Trước lúc phân tích về bài thơ Quê nhà của Đỗ Trung Quân, tất cả chúng ta cùng tìm hiểu về những thông tin cơ bản về tác giả và tác phẩm.
Đôi nét về tác giả Đỗ Trung Quân
Nhà thơ Đỗ Trung Quân sinh ngày 19 tháng một năm 1955 là một nhà thơ Việt Nam. Nhiều bài thơ của ông được phổ nhạc và được nhiều người yêu thích như Quê nhà, Phượng hồng…
Năm 1979, ông tham gia trào lưu Thanh niên xung phong và bắt đầu sáng tác. Một số bài thơ do ông sáng tác trở thành nổi tiếng như Hương tràm (1978).
Một số bài thơ tiêu biểu và nổi tiếng của ông: Hương tràm (1978), Chút tình đầu (1984), Bài học kinh nghiệm đầu cho con (1986), Khúc mưa, Những bông hoa trên tuyến lửa…
Giới thiệu bài thơ Quê nhà của Đỗ Trung Quân
Bài thơ Quê nhà được đăng lần nguồn vào năm 1986 với tên gọi là Bài học kinh nghiệm đầu cho con.
Vào đầu thập niên 1990, bài thơ này được phổ nhạc và trở nên nổi tiếng, được rất nhiều người yêu mến.
Bài thơ Quê nhà của Đỗ Trung Quân qua hình ảnh cánh diều
Phân tích bài thơ Quê nhà của Đỗ Trung Quân
Để hiểu hơn về bài thơ Quê nhà của Đỗ Trung Quân, tất cả chúng ta cùng tìm hiểu, phân tích và cảm nhận qua từng khổ thơ.
“Quê nhà là gì hả mẹ Mà cô giáo dạy hãy yêu? Quê nhà là gì hả mẹ Ai ra đi cũng nhớ nhiều?”
Lời đề từ trong bài thơ Quê nhà của Đỗ Trung Quân
Những vần thơ giản dị nhẹ nhàng cất nghe sao nghe quá đỗi thân thương. Một vướng mắc yêu của một cháu nhỏ mà nặng lòng đến thế. Quê nhà là gì? Là những nỗi nhớ mong, là những điều giản dị mà ai ra đi cũng nhớ nhiều. Hai vướng mắc tu từ kết thúc câu sao nhẹ nhàng thắm thiết như chính những lời bỏ ngỏ cho những vần thơ sau.
Quê nhà qua hai khổ thơ tiếp theo
“Quê nhà là chùm khế ngọt” – chùm khế ngọt nhỏ bé, ngọt mát, êm dịu, một thứ quà quê thanh đạm, bình dị, quá đỗi bình dị mà sao day dứt và ám ảnh ? Có lẽ vị ngọt thanh của khế làm mát dịu lòng ta, trái khế ngọt mang mùi vị của ca dao cổ tích, dư vị thắm thiết của tình nghĩa con người.
“Quê nhà là chùm khế ngọt Cho con trèo hái mỗi ngày Quê nhà là lối đi học con về rợp bướm vàng bay”
Đấy là quê nhà, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ta sinh ra và lớn lên, nơi những người dân thân yêu của ta ở đó, nơi ta đã đi qua thời thơ dại với dãy phố đến trường rợp bướm vàng bay.
Hình ảnh con bướm vàng cũng là một hình ảnh thực và đặc sắc của làng quê mà ở thành phố không bao giờ thấy được. Nhà thơ Giang Nam nhớ về tuổi thơ “Có những ngày trốn học đuổi bướm cạnh cầu ao – Mẹ bắt được chưa đánh roi nào đã khóc”, nhà thơ Huy Cận nhớ “Một giữa trưa không biết ở thời nào – Như giữa trưa nhè nhẹ trong ca dao – Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ”.
“Quê nhà là con diều biếc Tuổi thơ con thả trên đồng Quê nhà là con đò nhỏ Êm đềm khua nước ven sông”
Và nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa viết bài thơ đầu tiên của mình là bài Con bướm vàng. Ở bài thơ Quê nhà nêu trên, hình ảnh dãy phố đi học “rợp bướm vàng bay” đẹp như một giấc mơ, đẹp như trong truyện cổ tích vậy.
Phân tích bài thơ Quê nhà của Đỗ Trung Quân
“Quê nhà là cầu tre nhỏ Mẹ về nón lá nghiêng che Là hương hoa đồng cỏ nội Bay trong giấc ngủ đêm hè”
Quê nhà qua ba khổ thơ cuối
“Quê nhà là vàng hoa bí Là hồng tím giậu mồng tơi Là đỏ đôi bờ dâm bụt Màu hoa sen trắng tinh khôi Quê nhà mỗi người chỉ một Như thể chỉ một mẹ thôi Quê nhà nếu ai không nhớ…..”
Hình ảnh quê nhà đẹp đẽ, lung linh, trọn vẹn và thiêng liêng qua những kỉ niệm bình dị và ngọt ngào với cầu tre nhỏ, với nón lá mẹ đội, với hoa cỏ đồng nội và với những giấc ngủ đêm hè.
Những điều thân thuộc, những kỉ niệm dung di và những ký ức giản đơn đây chính là quê nhà, là nơi chôn rau cắt rốn của mỗi người. Bài thơ Quê nhà của Đỗ Trung Quân cũng đẹp tựa như vậy với hoa bí vàng, giậu mồng tơi, là những cánh hoa râm bụt, là đóa sen trắng tinh khiết.
Ba câu thơ kết bài như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng – một hình ảnh so sánh mang ý nghĩa thâm thúy. Quê nhà được so sánh với mẹ vì đó là nơi ta được sinh ra, được nuôi dưỡng lớn khôn, giống như người mẹ đã sinh thành nuôi ta khôn lớn trưởng thành. Vì vậy, nếu ai không yêu quê nhà, không nhớ quê nhà mình thì không trở thành một người tốt được. Lời thơ nhắc nhở mỗi tất cả chúng ta hãy luôn sống và thao tác có ích, hãy biết yêu quê nhà xứ sở, vì quê nhà là mẹ và mẹ đây chính là quê nhà, vì “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở – Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn” (nhà thơ Chế Lan Viên).
Dù có đi đâu xa, hơi thở của quê nhà vẫn bên ta, để ta luôn có một góc nhỏ bình yên với tâm hồn. Khi ta lớn lên, ta ra đi, bon chen, lặn lội trên đường đời. Bao nhiêu mệt mỏi, bao nhiêu tủi hờn, ấm ức, ta vẫn cố chịu, để rồi lúc về nhìn thấy rặng tre đầu làng, con đê trước sông và nhận ra mái nhà thân quen của ta đâu đó trong xóm, ta lại bật khóc, tiếng khóc vỡ òa ra vì để trú hết tủi hờn, đau buồn, tiếng khóc vờ vì một niềm niềm hạnh phúc vô bờ bến. Ôi ! Sao mà yêu thương thế!
Về với quê nhà, như về với ký ức, như về với bản chất con người thuần túy, quê nhà cho ta sự yên ả, tĩnh lặng, sự bình dị, thanh tịnh. Ta như điên cuồng muốn ôm lấy quê nhà mà hôn, mà yêu. Ta như muốn sờ tay vuốt ve tất cả mọi thứ, rồi hét lên rằng “Quê nhà ơi! Con đã về”. Ta chỉ muốn nhìn hết, thu hết mọi sự yêu thương ấy để vào trong tim, cho nó cùng sống, cùng chết với ta. Như vậy ta sẽ chẳng còn cô đơn, chẳng còn thương nhớ nữa.
Mọi sự vật nơi đây đều phải sở hữu một linh hồn riêng biệt. Linh hồn ấy mãi mãi chẳng đổi thay. Mọi linh hồn ấy đều sẵn sàng dang tay chào đón ta trở về. Cái đụn rơm này, cái cây đa già này, cả cái mùi khí ẩm của đất quê này… Tất cả, tất cả đều vây lấy ta, trò chuyện với ta, hơn hết chúng đã hỗ trợ ta chữa lành mọi vết thương lòng.
Với ta, quê nhà luôn gắn với vòng tay của bà, của mẹ, là nụ hôn, là giọt nước mắt. Quê mùi thơm mùi canh cà chua, tròn như quả cà, xanh như màu rau muống luộc. Đâu phải vì trước đó chưa từng ăn những thứ đó, mà sao giờ đây, nó lại ngon đến thế!. Quê nhà sôi nổi và mộc mạc trong những câu truyện vui rôm rả của làng xóm mỗi buổi tối trăng sáng, là nụ cười ngây thơ đến mê hồn của lũ trẻ em. Ta muốn yêu, yêu hết tất cả mọi thứ của mảnh đất nền này.
Nhận xét về bài thơ Quê nhà của Đỗ Trung Quân
Nhận xét về bài thơ Quê nhà của Đỗ Trung Quân
Trong bài thơ Quê nhà của Đỗ Trung Quân, nhà thơ đã sử dụng biện pháp lặp từ ngữ, lặp cấu trúc ngữ pháp câu, biện pháp liệt kê, cấu trúc thơ vắt dòng rất đặc sắc. Khung cảnh làng quê trên mọi miền Tổ quốc Việt Nam hiện lên thân thương, giản dị mà xúc động lòng người.
Những cặp câu thơ dần hiện lên như những thước phim quay chậm, cảnh vật có khoảng gần có xa, có mờ có tỏ, có lớn có nhỏ. Nhịp thơ đều đặn, uyển chuyển, gần như cả bài thơ chỉ có một nhịp 2/4.
Cả ba khổ thơ với những câu thơ cùng một nhịp, kết cấu giống nhau nhưng vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát vô cùng. Phải chăng, vẻ đẹp của những hình ảnh thơ đã làm cho những người đọc quên đi hình thức bên phía ngoài của ngôn ngữ? Nhà thơ đã biến cái không thể thành cái có thể, và được độc giả nồng nhiệt đón nhận bằng một sự đồng cảm rất tự nhiên.
Quê nhà là một khái niệm trừu tượng, nhà thơ đã cụ thể hoá nó bằng những hình ảnh sống động. Quê nhà không thể tương đương với chùm khế ngọt, lối đi học rợp bướm vàng bay, con diều biếc thả trên cánh đồng, con đò nhỏ khua nước ven sông, cầu tre nhỏ, nón lá nghiêng che, đêm trăng tỏ, hoa cau rụng trắng ngoài hè… nhưng tất cả những điều nó lại tạo sự một hình ảnh quê nhà đẹp đẽ, lung linh, trọn vẹn và thiêng liêng.