ được viết theo phương thức miêu tả hay biểu cảm, tự sự hay trữ tình?

Trả lời:

Nét đắc sắc nghệ thuật nổi bật nhất của bài thơ này là sự sáng tạo các hình ảnh thơ. Bài thơ cho thấy một sự quan sát tinh tế, một sự cảm nhận và miêu tả sắc sảo. Hình ảnh thơ phong phú, vừa chân thực lại vừa bay bổng và lãng mạn khiến cho cả bài thơ rất có hồn và tràn đầy thi vị.

Bài thơ sử dụng kết hợp phương thức miêu tả và biểu cảm. Nhưng yếu tố miêu tả chủ yếu nhằm phục vụ cho biểu cảm, trữ tình. Nhờ sự kết hợp này mà hình ảnh thơ vừa lột tả được chân thực, tinh tế cảnh vật và con người của cuộc sống miền biển vừa thể hiện sâu sắc những rung động của tâm hồn nhà thơ.

III. LUYỆN TẬP

Câu 1. Học thuộc và tập đọc diễn cảm bài thơ.

HS tự làm.

Câu 2. Sưu tầm, chép lại một số câu thơ, đoạn thơ về tình cảm quê hương mà em yêu thích nhất.

– Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà Lòng quê dợn dợn vời con nước – Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường – Như là chỉ một mẹ thôi Quê hương mỗi người chỉ một

( Tràng giang – Huy Cận)

( Quê hương – Giang Nam)

( Quê hương – Đỗ Trung Quân)

Xem Video bài học trên YouTube

Giáo viên dạy thêm cấp 2 và 3, với kinh nghiệm dạy trực tuyến trên 5 năm ôn thi cho các bạn học sinh mất gốc, sở thích viết lách, dạy học