Soạn Văn 7 Bài Những Câu Hát Châm Biếm Ngắn / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Soạn Bài Những Câu Hát Châm Biếm Siêu Ngắn

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Câu 1 Trả lời câu 1 (trang 52, SGK Ngữ văn 7, tập 1):

– Bài 1 giới thiệu về ” chú tôi “: nghiện rượu, nghiện chè, nghiện ngủ, lười biếng.

– Bài này châm biếm những kẻ vừa nghiện ngập, vừa lười biếng trong xã hội.

Câu 2 Trả lời câu 2 (trang 52, SGK Ngữ văn 7, tập 1):

– Bài 2 nhại lời nói của thầy bói với người đi xem bói. Bài ca dao lật tẩy bản chất của họ: thực chất là đánh vào tâm lý của người khác để kiếm tiền.

– Lời của thầy bói hoàn toàn là những điều hiển nhiên mà ai cũng biết.

– Đối tượng phê phán: những kẻ hành nghề mê tín dị đoan, đồng thời cũng phê phán những người ít hiểu biết, tin vào những điều phản khoa học.

– Một số bài ca dao tương tự:

Chập chập thôi lại cheng cheng Con gà trống thiến để riêng cho thầy Đơm xôi thì đơm cho đầy Đơm vơi thì thánh nhà thầy mất thiêng. Tử vi thầy bói cho người Số thầy thì để cho ruồi nó bâu. Thầy cũng ngồi cạnh giường thờ Mồm thì lẩm bẩm tay sờ đĩa xôi. Câu 3 Trả lời câu 3 (trang 52, SGK Ngữ văn 7, tập 1):

– Mỗi con vật trong 3 bài tượng trưng cho một loại người:

+ Con cò: người nông dân xấu số.

+ Con cà cuống: những kẻ có chức có quyền.

+ Chim ri, chào mào: đám lính lệ, tay sai.

+ Chim chích: anh mõ dưới chế độ phong kiến.

– Việc chọn con vật để nói về người giúp nội dung châm biếm trở nên sâu sắc, toàn diện hơn.

– Cảnh tượng trong bài không phù hợp với với đám tang vì đám tang mà lại có cảnh chia chác, đánh chén linh đình.

– Bài ca phê phán những hủ tục ma chay đương thời, vừa gây phiền hà lại vừa tốn kém.

Câu 4 Trả lời câu 4 (trang 52, SGK Ngữ văn 7, tập 1):

– Trong bài 4, cậu cai được miêu tả:

+ Trang phục: nón dấu lông gà, đeo nhẫn, thể hiện sự giàu sang, kệch cỡm của cậu chỉ huy hạng bét.

+ ” Áo ngắn đi mượn – quần dài đi thuê “: mỉa mai, pha chút thương hại cái thân phận thấp bé của cậu cai nhưng lại thích ra oai, ta là người có quyền lực.

– Nhận xét về nghệ thuật:

+ Cách xưng hô ” cậu cai ” thể hiện tính chất nịnh bợ, vừa có tính châm biếm.

+ Định nghĩa về cậu cai: cứ đầu đội nón dấu lông gà, ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.

+ Nghệ thuật phóng đại (Ba năm được một chuyến sai, quần áo đi mượn, đi thuê) làm bật lên vai vế chức vụ chẳng quan trọng gì → mỉa mai châm biếm.

Luyện tập Trả lời câu 1 (trang 53 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

Nhận xét về sự giống nhau của bốn bài ca dao, trong các ý kiến đã nêu, em đồng ý với ý kiến sau:

c) Cả bốn bài đều có nội dung và nghệ thuật châm biếm.

Trả lời câu 2 (trang 53 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

Những câu hát châm biếm nói trên và truyện cười dân gian đều giống nhau ở chỗ: lấy thói hư tật xấu của người đời để chê cười, châm biếm, dùng tiếng cười như một thứ vũ khí để xây dựng cho xã hội, con người ngày càng tốt đẹp hơn lên.

ND chính

“Những câu hát châm biếm” đã thể hiện khá tập trung nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam. Những câu hát châm biếm ấy đã phơi bày các sự việc mâu thuẫn, phê phán thói hư, tật xấu của những hạng người và sự việc đáng cười trong xã hội.

chúng tôi

Soạn Bài Những Câu Hát Châm Biếm (Siêu Ngắn)

Soạn bài Những câu hát châm biếm

Câu 1 (trang 52 Ngữ Văn 7 Tập 1):

– Bài 1 giới thiệu về chú tôi trong chân dung giễu cợt mỉa mai

+ hay tửu hay tăm: nghiện rượu

+ hay nước chè đặc: nghện nước chè đậm

+ hay nằm ngủ trưa, Ngày thì ước những ngày mưa / Đêm thì ước những đêm thừa trống canh: lười nhác

– Hai dòng đầu vừa để bắt vần vừa để giới thiệu nhân vật

– Bài này châm biếm hạng người vừa nghiện ngập vừa lười biếng trong xã hội

Câu 2 (trang 52 Ngữ Văn 7 Tập 1):

– Bài 2 nhại lại lời nói của thầy bói với người đi xem bói

– Lời của thầy bói nói những chuyện hiển nhiên ai cũng biết , thầy dùng trò này để gạt người nhẹ dạ cả tin nhưng lại bị gậy ông đập lưng ông lộ hết bản chất bịp bợm ngu dốt cửa mình

– Bài ca dao này vừa phê phán những kẻ hành nghề mê tín dị đoan và cả những tín đồ mê tín đến mù quáng thiếu hiểu biết chả khác nào ông thầy bói dốt nát kia

– Sưu tầm một số bài ca dao có nội dung tương tự

+ Chập chập thôi lại cheng cheng

Con gà trống thiến để riêng cho thấy

Đơm xôi thì đơm cho đầy

Đơm vơi thì thánh nhà thầy mất thiêng

Câu 3 (trang 52 Ngữ Văn 7 Tập 1):

– Mỗi con vật trong bài tượng trưng cho một loại người hạng người trong xã hội, cụ thể:

+ con cò tượng trưng cho người nông dân, hạng người tầm thường

+ cà cuống tượng trưng cho lí trưởng, xã trưởng, những kẻ dùng quyền thế để kiếm miếng ăn

+ chim ri, chào mào tượng trưng cho cai lệ lính lệ, có chút quyền thế thừa cơ ăn theo

+ chim chích tượng trưng cho những anh mõ đi rao việc làng xã xưa

– Việc chọn các con vật để đóng vai như thế lí thú ở chỗ: các con vật tượng trưng cho mọi hạng người loại người trong xã hội nhờ vậy nội dung châm biếm trở nên sâu sắc toàn diện hơn

– Cảnh tượng trong bài không phù hợp với một đám tang. Sự mất mát đau thương của gia đình người ta lại trở thành dịp ăn nhậu chia phần vô nhân đạo

– Bài ca dao phê phán châm biếm hủ tục ma chay

Câu 4 (trang 52 Ngữ Văn 7 Tập 1):

– Trong bài 4 chân dung cậu cai được miêu tả như sau

+ đầu đội nón đuôi gà: có chút quyền thế

+ tay đeo nhẫn: cố làm cho ra dáng

+ áo quần đi mượn đi thuê: lộ rõ bản chất bịp bợm khoe khoang của cậu cai

– Nhận xét nghệ thuật châm biếm

+ cách gọi lính lệ là cậu cai vừa lấy lòng vừa mỉa mai kín đáo

+ định nghĩa về cậu cai chẳng ra gì cứ đầu đội nón dấu lông gà, ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai

+ nghệ thuật phóng đại Ba năm được một chuyến sai, quần áo đi mượn đi thuê bật lên vai vế chức vụ chẳng quan trọng gì → mỉa mai châm biếm

Luyện tập

Bài 1 (trang 53 Ngữ Văn 7 Tập 1):

Đồng ý với ý kiến cả bốn bài đều đều có nội dung và nghệ thuật châm biếm

Bài 2 (trang 53 Ngữ Văn 7 Tập 1):

Những câu hát châm biếm trên có điểm giống với truyện cười dân gian ở chỗ lấy thói hư tật xấu của người đời để tạo ra tiếng cười rồi dùng nó như thứ vũ khí răn dạy người đời giúp cho cuộc sống tốt đẹp hơn

Bài giảng: Những câu hát châm biếm – Cô Trương San (Giáo viên VietJack)

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k8: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Các bài Soạn văn lớp 7 siêu ngắn được biên soạn bám sát câu hỏi sgk Ngữ Văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 giúp bạn dễ dàng soạn bài Ngữ Văn 7 hơn.

Soạn Bài: Những Câu Hát Châm Biếm

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Bốn bài ca dao châm biếm phê phán và chế giễu người lười nhác, có nhiều tật xâu (bài 1); chế giễu, phê phán thầy xem tướng số” (bài 2); châm biếm hủ tục ma chay (bài 3) và châm biếm cậu cai – tay sai của bọn thống trị (bài 4).

2. Những câu hát châm biếm đã thể hiện khá tập trung nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian: dùng các hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng, biện pháp nói ngược, nhại và phóng đại. Những câu hát đó đã phê phán các thói hư, tật xâu của những hạng người và sự việc đáng cười trong xã hội.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

1. Bài 1 giới thiệu chú tôi là người hay (nghĩa là giỏi, nhưng cũng có nghĩa là thích, ham, nghiện) nhiều thứ: rượu, chè đặc, ngủ ứưa. Chú còn là người “giàu ước mơ”, mà toàn mơ để không phải đi làm, để ngủ cho đã mắt.

Hai câu đầu có ý nghĩa vào bài và giới thiệu nhân vật. Trước khi đưa ra hình ảnh chú tôi, cô yếm đào được nhắc đến như là một nhân vật để cho ông chú cầu hôn. Cô yếm đảo là hình ảnh của một cô gái ttẻ đẹp. Điều đó gây tò mò xem chú tôi là người như thế nào.

Bài ca dao này châm biếm hạng người nghiện ngập và lười biếng trong xã hội.

2. Bài 2 nhại lời của thầy tướng số nói với cô gái, người muốn giải đoán số mệnh của mình. Lời của thầy tướng số nói toàn những sự hiển nhiên và nói có tính nước đôi, chẳng có gì dứt khoát. Không giàu thì hiển nhiên là nghèo. Tết ai chả có thịt treo trong nhà. Ai chẳng do bố mẹ snih ra. Tất nhiên bố phải là đàn ông, mẹ là đàn bà. Làm gì có chuyện ngược lại. Cũng như thế đẻ con chảng trai thì gái. Đó là lời nói nước đôi, nói dựa thực tế, chẳng có gì phải mất công tính toán cả.

3. Mỗi con vật trong bài 3 tượng trưng cho một loại người ở nông thôn: con cò là người dân; cà cuống tượng trưng cho kẻ chức sắc trong làng; chim ri là người có vai vế, có phần được chia sau khi ăn uống; chào mào là người phục vụ tang lễ (phường kèn, phường trống); chim chích giông như vai trò của mõ làng, thông tín cho mọi người. Việc chọn các con vật như thế chỉ thế giới loài vật nhưng cũng ám chỉ thếgiới con người ở làng xã. Rất nhiều loại người trong hủ tục ma chay ở quê, nhưng chỉ thấp thoáng chứ không chỉ người nào thật cụ thê. Việc châm biếm trở nên kín đáo.

Cảnh tượng thật ồn ào, náo nhiệt, không phù hợp với việc buồn của nhà có người chết. Cái chết biến thành dịp ăn uốg say sưa, chia phần nhộn nhạo.

Bài ca dao châm biếm, phê phán hủ tục ma chay chọn ngày, ăn uống, chia phần ồn ào trong xã hội cũ.

4. Bài 4 miêu tả chân dung cậu cai khá sinh động: trang phục nhà binh chĩnh chện, nhưng tay lại đeo nhẫn để khoe của và cũng là khoe cấp bậc: cai chứ không phải là lính. Cai là người chỉ huy, là cấp trên. Cậu cai oai như vậy, nhưng thưc chất là oai như thế nào ? Ba năm người ta mới phái đi công cán. Áo thì đi mượn, quần thì đi thuê. Áo, quần là thứ rẻ thế còn phải thuê, phải mượn, thì cái nhẫn đeo tay kia chắc cũng mượn, cũng thuê nốt. Cậu cai hiện ra là một gã bù nhìn khoác những đồ thuê mượn, cố’ ra vẻ oai nhưng thật thảm hại.

Nghệ thuật châm biếm của bài ca là sự phóng đại (ba năm được một chuyến sai; quần áo đều thuê mượn); là sự đối lập (cái vẻ oai, vẻ sang của cậu cai đốì lập với sự thuê, mượn những thứ xoàng xĩnh như áo ngắn, quần dài; cả cái việc ba năm mới có một chuyến công cán, thực tế là làm tay sai chứ có vẻ vang gì).

III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

1. Ý kiến đúng nhất về sự giống nhau của cả bốn bài ca đó là: cả bốn bài đều có nội dung và nghệ thuật châm biếm.

2. Những câu hát châm biếm trên có điểm giống truyện cười dân gian ở chỗ đối tượng châm biếm là những thói hư, tật xâu, những kẻ đáng chê cười trong đời sống. Hình thức châm biếm là sử dụng biện pháp phóng đại, chỉ ra mâu thuẫn của sự vật.

Soạn Bài : Những Câu Hát Châm Biếm

Hướng dẫn soạn văn, soạn bài, học tốt bài

(Xem bài Những câu hát về tình cảm gia đình).

1. Bài 1 “giới thiệu” chú tôi là người hay (nghĩa là giỏi, nhưng cũng có nghĩa là thích, ham, nghiện) nhiều thứ: nghiện rượu, nghiện chè, lại nghiện cả… ngủ trưa! Không những thế, chú còn là người rất “giàu ước mơ” – mà toàn mơ để … không phải đi làm, để ngủ cho đã mắt! Bài ca dao này châm biếm hạng người sa đà nghiện ngập và lười biếng trong xã hội.

3. Mỗi con vật trong bài 3 tượng trưng cho một loại người: con cò tượng trưng cho người nông dân, cà cuống tượng trưng cho những kẻ có quyền bính, chim ri và chào mào tượng trưng cho đám lính lệ, chim chích tượng trưng cho anh mõ dưới chế độ phong kiến. Bài ca có tính chất ngụ ngôn rõ rệt, tác giả dân gian đã mượn loài vật để phê phán hủ tục ma chay.

4. Hai câu đầu của bài ca có kết cấu đặc biệt: Cậu cai nón dấu lông gà. Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai. Hai câu là hai định nghĩa, đồng thời là hai “dấu hiệu” nhận biết một con người: thứ nhất, cậu cai = nón dấu lông gà (dấu hiệu quyền lực) ; thứ hai: ngón tay đeo nhẫn = gọi là cậu cai (dấu hiệu giàu sang). Hai dấu hiệu này không có nghĩa thông báo về tâm hồn, tính cách hay phẩm chất của đối tượng. Nếu bỏ hai tiếng “cậu cai” đi, trong hình dung chỉ còn chiếc “nón dấu lông gà” (quyền lực) và “ngón tay đeo nhẫn” (khoe của) có vẻ rất trai lơ!

Hai câu tiếp theo đối lập về số lượng có tính chất gây cười. Pha một chút phóng đại, chân dung cậu cai được đưa ra châm chọc, mỉa mai, thể hiện thái độ khinh ghét và thương hại của nhân dân.

Về nghệ thuật, khi xây dựng nhân vật cai lệ, tác giả dân gian đã khéo léo chọn từ xưng hô là: cậu cai (một từ vừa có tính chất nịnh bợ, vừa có tính chất châm biếm). Hơn nữa, bằng việc biếm hoạ chân dung cậu cai, tác giả dân gian đã ngầm ý nói lên sự nhố nhăng, bắng nhắng của nhân vật người thường không ra người thường, quyền lực không ra quyền lực này. Việc sử dụng rất thành công nghệ thuật phóng đại cũng có tác dụng làm cho nhân vật cậu cai càng trở nên nực cười và thảm hại hơn.

Đây cũng là ca dao trữ tình nhưng tình cảm, thái độ trong đó không phải là những tình cảm thẳm sâu, day dứt trong tâm hồn (như những bài ca dao về tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa,…). Giọng điệu ở đây là giọng châm biếm, giễu cợt,… nên khi đọc cần cao giọng, nhấn mạnh vào các điệp từ, điệp ngữ (có chủ ý) để làm nổi bật giọng điệu châm biếm, giễu cợt của những câu ca dao này.

a) Cả bốn bài đều có hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng.

b) Tất cả đều sử dụng biện pháp phóng đại.

c) Cả bốn bài đều có nội dung và nghệ thuật châm biếm.

d) Nghệ thuật tả thực có trong cả bốn bài.

3.* Những câu hát châm biếm nói trên có điểm gì giống truyện cười dân gian?

– Đều hướng đến châm biếm những hạng người đáng chê cười về tính cách, bản chất.

– Đều sử dụng một số hình thức gây cười.

– Đều tạo được những tiếng cười sảng khoái cho độc giả.