Soạn Văn 8 Bài Nhớ Rừng Tập 2 / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Soạn Bài: Nhớ Rừng – Ngữ Văn 8 Tập 2

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Thế Lữ trong SGK Ngữ văn 8 Tập 2).

2. Tác phẩm

* Nhớ rừng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Thế Lữ và là tác phẩm góp phần mở đường cho sự thắng lợi của Thơ mới.

* Thể thơ: Văn bản Nhớ rừng được viết theo thể thơ 8 chữ.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

Bài thơ được ngắt thành 5 đoạn:

Đoạn 1: Cảnh ngộ bị tù hãm và nỗi uất hận, ngao ngán, buông xuôi và sự bất lực của con hổ.

Đoạn 2 + 3: Nỗi nhớ nhung, niềm khao khát tự do mãnh liệt qua những hoài niệm về cảnh núi rừng bạt ngàn, kì vĩ, rất tương xứng với sức mạnh của vị chúa tể sơn lâm.

Đoạn 4: Sự khinh ghét của con hổ với vẻ đơn điệu, tầm thường của khung cảnh vườn bách thú, hoàn toàn đối lập với sự hùng vĩ nơi chốn núi rừng.

Đoạn 5: Niềm đau đớn và nỗi tuyệt vọng của kẻ anh hùng sa cơ và những hoài niệm nơi núi rừng khi xưa với giấc mộng tàn.

Câu 2:

Trong bài thơ có 2 cảnh được miêu tả đầy ấn tượng: cảnh vườn bách thú, nơi con hổ bị nhốt (đoạn 2 và đoạn 4); cảnh núi rừng hùng vĩ, nơi con hổ ngự trị những “ngày xưa” ( đoạn 2 và 3).

a)

* Cảnh tượng ở vườn bách thú là cảnh tù túng, ngột ngạt

Đoạn 1: thể hiện tâm trạng chán ngán, căm hờn, uất ức của con hổ khi bị giam hãm trong cũi sắt, bị biến thành đồ chơi, trò tiêu khiển cho con người, bị xếp cùng với những loài thú “dở hơi”, “vô tư lự”. Mặc dù vậy, chúa sơn lâm vẫn vượt khỏi sự tù hãm bằng trí tưởng tượng, sống trong nỗi nhớ về cảnh núi rừng đại ngàn.

* Cảnh núi rừng hùng vĩ, oai nghiêm

Đoạn 2 và 3 miêu tả cảnh núi rừng đại ngàn – nơi con hổ ngự trị những “ngày xưa”. Nơi này, cái gì cũng lớn lao, cao cả và phi thường (bóng cả, cây già, gió gào ngàn, nguồn hét núi). Ở đoạn thơ này, chúa sơn lâm hiện lên với vẻ đẹp vừa tinh tế lại vừa dũng mãnh, uy nghi mà cũng không kém phần mềm mại, uyển chuyển.

b) Có thể nói, việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu các câu thơ trong đoạn 2 và đoạn 3 rất đặc biệt. Cảnh núi rừng được miêu tả với hàng loạt từ ngữ chỉ sự cao cả, lớn lao, phi thường (bóng cả, cây già, gào, hét, thét). Trong khi đó, chúa sơn lâm hiện lên với phong thái chậm rãi, khoan thai, được so sánh với sóng cuộn nhịp nhàng.

c)

* Qua sự đối lập sâu sắc giữa hai cảnh tượng nêu trên, tâm sự của con hổ ở vườn bách thú được thể hiện với những nỗi bất hòa, chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và nỗi nhớ da diết với quá khứ huy hoàng trước đây của nó.

* Tâm sự của con hổ cũng chính là tâm sự của người dân Việt Nam mất nước đang sống trong cảnh nô lệ và tiếc nhớ khôn nguôi thời oanh liệt với những chiến công chống giặc ngoại xâm vẻ vang của dân tộc ta trong lịch sử.

Câu 3:

Tác giả mượn “lời con hổ ở vườn bách thú” vì nó vừa thể hiện được thái độ chán ngán với thực tại tù túng, tầm thường và giả dối, vừa thể hiện được khát vọng tự do, khát vọng đạt tới sự cao cả, phi thường. Hơn thế nữa, khi mượn lời con hổ, tác giả cũng tránh được sự kiểm duyệt ngặt nghèo của thực dân khi đó. Nhưng dù sao, bài thơ vẫn thể hiện được niềm khao khát tự do thầm kín của những người đương thời.

Câu 4:

Nhà phê bình văn học Hoài Thanh có nhận xét về thơ Thế Lữ: “Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng, ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được”. Điều này nói lên việc sử dụng từ ngữ vô cùng điêu luyện của Thế Lữ đã đạt đến độ chính xác cao.

Âm thanh núi rừng, Thế Lữ cho ta nghe thấy tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, tiếng thét khúc trường ca dữ dội.

Một loạt những từ ngữ được điệp lại “nào đâu…”, “đâu những…” tạo ra sự tiếc nuối quá khứ huy hoàng.

Câu thơ nhịp nhàng, cân đối khi miêu tả dáng điệu hùng dũng, mềm mại của con hổ.

1.8

/

5

(

34

bình chọn

)

Giáo Án Văn 8 Bài Nhớ Rừng (Tiết 2)

2. Kĩ năng 3. Thái độ 1. Giáo viên 2. Học sinh 2. Kiểm tra 3. Bài mới

Hoạt động của GV và HS Kiến thức cần đạt

HĐ1.HDHS đọc-hiểu văn bản (tiếp)

– Gọi HS đọc đoạn 2-3

H: Cảnh sơn lâm được gợi tả qua những chi tiết nào ?

H: Em hiểu sơn lâm, bóng cả cây ở đây là gì ?(nơi núi cao có nhiều cây to lâu năm)

H: Em hiểu gào ngàn nghĩa là gì ?

H: Nhận xét về cách dùng từ ngữ, lời thơ ?

H: Qua đó em cảm nhận như thế nào về nơi sinh sống của hổ?

H: Hình ảnh con hổ hiện lên như thế nào giữa không gian ấy ?

b. Cảnh chốn giang sơn hùng vĩ trong nội nhứ của chúa sơn lâm:

* Cảnh núi rừng:

Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi…”

– Điệp từ, động từ, sức sống mãnh liệt của núi rừng.

⇒ Nơi núi rừng hùng vĩ hoang vu, thâm nghiêm,bí ẩn.

* Hình ảnh chúa sơn lâm xuất hiện với tư thế: “dõng dạc, đường hoàng, lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng”,”vờn”, “quắc mắt”

H:Vai trò của hổ giữa núi rừng hùng vĩ như thế nào?

H: Em hiểu chúa tể, thảo hoa là gì ?H: Em có nhận xét gì về từ ngữ, nhịp điệu của những khổ thơ này ?

(Với những câu thơ sống động, giàu chất tạo hình đã diễn tả chính xác vẻ đẹp vừa uy nghi, dũng mãnh mềm mại của chúa sơn lâm)

⇒ Hổ là chúa tể oai nghiêm của muôn loài. Đó là quá khứ oai hùng với quyền uy tuyệt đối, tư thế kiêu hùng, cuộc đời tự do oanh liệt.

– Gọi HS đọc đoạn 3

H: Đoạn 3 miêu tả về cảnh nào ?

H: Cảnh rừng ở đây là cảnh rừng của thời điểm nào ?

* Nỗi nhớ của chúa sơn lâm:

– “Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối…”

“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn…”

“Đâu những bình minh cây xanh nắng gội…”

” Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng…”

H: Em có nhận xét gì về từ ngữ ở các câu thơ này ? Qua đó em cảm nhận được thiên nhiên hiện lên một vẻ đẹp như thế nào ?

⇒ Có thể được coi như một bộ tranh tứ bình đẹp lộng lẫy được thể hiện nổi bật trong đoạn thơ: 4 cảnh với núi rừng hùng vĩ, tráng lệ với những đặc điểm riêng thuộc về chúa tể sơn lâm: cảnh những đêm trăng; cảnh những ngày mưa; cảnh những bình minh; cảnh những hoàng hôn. Ở cảnh nào núi rừng cũng mang vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng.

2. Tâm trạng con hổ:

3. Nét đặc sắc nghệ thuật:

H:Giữa thiên nhiên ấy, hình ảnh chúa tể của muôn loài hiện lên như thế nào ?

– Hổ – ngôi vị “chúa sơn lâm” nổi bật lên với tư thế lẫm liệt, kiêu hùng,dũng mãnh đầy uy lực

H:Nêu các biện pháp nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng trong đoạn thơ này ? tác dụng?

GV : Với các điệp từ câu cảm thán …khí phách ngang tàng làm chủ, tạo nhạc điệu rắn rỏi, hùng tráng. Nỗi nhớ tiếc khôn nguôi của con hổ với những cảnh không bao giờ thấy nữa

– GV HD học sinh – HĐ nhóm (3 phút )

1. Em hãy chỉ ra 2 cảnh đối lập nhau : Cảnh vườn bách thú & cảnh núi rừng hổ ngự trị ?

2. Theo em sự đối lập này có ý nghĩa gì ?

– Cảnh sống tầm thường, giả dối với cuộc sống chân thật phóng khoáng

– Căm nghét cuộc sống bình thường, khát vọng tự do cao cả

– GV gọi HS đọc đoạn cuối

H: Giấc mộng ngàn của hổ hướng về một không gian như thế nào ?

H: Nỗi nhớ tiếc giấc mộng ngàn của hổ là một giấc mộng như thế nào ?

– Nêu nhận xét biện pháp về nghệ thuật mà tác giả sử dụng ? Qua đó em hiểu được gì ?

– Nỗi đau của con hổ ở vườn bách thú cũng chính là nỗi đau của con người như thế nào?

( Khát vọng được sống chân thật, cuộc sống của chính mình.Đó là khát vọng giải phóng, tự do.Nỗi chán ghét thực tại, tù túng tầm thường, giả dối)

– NT: +Những câu hỏi tu từ lặp liên tiếp

+ Nhịp thơ ngắn, thay đổi.

+ Đại từ, câu hỏi tu từ , điệp từ.

→ gợi tả sự tiếc nuối quá khứ oai hùng của con hổ.

+ Kết thúc là từ cảm thán: Than ôi! diễn tả sự đau đớn tuyệt vọng, niềm khát khao cháy bỏng cuộc đời tự do.

(Cảnh thiên nhiên tươi đẹp trên chỉ là cảnh thuộc về quá khứ huy hoàng, thể hiện nỗi nhớ da diết, khôn nguôi, đau đớn, u uất của “chúa sơn lâm”. Tâm trạng con hổ chính là tâm trạng của nhân vật trữ tình lãng mạn, đó phần nào đó thể hiện tâm trạng của người dân Việt Nam mất nước lúc bấy giờ.

Cảm hứng lãng mạn trữ tình; hình ảnh thơ giàu chất tạo hình, tiêu biểu, ấn tượng; ngôn ngữ và nhạc điệu phong phú, cách dùng các dấu câu, từ ngữ, biện pháp tu từ sáng tạo.)

c. Tâm sự của nhà thơ:

” Hỡi oai linh…của ta ởi!”

– Hổ hướng tâm trạng về nơi núi rừng hùng vĩ với nỗi nhớ tiếc nuối, khôn nguôi.

– Nt: câu cảm thán thể hiện tâm trạng nhớ tiếc.

⇒ Qua dó nhà thơ diễn tả sâu sắc niềm khát khao tự do mãnh liệt và nỗi chán ghét cảnh sống tù túng, tầm thường, giả dối của thế hệ thi nhân lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945. Tâm trạng dân Việt Nam đau khổ vì thân phận nô lệ, chán ghét sự tù túng, nhớ tiếc thời oanh liệt tự hào dân tộc, khát khao độc lập tự do, thể hiện lòng yêu nước thầm kín

HĐ3.HDHS tổng kết:

H: Em cảm nhận như thế nào về nội dung và nghệ thuật của bài thơ?

H:Theo em việc mượn lời con hổ có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện nội dung cảm xúc của nhà thơ?

4. Tổng kết:

* Nghệ thuật: sự so sánh đối lập giữa hiện tại và qúa khứ, con hổ và con người.

– Nghệ thuật miêu tả tâm trạng, sử dụng câu hỏi tu từ.

* Nội dung:

– Nói về con hổ nhưng cũng nói về con người nhắc ta nhớ cảnh tù túng, nô lệ. Bài thơ là tâm trạng của một thế hệ các nhà thơ lãng mạn đầu thế kỉ XX.

* Ghi nhớ: SGKT7

4. Củng cố, luyện tập

300 BÀI GIẢNG GIÚP CON HỌC TỐT LỚP 8 CHỈ 399K

Tổng hợp các video dạy học từ các giáo viên giỏi nhất – CHỈ TỪ 199K tại chúng tôi

Tổng đài hỗ trợ đăng ký khóa học: 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k7: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Giáo án Ngữ văn lớp 8 của chúng tôi được biên soạn bám sát nội dung sgk Ngữ văn 8 Tập 1 và Tập 2 theo chuẩn Giáo án của Bộ GD & ĐT.

Soạn Văn 8 Bài Nhớ Rừng (Thế Lữ)

Soạn bài Ngữ văn lớp 8 tập 2

Soạn Văn 8 bài Nhớ rừng (Thế Lữ)

Soạn bài Nhớ rừng

Câu 1: Bài thơ chia làm 5 đoạn với nội dung mỗi đoạn:

– Đoạn 1 và đoạn 4: Nói lên niềm uất hận của con hổ khi bị làm một thứ đồ chơi ngang với lũ gấu dở hơi, và cảnh tầm thường, tù túng, nhân tạo giả dối ở vườn bách thú.

– Đoạn 2 và 3: Hồi tưởng cảnh tượng tự do, phóng khoáng nơi núi rừng thời oanh liệt.

– Đoạn 5: Hoài niệm nơi núi rừng khi xưa với giấc mộng ngàn.

Câu 2: a. – Cảnh tượng ở vườn bách thú là cảnh tượng rất tù túng, ngột ngạt.

+ Đoạn 1: Thể hiện tâm trạng chán ngán, căm hờn, uất ức của con hổ khi bị nhốt trong cũi sắt, bị biến thành thứ đồ chơi, bị xếp cùng bọn gấu dở hơi, cặp báo vô tư lự.

– Cảnh núi rừng hùng vĩ, nơi con hổ ngự trị những “ngày xưa”.

+ Đoạn 2+3: Miêu tả cảnh núi rừng đại ngàn, cái gì cũng lớn lao, cao cả, phi thường: Bóng cả, cây già, gió gào ngàn, nguồn hét núi. Chúa sơn lâm có vẻ đẹp vừa tinh tế vừa dũng mãnh, uy nghi, lại không kém phần mềm mại uyển chuyển.

b.

– Cảnh núi rừng hùng vĩ với “bóng cả cây già” đầy vẻ thâm nghiêm.

– Hùng tráng với âm thanh dữ dội “tiếng gió gài ngàn”, “giọng nguồn hét núi”.

– Sự hoang dã của chốn thảo hoang không tên không tuổi.

Tâm sự của con hổ là tâm trạng của người dân Việt Nam mất nước đang sống trong cảnh nộ lệ và tiếc nhớ khôn nguôi thời oanh liệt với những chiến công chống giặc ngoại xâm vẻ vang trong lịch sử dân tộc.

Câu 4:

Nhà phê bình Hoài Thanh đã ca ngợ Thế Lữ “như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được”. Điều này nói lên nghệ thuật sử dụng từ điêu luyện, đạt đến độ chính xác cao:

– Chỉ riêng về âm thanh núi rừng Thế Lữ cho ta nghe thấy tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, tiếng thét khúc trường ca dữ dội.

– Điệp ngữ tạo ra sự tiếc nuối (nào đâu, đâu những, …)

– Câu thơ nhịp nhàng, cân đối khi miêu tả dáng điệu hùng dũng, mềm mại của con hổ.

Soạn Bài Lớp 8: Nhớ Rừng

Soạn bài môn Ngữ văn lớp 8 học kỳ 2

I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

1. Tác giả

Thế Lữ (1907-1989), tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ, sinh tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Quê quán: làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là Tiên Sơn), tỉnh Bắc Ninh.

Thuở nhỏ, Thế Lữ học ở Hải Phòng. Năm 1929, học xong bậc Thành chung, ông vào học Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương, sau đó một năm (1930), ông bỏ học. Năm 1932, Thế Lữ bắt đầu tham gia Tự lực văn đoàn và là một trong những cây bút chủ lực của báo Phong hoá, Ngày nay. Năm 1937, ông bắt đầu hoạt động sân khấu, làm diễn viên, đạo diễn, lưu diễn tại các tỉnh miền Trung… và có hoài bão xây dựng nền sân khấu dân tộc. Cách mạng tháng Tám, ông hào hứng chào đón cách mạng, và lên Việt Bắc tham gia kháng chiến.

Tác giả đã xuất bản: Mấy vần thơ (thơ, 1935); Vàng và máu (truyện, 1934); Bên đường Thiên lôi (truyện, 1936); Lê Phong phóng viên (truyện, 1937); Mai Hương và Lê Phong (truyện, 1937); Đòn hẹn (truyện, 1939); Gói thuốc lá (truyện, 1940); Gió trăng ngàn (truyện, 1941); Trại Bồ Tùng Linh (truyện, 1941); Dương Quý Phi (truyện, 1942); Thoa (truyện, 1942); Truyện tình của anh Mai (truyện vừa, 1953); Tay đại bợm (truyện vừa, 1953). Ngoài ra Thế Lữ viết nhiều kịch bản: Cụ Đạo sư ông (kịch, 1946); Đoàn biệt động (1947); Đợi chờ (1949); Tin chiến thắng Nghĩa Lộ (1952); Thế Lữ cũng là dịch giả của nhiều vở kịch của Sếch-xpia, Gơ-tơ, Sin-le và Pô-gô-đin,…

2. Tác phẩm

Thế Lữ là một trong những nhà thơ hàng đầu của phong trào Thơ mới. Bài Nhớ rừng đã gắn liền với tên tuổi của ông. Nói đến Thế Lữ không thể không nói đến Nhớ rừng.

Sự xuất hiện của phong trào Thơ mới những năm đầu thế kỉ XX đã tạo ra sự bùng nổ mãnh liệt, một cuộc cách mạng thật sự trong địa hạt văn chương, nhất là thơ. Những thể thơ cũ (tiêu biểu từ thơ Đường luật) với khuôn khổ cứng nhắc, niêm luật gò bó đã không dung chứa nổi, không còn phù hợp với những tư tưởng, cảm xúc dào dạt, mới mẻ, lúc nào cũng chỉ chực tung phá. Đổi mới thể thơ, đổi mới hình thức câu thơ, các nhà thơ mới đồng thời đưa vào đó những dòng cảm xúc dạt dào, mạnh mẽ, tựa như những dòng nham thạnh bỏng đang tuôn chảy tràn trề. Nhớ rừng là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho trào lưu mới này.

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Bài thơ được ngắt làm năm đoạn. Nội dung của đoạn thứ nhất và đoạn thứ tư nói lên niềm uất hận của con hổ khi bị làm một thứ đồ chơi ngang với lũ gấu dở hơi, và cảnh tầm thường, tù túng, nhân tạo ở vườn bách thú. Đoạn thứ hai và đoạn thứ ba hồi tưởng cảnh tượng tự do, phóng khoáng nơi rừng núi thời oanh liệt. Đoạn thứ năm là hoài niệm nơi rừng núi xưa kia bằng giấc mộng ngàn.

2. a) Cảnh tượng ở vườn bách thú là cảnh tù túng. Đoạn thơ thứ nhất thể hiện tâm trạng chán ngán, căm hờn, uất ức của con hổ. Tuy bị nhốt trong cũi sắt, tuy bị biến thành một thứ đồ chơi lạ mắt, bị xếp cùng với bọn gấu dở hơi, bọn báo vô tư lự, nhưng chúa sơn lâm vẫn khinh lũ người ngạo mạn, ngẩn ngơ. Nó căm hờn sự tù túng, nó khinh ghét những kẻ tầm thường. Nó vượt khỏi sự tù hãm bằng trí tưởng tượng, sống mãi trong tình thương nỗi nhớ rừng.

Đoạn thơ thứ tư thể hiện cảnh vườn bách thú dưới con mắt của con hổ, đó là cảnh tượng nhân tạo, tầm thường, giả dối, nhàm chán “không đời nào thay đổi”.

Cảnh vườn bách thú tầm thường, giả dối, không thay đổi và tù túng đó được con hổ nhìn nhận gợi nên không khí xã hội đương thời. Thái độ ngao ngán, chán ghét cao độ với cảnh vườn bách thú cũng là thái độ của nhiều người, nhất là thanh niên thời đó với xã hội.

Đối lập với cảnh vườn bách thú là cảnh rừng nơi con hổ ngự trị ngày xưa. Rừng núi đại ngàn, cái gì cũng lớn lao, cao cả, phi thường: bóng cả, cây già, gió gào ngàn, nguồn hét núi. Giữa nơi hoang vu, cao cả, âm u, chúa sơn lâm hiện ra đầy oai phong, lẫm liệt:

Với khi thét khúc trường ca dữ dội Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc

Những câu thơ này đã diễn tả tinh tế vẻ đẹp vừa dũng mãnh, uy nghi, vừa mềm mại uyển chuyển của chúa sơn lâm.Những câu thơ của đoạn 3 đã miêu tả bốn cảnh đẹp của núi rừng và nổi bật trên cảnh vừa lộng lẫy, dữ dội, vừa hùng tráng, thơ mộng là hình ảnh con hổ chúa tể, như một vị đế vương đầy quyền uy, đầy tham vọng. Nó uống ánh trăng tan, nó nghe chim ca, nó ngắm giang san, nó muốn chiếm lấy bí mật của vũ trụ. Đúng là một thời oanh liệt, thời huy hoàng.

b) Việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu trong đoạn thơ thứ hai và thứ ba rất đặc biệt. Một loạt những từ chỉ sự cao cả, lớn lao, hoành tráng của núi rừng: Bóng cả, cây già, gào, hét, thét. Trong khi đó, hình ảnh con hổ thì khoan thai, chậm rãi, được so sánh với sóng cuộn nhịp nhàng. Diễn tả sức mạnh tuyệt đối của con hổ không phải bằng tiếng hổ gầm, mà là ánh mắt dữ dội:

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc Là khiến cho mọi vật đều im hơi

Sang khổ thơ sau, hàng loạt những điệp ngữ như nhắc đi nhắc lại một cung bậc nuối tiếc, hoài niệm: Nào đâu những, đâu những, đâu những, đâu những… Sau mỗi câu này là một câu hỏi. Và kết thúc là câu hỏi thứ năm, vừa hỏi, nhưng cũng như là khẳng định: thời oanh liệt nay chỉ còn trong quá khứ, trong hồi tưởng mà thôi. Những hình ảnh đêm trăng, mưa, nắng, hoàng hôn vừa đẹp lộng lẫy, vừa dữ dội đã góp phần dựng lại một thời oanh liệt của chúa sơn lâm khi còn tự do.

c) Làm nổi bật sự tương phản, đối lập gay gắt giữa cảnh tượng vườn bách thú, nơi cầm tù, nơi tầm thường, trì đọng với nơi đại ngàn tự do, phóng khoáng, hoành tráng, bí hiểm… nhà thơ đã thể hiện tâm trạng con hổ chán ngán, khinh ghét, căm thù cũi sắt, căm thù cảnh tầm thường, đơn điệu. Và luôn luôn hoài niệm, luôn hướng về thời oanh liệt ngày xưa. Tâm sự ấy là tâm trạng lãng mạn, thích những gì phi thường, phóng khoáng, đồng thời gần gũi với tâm trạng người dân mất nước khi đó. Họ cảm thấy “nhục nhằn tù hãm”, họ nhớ tiếc thời oanh liệt của cha ông với chiến công chống giặc ngoại xâm. Tâm sự của con hổ cũng chính là tâm sự của họ. Chính vì thế mà người ta say sưa đón nhận bài thơ.

3. Tác giả mượn lời con hổ ở vườn bách thú là rất thích hợp. Nhờ đó vừa thể hiện được thái độ chán ngán với thực tại tù túng, tầm thường, giả dối, vừa thể hiện được khát vọng tự do, khát vọng đạt tới sự cao cả, phi thường. Bản thân con hổ bị nhốt trong cũi là một biểu tượng của sự giam cầm, mất tự do, đồng thời thể hiện sự sa cơ, chiến bại, mang tâm sự u uất, không bao giờ thoả hiệp với thực tại. Một điều nữa, mượn lời con hổ, tác giả dễ dàng tránh được sự kiểm duyệt ngặt nghèo của thực dân khi đó. Dù sao, bài thơ vẫn khơi gợi lòng khao khát tự do và yêu nước thầm kín của những người đương thời.

4*. Nhà phê bình Hoài Thanh đã đã ca ngợi Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được. Điều này nói lên nghệ thuật sử dụng từ ngữ điêu luyện, đạt đến độ chính xác cao. Chỉ riêng về âm thanh rừng núi, Thế Lữ cho ta nghe thấy tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, tiếng thét khúc trường ca dữ dội. Bên trên đã nói đến những điệp từ tạo ra sự nuối tiếc quá khứ oanh liệt (Nào đâu, đâu những…) Cũng có thể thấy câu thơ Thế Lữ miêu tả dáng hiên ngang, hùng dũng, mềm mại của chúa sơn lâm:

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc

Mấy câu thơ trên có sự nhịp nhàng, cân đối, gợi hình ảnh con hổ khoan thai, mềm mại, với bước chân chậm rãi thật tài tình.

Hay một đoạn khác tả cảnh tầm thường của con người bắt chước, học đòi thiên nhiên:

Những cảnh sửa sang, tầm thường giả dối Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng

Câu thơ: ” Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng” được viết theo cách ngắt nhịp đều nhau, có cấu tạo chủ vị giống nhau – điều đó như mô phỏng sự đơn điệu, tầm thường của cảnh vật.

Được sáng tác trong hoàn cảnh đất nước còn đang bị kẻ thù đô hộ, giày xéo, bản thân tác giả cũng không tránh khỏi thân phận của một người dân nô lệ nhưng Nhớ rừng không rơi vào giọng điệu uỷ mị, yếu đuối. Ngược lại, nó đã thể hiện một sức sống mạnh mẽ, tiềm ẩn, chỉ có ở những con người, những dân tộc không bao giờ biết cúi đầu, luôn khao khát hướng đến tự do.

III. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG

Điều đặc biệt đáng chú ý trước hết trong bài thơ này là lời đề từ: “Lời con hổ ở vườn bách thú”. Lời đề từ này có tính định hướng cho việc thể hiện giọng đọc, nhằm thể hiện “lời” của con hổ – chúa tể sơn lâm từng oai linh gầm thét, nay bị nhốt trong “vườn bách thú” chật hẹp. Nghịch cảnh thật là trớ trêu.

Điều đáng chú ý thứ hai là: Thế Lữ đã mượn lời con hổ để thể hiện nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt. Phảng phất trong bài thơ có nỗi đau thầm kín của Thế Lữ và cũng là của những người thanh niên thuở ấy trước cảnh nước mất nhà tan.

Do đó, có thể:

Đọc bài thơ bằng giọng trầm, âm điệu tha thiết mạnh mẽ, thể hiện nỗi đau âm thầm, lòng kiêu hãnh và khát vọng tự do mãnh liệt của con hổ.

Đọc nhấn mạnh các từ ngữ: