Soạn Bài Vịnh Khoa Thi Hương Ngắn Gọn / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Soạn Bài Vịnh Khoa Thi Hương Ngắn Gọn

Tài liệu Soạn văn lớp 11 bài Vịnh khoa thi Hương đã được VnDoc tổng hợp để phục vụ các bạn học sinh lớp 11 học tốt hơn môn Ngữ văn. VnDoc mời thầy cô và các bạn học sinh cùng tham khảo.

1. Soạn bài Vịnh khoa thi Hương ngắn gọn mẫu 1

1.1. Câu 1 (trang 34 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)

Hai câu đầu:

– Giọng thơ mang tính tự sự, kể lại cuộc thi năm Đinh Dậu theo thông lệ do nhà nước mở: ba năm một lần.

– Điểm đặc biệt: Trường Nam thi lẫn với trường Hà. Từ “lẫn”: lẫn lộn, báo hiệu điều gì thiếu nghiêm túc, ô hợp, láo nháo trong thi cử.

1.2. Câu 2 (trang 34 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)

– Hình ảnh:

+ Sĩ tử: lôi thôi, vai đeo lọ → dáng vẻ luộm thuộm, nhếch nhác.

+ Quan trường: ậm ọe, miệng thét loa → ra oai, nạt nộ nhưng đó là cái oai cố tạo, giả vờ.

– Nghệ thuật:

+ Sử dụng từ láy tượng thanh và tượng hình: ậm ọe, lôi thôi.

+ Đảo ngữ: Đảo trật tự cú pháp “lôi thôi sĩ tử”, “ậm ọe quan trường”.

→ Sự láo nháo, lộn xộn của cảnh thi cử lúc bấy giờ.

1.3. Câu 3 (trang 34 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)

– Hình ảnh:

+ Quan sứ: công sứ Nam Định, được tiếp đón trọng thể.

+ Mụ đầm: vợ quan sứ, ăn mặc diêm dúa, điệu đà.

→ Sự phô trương, hình thức, không đúng nghi lễ của một kì thi.

1.4. Câu 4 (trang 34 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)

Hai câu cuối là sự thức tỉnh các sĩ tử và thái độ của nhà thơ trước cảnh nước mất:

– Câu hỏi tu từ mang ý nghĩa thức tỉnh các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Nhà thơ hỏi người nhưng cũng chính là hỏi mình.

– Giọng thơ mang đậm chất trữ tình có tác dụng lay tỉnh lương tâm, lương tri của các sĩ tử.

2. Soạn bài Vịnh khoa thi Hương ngắn gọn mẫu 2

2.1. Bố cục

– Hai câu đề: Giới thiệu về kì thi

– Hai câu thực: Cảnh tượng khi đi thi

– Hai câu luận: Những ông to bà lớn đến trường thi

– Hai câu kết: Thái độ phê bình của nhà thơ với kì thi

2.2. Câu 1 (trang 34 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)

Kì thi có điều khác thường là trường Nam thi lẫn với trường Hà. Từ “lẫn”: lẫn lộn, báo hiệu điều gì thiếu nghiêm túc, ô hợp, láo nháo trong kì thi.

2.3. Câu 2 (trang 34 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)

– Hình ảnh:

+ Sĩ tử: lôi thôi, vai đeo lọ → dáng vẻ luộm thuộm, nhếch nhác.

+ Quan trường: ậm ọe, miệng thét loa → ra oai, nạt nộ nhưng đó là cái oai cố tạo, giả vờ.

– Nghệ thuật:

+ Sử dụng từ láy tượng thanh và tượng hình: ậm ọe, lôi thôi.

+ Đảo ngữ: Đảo trật tự cú pháp “lôi thôi sĩ tử”, “ậm ọe quan trường”.

⇒ Sự láo nháo, lộn xộn, ô hợp của trường thi, mặc dù đây là một kì thi Hương quan trong của nhà nước

⇒ Cảnh trường thi phản ánh sự suy vong của một nền học vấn, sự lỗi thời của đạo Nho.

2.4. Câu 3 (trang 34 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)

– Hình ảnh:

+ Mụ đầm: vợ quan sứ, ăn mặc diêm dúa, điệu đà.

⇒ Sự phô trương, hình thức, không đúng nghi lễ của một kì thi.

⇒ Tất cả báo hiệu về một sự sa sút về chất lượng thi cử, bản chất của xã hội thực dân phong kiến.

2.5. Câu 4 (trang 34 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)

– Tâm trạng thái độ của tác giả trước cảnh tượng trường thi: Ngao ngán, xót xa trước sự sa sút của đất nước. Thái độ mỉa mai, phẫn uất của nhà thơ với chế độ thi cử đương thời và đối với con đường khoa cử của riêng ông.

– Hai câu cuối như một lời nhắn nhủ các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Nhà thơ hỏi người nhưng cũng chính là hỏi mình.

Soạn Bài Vịnh Khoa Thi Hương

Soạn bài Vịnh khoa thi Hương (Trần Tế Xương)

Bố cục

– Hai câu đề: Giới thiệu về kì thi

– Hai câu thực: Cảnh tượng khi đi thi

– Hai câu luận: Những ông to bà lớn đến trường thi

– Hai câu kết: Thái độ phê bình của nhà thơ với kì thi

Câu 1 (trang 34 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

Kì thi có điều khác thường là trường Nam thi lẫn với trường Hà. Từ “lẫn”: lẫn lộn, báo hiệu điều gì thiếu nghiêm túc, ô hợp, láo nháo trong kì thi.

Câu 2 (trang 34 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

– Hình ảnh:

+ Sĩ tử: lôi thôi, vai đeo lọ → dáng vẻ luộm thuộm, nhếch nhác.

+ Quan trường: ậm ọe, miệng thét loa → ra oai, nạt nộ nhưng đó là cái oai cố tạo, giả vờ.

– Nghệ thuật:

+ Sử dụng từ láy tượng thanh và tượng hình: ậm ọe, lôi thôi.

+ Đảo ngữ: Đảo trật tự cú pháp “lôi thôi sĩ tử”, “ậm ọe quan trường”.

⇒ Sự láo nháo, lộn xộn, ô hợp của trường thi, mặc dù đây là một kì thi Hương quan trong của nhà nước

⇒ Cảnh trường thi phản ánh sự suy vong của một nền học vấn, sự lỗi thời của đạo Nho.

Câu 3 (trang 34 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

– Hình ảnh:

+ Mụ đầm: vợ quan sứ, ăn mặc diêm dúa, điệu đà.

⇒ Sự phô trương, hình thức, không đúng nghi lễ của một kì thi.

⇒ Tất cả báo hiệu về một sự sa sút về chất lượng thi cử, bản chất của xã hội thực dân phong kiến.

Câu 4 (trang 34 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

– Tâm trạng thái độ của tác giả trước cảnh tượng trường thi: Ngao ngán, xót xa trước sự sa sút của đất nước. Thái độ mỉa mai, phẫn uất của nhà thơ với chế độ thi cử đương thời và đối với con đường khoa cử của riêng ông.

– Hai câu cuối như một lời nhắn nhủ các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Nhà thơ hỏi người nhưng cũng chính là hỏi mình.

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k4: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Soạn Bài: Vịnh Khoa Thi Hương

(Trần Tế Xương)

Câu 1:

Khoa thi năm Đinh Dậu được nhà thơ giới thiệu một cách giới thiệu rất tự nhiên. Kì thi Hương được tổ chức theo đúng thời gian quy định, ba năm một lần. Nhưng có điểm không bình thường: Trường Nam thi lẫn với trường Hà. Tác giả không dùng thi chung hoặc một cách diễn đạt khác trang trọng hơn mà dùng từ ” thi lẫn“. Cách nói ấy đã dự báo tính chất không nghiêm túc của kì thi. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh sự nhốn nháo, lộn xộn trường thi

Câu 2:

Hai câu thực miêu tả thật hài hước cảnh trường thi:

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ Ậm ọe quan trường miệng thét loa.

Cách đảo trật tự cú pháp: ” Lôi thôi sĩ tử“, ” ậm ọe quan trường” kết hợp với các từ giàu hình ảnh: lôi thôi, đeo lọ cùng với những từ chỉ âm thanh: ậm ọe, thét loa làm cho quang cảnh thi trở nên nhốn nháo, ô hợp, mất đi vẻ trang nghiệm của một kì thi do quốc gia tổ chức. Hơn thế, sĩ tử thì lôi thôi lếch thếch mất hết vẻ nho nhã, thư sinh. Quan trường không còn quyền uy, mực thước, trang trọng như trước mà như nhân vật tuồng hề ” ậm ọe, thét loa“. Cảnh trường thi phản ánh sự suy vong của một nền học vấn, sự lỗi thời của đạo Nho.

Câu 3:

Sự có mặt của vợ chồng quan sứ có thể làm cho quang cảnh trường thi có vẻ trang nghiêm. Song trái lại, sự hiện diện của chính quyền thực dân lúc này càng tăng thêm sự chua chát. Quyết định số phận của trường thi (số phận của các sĩ tử) là một kẻ ngoại bang không biết gì về Nho học. Nơi cửa Khổng sân Trình là nơi mặc sức, tự nhiên lê váy của mụ đầm. ” Váy lê quét đất” đối với ” Lọng cắm rợp trời” (còn làm nhục quốc thể) chao ôi thật chua chát.

Bốn câu thơ vạch trần sự nhếch nhác, tùy tiện của khoa cử lúc bấy giờ. Đồng thời ngầm thể hiện nỗi xót xa chua chát của nhà thơ và người đọc.

Câu 4:

Câu kết là tâm sự đau xót, chua chát của nhà thơ trước hiện thực đất nước. Câu thơ vừa là lời tự vấn mình, vừa hướng đến những người đồng môn. Bài thơ thể hiện nỗi đau đớn xót xa của nhà thơ trước vận mệnh dân tộc. Nỗi đau đớn xót xa ấy thể hiện tác giả là người trọng danh dự, danh dự của các trí thức nho học và là người có tấm lòng với dân với nước. Là con người biết trọng danh dự, với tấm lòng lo nước thương đời, ông Tú muốn đánh thức ý thức dân tộc trong con người Việt nam, nhất là những người tài, những người có trách nhiệm và có khả năng cứu nước, cứu đời. Giọng điệu chính của bài thơ là giọng điệu trào phúng, nhưng ở hai câu kết, tác giả đã dùng giọng điệu trữ tình.

Các bài soạn văn lớp 11 hay

Soạn Bài Vịnh Khoa Thi Hương Lớp 11

(Soạn văn lớp 11) – Em hãy soạn bài Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương (Bài làm của học sinh giỏi lớp 11 bạn Phạm Thị Vân)

I. Tìm hiểu chung:

– Vịnh khoa thi Hương thuộc đề tài viết về thi cử (13 bài kể cả thơ và phú).

– Đây là bài lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu 1897. Thi Hương ở Hà Nội bị cấm không tổ chức. Vì vậy hai trường Nam Định và Hà Nội thi chung. Vì vậy mới có câu “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”.

– Bài thơ này bố cục theo 2 – 4 – 2

+ Hai câu đầu: giới thiệu khoa thi hương 1897 (Đinh Dậu)

+ Bốn câu tiếp: Quang cảnh trường thi và tiếng cười châm biếm.

+ Hai câu cuối bài: Thái độ xót xa tủi nhục của người trí thức nho học

II. Đọc – hiểu 1. Hai câu đầu

– Hai câu thơ mở đầu như một thông báo:

“Nhà nước ba năm mở một khoa

Trường Nam thi lẫn với trường Hà”

– Khoa thi này do nhà nước tổ chức, cứ ba năm một lần thi Hương để chọn nhân tài. Đó là thông lệ. Song nó báo hiệu một cái gì khác trước. Một từ “lẫn” không chỉ giới thiệu hai trường Nam Định và Hà Nội thi chung mà báo hiệu một sự xáo trộn của việc thi cử, không còn được như trước nữa. Có nhiều hàm ý trong từ “lẫn” này. Chẳng cần phải đợi lâu, bốn câu tiếp miêu tả rất cụ thể.

2. Bốn câu tiếp

– Hình ảnh: Sĩ tử, quan trường

+ Sĩ tử thì lôi thôi lếch thếch mất hết vẻ nho nhã, thư sinh

+ Quan trường không còn quyền uy, mực thước, trang trọng như trước mà như nhân vật tuồng hề “ậm oẹ, thét loa”. Người chịu trách nhiệm tổ chức kì thi và sĩ tử đi thi thật không ra thế nào. Nó phản ánh sự suy vong của nền học vấn, lỗi thời của đạo Nho

– Nghệ thuật: đảo trật tự cú pháp: “lôi thôi sĩ tử”, “ậm oẹ quan trường”. Cách đảo trật tự cú pháp: “Lôi thôi sĩ tử”, “ậm oẹ quan trường” kết hợp với các từ giàu hình ảnh: “Lôi thôi, đeo lọ, rợp trời, quét đất” cùng với những từ chỉ về âm thanh: “ậm oẹ, thét loa” làm cho quang cảnh thi trở nên nhốn nháo, ô hợp mất đi vẻ trang nghiêm của một kì thi do quốc gia tổ chức.

3. Hai câu cuối

– Hai câu kết là một câu hỏi. Nhà thơ hỏi người cũng chính là hỏi mình. Giọng thơ dù đay nghiến mà vẫn có cái gì xót xa đến rưng rưng.

– Nhà thơ hỏi “Nhân tài đất Bắc” tức là hỏi tầng lớp trí thức. Đó là những sĩ tử đang chăm chăm chạy theo danh vọng. Ông hỏi mà như thức tỉnh họ về nỗi nhục mất nước. Kẻ thù ngoại bang có mặt ở lễ xướng danh này thì dẫu có đậu Tiến sĩ ra làm quan cũng là thân phận của tay sai mà thôi. Đường công danh còn có ý nghĩa gì? Hai tiếng “ngoảnh cổ” như bộc lộ thái độ mạnh mẽ vừa thể hiện một nỗi tủi nhục.

Nhà thơ Tế Xương thành công nhất với thơ trào phúng đã đem đến cho chúng ta một cái nhìn về những cuộc thi của ông cha ta ngày xưa. Nó không dễ dàng và mở ra thường xuyên như bây giờ. Thêm nữa những người gọi là có trách nhiệm để tổ chức kì thi quan trọng ấy lại không làm tròn trách nhiệm của mình không hiểu được sĩ tử, vậy mà kì thi đến vẫn con ra oai nạt nộ.