Soạn Bài Ngữ Văn Lớp 6 Bài Lao Xao / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Soạn Bài Ngữ Văn Lớp 6: Lao Xao

Soạn bài: Lao xao do Duy Khán sáng tác.

I. VỀ TÁC GIẢ Nhà văn Duy Khán (tên đầy đủ: Nguyễn Duy Khán) sinh năm 1934, mất năm 1993; nguyên quán: Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh; trú quán: thành phố Hải Phòng; hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Duy Khán sinh trưởng trong gia đình nông dân nghèo. Học dở dang trong vùng tạm chiếm, trốn ra vùng tự do nhập ngũ. Trước ở bộ binh, sau về quân chủng Phòng không Không quân. Từng làm giáo viên văn hoá trong quân đội, rồi chuyển làm phóng viên phát thanh quân đội, thường xuyên đi sát các đơn vị chiến đấu, tham gia chiến dịch Đường 9 Nam Lào 1971, chiến dịch Quảng Trị 1972. Về tạp chí Văn nghệ quân đội làm biên tập viên, phóng viên, tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975. Tác phẩm đã xuất bản: Trận mới (tập thơ, 1972); Tuổi thơ im lặng (truyện, 1986); Tâm sự người đi (tập thơ, 1987). Nhà văn đã được nhận Giải thưởng văn học Hội Nhà văn Việt Nam năm 1987 với tác phẩm: Tuổi thơ im lặng.

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Trong khi tả số rất nhiều loại chim, tác giả lựa chọn để sắp xếp theo trình tự từng nhóm loài gần nhau. Đầu tiên là nhóm những loài chim “đều có họ với nhau. Họ của chúng đều hiền cả” (bồ các, chim ri, sáo sậu, sáo đen, tu hú), tiếp đó đến bước trung gian là các loài chim nhạn, bìm bịp, chim ngói…, sau cùng là nhóm những loài chim ác (diều hâu, chèo bẻo, quạ đen, quạ khoang, cắt,…). Cách dẫn dắt lời kể rất tự nhiên: từ thiên nhiên đến con người, từ chuyện trẻ em sang chuyện các loài chim. Mặc dù mục đích chính là miêu tả thiên nhiên, tả các loài chim nhưng bài văn hẳn sẽ mất đi rất nhiều cảm giác kì thú nếu như không được miêu tả qua con mắt, trí tưởng tượng của một cậu bé. Một thiên nhiên trong sáng, đầy màu sắc và ăm ắp những kỉ niệm, những lời văn tươi rói như chưa ráo mực: Chúng tôi chạy ùa ra, con cắt còn ngấp ngoải. Bây giờ tôi mới tận mắt nhìn thấy con cắt… khiến cho bài văn có một sức sống mạnh mẽ và vô cùng tươi tắn. 2. Về các loài chim, tác giả sử dụng cách kể như không phải bằng văn mà là lời nói thường, cũng không phải do ai gợi ra mà bắt đầu từ tiếng kêu của loài bồ các để dẫn dắt lời kể; tiếp sau đó vận dụng cấu trúc của đồng dao dân gian để phát triển mạch kể. Mạch kể giữa các loài chim hiền với các loài chim ác được tiếp nối bởi sự xuất hiện của các loài chim ngói, chim nhạn và chim bìm bịp. Đặc biệt, sự xuất hiện của chim bìm bịp như là “cầu nối” (khi nó kêu thì một loạt chim ác, chim xấu mới ra mặt). Đồng thời, trong từng nhóm loài, tác giả dùng các hình ảnh sinh hoạt, tập tính của chúng để xâu chuỗi thành mạch văn phát triển hợp lí và sinh động. Trong bài văn, tác giả đã kết hợp tả và kể khá nhuần nhuyễn. Chẳng hạn: đang tả sáo sậu, sáo đen hiền thì xen kể “con sáo đen tọ toẹ học nói”; đang kể con tu hú lại kể về sự xuất hiện của mùa tu hú trong vườn nhà ông Tấn; hoặc đang kể về nguồn gốc con “bìm bịp” lại tả màu sắc, sau đó trở lại kể về môi trường sống của nó… Sự kết hợp tả và kể còn được thể hiện trong mối quan hệ đấu tranh sinh tồn giữa các loài, chẳng hạn: việc tranh cướp mồi giữa diều hâu và chèo bẻo, giữa chèo bẻo và chim cắt. Ở đoạn đầu bài văn, tác giả viết: Giời chớm hè. Cây cối um tùm. Cả làng thơm – tác giả vừa kể vừa tả, tả rồi lại kể, sau đó lại tả: Cây hoa lan nở hoa trắng xoá… Cũng như vậy, kết hợp tả và kể về các loài chim, tác giả vừa thể hiện khả năng quan sát rất tinh tế, vừa thay đổi được giọng văn làm cho mạch văn uyển chuyển, sinh động; đồng thời qua đó cũng thể hiện tình cảm gắn bó thân thiết giữa tác giả và thiên nhiên. 3. Một vẻ đẹp khác của bài văn là cách sử dụng và chuyển hoá các chất liệu văn hoá dân gian, chủ yếu là các thành ngữ, các câu hát đồng dao hay thậm chí cả những câu chuyện cổ tích. Ví dụ: Chị Diệp nhanh nhảu:

– Bồ các là bác chim ri. Chim ri là dì sáo sậu. Sáo sậu là cậu sáo đen. Sáo đen là em tu hú. Tu hú là chú bồ các… Câu hát đồng dao phổ biến của trẻ em đã được thể hiện qua lời nói của nhân vật khiến cho bạn đọc có cảm giác được sống trong một bầu không khí rất đỗi quen thuộc của văn hoá dân gian. Cũng theo cách thức tương tự, rất nhiều thành ngữ (Kẻ cắp gặp bà già, Lia lia láu láu như quạ dòm chuồng lợn) và các chi tiết trong truyện cổ tích (Sự tích chim bìm bịp, Sự tích chim chèo bẻo) được đưa vào tác phẩm làm cho mạch văn phát triển tự nhiên, lời kể sinh động mà gần gũi với đời sống con người; song đôi khi chính cách nhìn nhận và đánh giá ấy cũng mang tính định kiến, gán ghép khiên cưỡng. Ví dụ: tiếng kêu của chim bìm bịp làm cho các loài chim ác xuất hiện… 4. Bài văn đã đem đến những hiểu biết thú vị về đặc điểm, tập tính, hình dáng của một số loài chim, điều đó giúp chúng ta yêu mến hơn và có tinh thần trân trọng giữ gìn vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh sắc quê hương.

III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG 1. Tóm tắt Trời chớm hè, cây cối um tùm, ngát hương hoa, bướm ong rộn rịp xôn xao. Thế giới các loài chim ở đồng quê hiện lên thật sinh động dưới ngòi bút của tác giả. Bồ các to mồm. Chị Điệp nhanh nhảu. Rồi sáu sậu, sáo đen, tu hú, chim ngói, chim nhạn hiền lành, gần gũi với con người. Bìm bịp suốt ngày đêm rúc trong bụi cây, diều hâu hung ác bắt gà con, quạ lia lia láu láu dòm chuồng lợn, chèo bẻo kẻ cắp nhưng hung hăng, thích đánh nhau, đánh cả diều hâu lẫn quạ. Chim cắt hung dữ, không một loài chim nào trị được thế mà bị chèo bẻo đánh cho ngắc ngoải. 2. Cách đọc Tác giả vừa kể xen lẫn miêu tả. Cần đọc chậm, thể hiện sự quan sát ngộ nghĩnh và cách miêu tả sinh động tập tính của các loài chim. 3. Quan sát và miêu tả một loài chim quen thuộc ở quê em. Gợi ý: cần triển khái các ý sau. Loài chim mà em định miêu tả là gì? Nó có nhiều ở quê em không? Nó thường xuất hiện vào mùa nào? Miêu tả vẻ bên ngoài của loài chim ấy. Thói quen của loài chim ấy là gì? Sự xuất hiện của loài chim đó gợi cho em sự thích thú ra sao?

Soạn Bài: Lao Xao – Ngữ Văn 6 Tập 2

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả (mời các em tham khảo SGK Ngữ văn 6 Tập 2)

2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Văn bản Lao xao được trích từ tác phẩm Tuổi thơ im lặng của nhà văn Duy Khán, được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1987.

* Tóm tắt:

Trời chớm vào hè, cây cối um tùm, tỏa ngát hương hoa, ong bướm nhộn nhịp bay nhảy. Thế giới của các loài chim ở đồng quê hiện lên sinh động với đa dạng các loài chim. Chim Bồ các thì to mồm, chị Điệp nhanh nhảu. Rồi cả sáo sậu, sáo đen, tu hú, chim ngói, chú chim nhạn hiền lành, gần gũi với con người. Bìm bịp thì lại suốt ngày rúc trong bụi cây, chim diều hâu hung ác đuổi bắt gà con, quạ lia lia láu láu dòm chuồng lợn, chim chèo bẻo kẻ cắp nhưng hung hăng, thích đánh nhau, đánh cả diều hâu lẫn quạ. Rồi có cả chim cắt hung dữ đến mức không một loài chim nào trị được thế mà bị chèo bẻo đánh cho ngắc ngoải.

* Bố cục:

Văn bản Lao xao có thể được chia làm 2 đoạn:

Đoạn 2: còn lại: Miêu tả thế giới các loài chim.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

*  Bài văn tả và kể về các loài chim ở làng quê theo trình tự từng nhóm loài gần nhau.

a) Những loài chim được nói đến trong bài văn: bồ các, chim ri, sáo sậu, sáo đen, tu hú, quạ đen, diều hâu, quạ khoang, bìm bịp, chim cắt, chèo bẻo.

b) Các loài chim hoàn toàn được sắp xếp theo từng nhóm loài gần nhau, cụ thể: nhóm chim hiền, nhóm chim dữ và lũ chim ác.

c) Có thể nhận xét, lời kể của tác giả trong bài văn rất tự nhiên. Cách tả mỗi con vật đều rất độc đáo, rất đặc trưng cho hoạt động của mỗi loài. Không những thế, cách xâu chuỗi hình ảnh và chi tiết rất hợp lý và bất ngờ. Đặc biệt, mặc dù mục đích chính của bài văn là miêu tả thiên nhiên, miêu tả về thế giới loài chim, nhưng cảm giác lý thú và tự nhiên mà người đọc cảm nhận được chính là nhờ cảnh đó được miêu tả qua con mắt và trí tưởng tượng của một cậu bé.

Câu 2:

a) Những loài chim được miêu tả:

Chim Bồ các: tiếng kêu các các, vừa bay vừa kêu cứ như là bị ai đuổi đánh

Diều hâu: có cái mũi khoằm, đánh hơi tinh lắm

Chim cắt: cánh nhọn như dao bầu chọc tiết lợn

b) Tác giả kết hợp kể và tả trong môi trường sinh sống, trong những hoạt động của chúng và trong mối quan hệ với những loài khác:

Chim Bìm bịp kêu thì chim ác mới ra mặt

Nhạn vùng vẫy tít mây xanh “chéc chéc”

Tu hú đến khi mùa vải chín, khi quả hết, nó bay đi đâu biệt

c) Qua việc miêu tả những loài chim, cho thấy tài quan sát của tác giả rất nhạy bén, tỉ mỉ, vốn hiểu biết phong phú về những loài chim ở làng quê. Đồng thời, chúng ta cũng cảm nhận được tình cảm yêu mến và gắn bó với thiên nhiên, với làng quê của tác giả. Đặc biệt hơn khi nhà văn vẫn giữ nguyên vẹn cho mình cái nhìn và những cảm xúc hồn nhiên của tuổi thơ khi kể và tả về thiên nhiên làng quê.

Câu 3:

Trong bài có sử dụng nhiều chất liệu văn hóa dân gian như thành ngữ, đồng dao, truyện cổ tích:

Thành ngữ: Kẻ cắp gặp bà già; Dây mơ, rễ má; Lia lia láu láu như quạ vào chuồng lợn

Đồng dao: Bồ các là bác chim ri. Chim ri là dì sáo sậu. Sáo sậu là cậu sáo đen. Sáo đen là em tu hú. Tu hú là chú bồ các…

Truyện cổ tích: Sự tích chim bìm bịp, sự tích chim chèo bẻo

Cách cảm nhận đậm chất dân gian về những loài chim trong bài đã tạo nên sự sinh động trong lời kể, giúp cho mạch văn phát triển một cách tự nhiên và gần gũi với con người. Tuy nhiên, trên thực tế, những quan niệm dân gian ấy, bên cạnh nét hồn nhiên, chất phác, nét tự nhiên, gần gũi, thì không phải không có những hạn chế của cách nhìn mang tính định kiến và thiếu căn cứ khoa học. Ví dụ như từ sự tích chim bìm bịp mà cho rằng chỉ khi con chim này kêu thì những loài chim ác, chim dữ mới xuất hiện,…

Câu 4:

Bài văn Lao xao đã mang đến cho em những hiểu biết rất thú vị về các loài chim. Cho em hiểu rõ hơn về đặc điểm, tập tính, hình dáng của một số loài chim mà em chưa biết tới. Qua đó, giúp cho mỗi chúng ta ý thức hơn trong việc giữ gìn và trân trọng những vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh sắc quê hương Việt Nam.

3.4

/

5

(

184

bình chọn

)

Soạn Ngữ Văn Lớp 6 Tập 2: Lao Xao

1.Bài lao xao được trích trong tạp tự truyện tuổi thơ im lặng của nhà văn Duy Khán. Qua việc thể hiện sự phong phú của các loài chim, tác giả thể hiện tình yêu tha thiết đối với vẻ đẹp của thiên nhiên làng quê.

2.Khả năng quan sát và miêu tả sinh động của tác giả.

II.Hướng dẫn đọc hiểu văn bản

1.Bài văn được bắt đầu bằng những đường nét tả cảnh thiên nhiên (thời gian, không gian, hương vị, âm thanh) rồi đến sự xuất hiện của con người; dường như có sự nối tiếp âm thanh “lao xao” của thiên nhiên bằng âm thanh “râm ran” của đám trẻ.

a)Trình tự tên của các loài chim được nói đến.

+ bồ các, chim ri, sáo râu, sáo đen, tu hú.

+ chim ngói, nhạn, bìm bịp.

+ Diều hâu, chèo bẻo, quạ đen, quạ khoang, cắt.

b)Trong bài văn, tác giả rất nhiều loài chim, song không phải tả một cách ngẫu nhiên hay lộn xộn. trái lại, việc lựa chọn để sắp xếp thứ tự tả ở đây có trình tự rõ rệt theo từng nhóm loài gần nhau:

+ Đầu tiên là nhóm loài chim ” đều có họ với nhau. Họ của chúng đều hiền cả”.

+ Tiếp đó là chim ngói, nhạn, bìm bịp giống như bước trung gian;

+ Sau cùng là nhóm những loài chim ác.

c)Cách dẫn dắt lời kể rất tự nhiên: từ thiên nhiên đến con người, từ chuyện trẻ em sang chuyện các loài chim.

Riêng chuyện các loài chim, tác giả sử dụng cách kể như không phải bằng văn mà là lời nói thường, cũng không phải do ai gợi ra mà bắt đầu từ tiếng kêu của loài bồ các để dẫn dắt lời kể; tiếp sau đó vận dụng cấu trúc của đồng dao dân ca để phát triển mạch kể.

Mạch kể giữa các loài chim hiền với các loài chim ác, được tiếp nối bởi sự xuất hiện của các loài chim ngói, chim nhạn và chim bìm bịp. Đặc biệt, sự xuất hiện của chim bìm bịp như là “cầu nối” (khi nó kêu thì một loạt chim ác, chim xấu mới ra mặt). Đồng thời , trong từng nhóm loài, tác giả dùng các hình ảnh sinh hoạt, tập tính của chúng để xâu chuỗi thành mạch văn phát triển hợp lí và sinh động.

2.a)Nghệ thuật miêu tả các loài chim: tác giả tập trung tả những yếu tố nổi bật riêng của từng loài ( tiếng kêu, cách bay, thói quen, hình dáng,..), tạo nên sự phong phú đa dạng:

+ Chim bồ các” kêu váng lên”

+ Sáo sậu, sáo đen đậu cả lên lưng traai mà hót mừng được mùa;

+ Chim ngói sạt qua;

+ Nhạn vùng vẫy tít mây xanh ” chéc, chéc”;

+ Bìm bịp ” suốt đêm ngày rúc trong bụi cây”;

+ Diều hâu bay cao, mũi khoằm, đánh hơi tinh;

+ Chèo bẻo ” những mũi tên đen, mang hình đuôi cá từ đâu tới tấp bay đến”;

+ Quạ ” lia lia láu láu”…

Loài chim hiền được miêu tả bằng tiếng kêu và tiếng hót. Loài trung gian được miêu tả qua màu sắc, tiếng kêu, loài chim ác được miêu tả qua hoạt động bắt mồi và cách sinh tồn.

b)Trong bài văn, tác giả đã kết hợp tả và kể khá nhuần nhuyễn. Chẳng hạn: đang tả sáo sậu, sáo đen hiền thi xen kể ” con sáo đen to toe học nói”; đang kể con tu hú lại kể về sự xuất hiện mùa tu hú trong vườn nhà ông Tấn; hoặc đang kể về nguồn gốc con ” bìm bịp” lại tả màu sắc, sau đó trở lại kể về môi trướng sống của nó..

Sự kết hợp tả và kể còn được thể hiện trong mối quan hệ đấu tranh sinh tồn giữa các loài chẳng hạn; việc tranh cướp mồi giữa diều hâu và chèo bẻo, giữa chèo bẻo và chim cắt.

c)Ở đoạn đầu bài văn, tác giả viết. :Giời chớm hè, cây cối um tùm, cả làng thơm – tác giả vừa kể vừa tả, tả rồi lại kể, sau đó lại tả: cây hoa lan nở hoa trắng xóa…

Cũng như vậy, kết hợp với tả và kể về các loài chim , tcs giả vừa thể hiện khả năng quan sát tinh tế, vừa thay đổi được giọng văn làm cho mạch văn uyển chuyển sinh động; đồng thời qua đó cũng thể hiện tình cảm gắn bó thân thiết giữa tác giả và thiên nhiên

3.Trong bài văn, tác giả có sử dụng số chất liệu văn hoa dân gian:

+ Bồ các là bác chim ri. Chim ri là dì sáo sậu. Sáo sậu là cậu sáo đen. Sáo đen là em tu hú. Tu hú là chú bồ các (đồng dao);

+ Dây mơ, rễ má (thành ngữ);

+ Kẻ cắp gặp bà già, lia lia láu láu như qua dòm chuồng lợn (thành ngữ)

+ Sự tích chim bìm bịp, sự tích chim chèo bẻo (cổ tích).

Cách sử dụng chất liệu dân gian nối tren làm cho mạch văn phát triển tự nhiên, lời kể sinh động mà gần gũi với đời sống con người; song đôi khi chính cách nhìn nhận và đánh giá ấy cũng mang tính định kiến, gán ghép khiên cưỡng. Ví dụ: tiếng kêu của chim bìm bịp làm cho các loài chim ác xuất hiện…

4.Bài văn đã đem đến những hiểu biết thú vị về đặc điểm, tập tính, hình dáng của một số loài chim, từ đó giúp chúng ta yêu mến hơn và có tinh thần trân trọng giữ gìn vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh sắc quê hương.

III.Hưỡng dẫn luyện tập

Có thể quan sát và miêu tả chim bồ câu, chim cút, chim sau, chim sáo…

1.Về tác giả

Duy Khán (1934-1993) tên dầy đủ là Nguyễn Duy Khán ở quê Xã Nam Sơn. Huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, sinh sống tại thành phố Hải Phòng, ông là Đảng viên Đảng cộng Sản Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

Duy khán sinh trường trong một gia đình nông dân nghèo,. Học dở dang trong vùng tạm chiếm, trốn ra vùng tự do nhập ngũ. Trước ở bộ binh, sau vè quân chủng phòng không không quân. Từng làm giáo viên văn hóa trong quân đội, sau làm phóng viên buổi phát thanh quân đội, thường xuyên đi sát các đơn vị chiến đấu, tham gia chiến dịch Đường 9 Nam Lào 1971, chiến dịch Quảng Trị 1971 về tạp chí văn nghệ quân đội làm biên tập viên, phóng viên, tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh 1975, về hưu với quân hàm Đại tá.

Tác phẩm đã xuất bản: Trận mới ( Thơ, 1972), tuổi thơ im lặng (hồi kí, 1985) tâm sự người đi ( thơ, 1984

Duy Khán đã được nhận giải thưởng văn học hội nhà văn Việt nam năm 1987 với tác phẩm tuổi thơ im lặng.

2.Về tác phẩm.

Bằng một giọng văn hết sức giản dị, một lối viết cực kì chân thật, chỉ trong một trăm trang sách, Duy Khán như đã làm sống lại cái làng quê nhỏ bé của anh gần nửa thế kỉ trước với gia cầm, chim chóc, cây côi, hoa lá, đồng ruộng, núi non,.. và nổi bật lên là số phận những con người lam lũ qua bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu biến cải… Những ai chưa sống ở thôn quê thuổ trước, qua tuoir thơ im lặng sẽ biết về những vùng đất nhiều cảnh, nhiều người, nhiều việc không bao giờ con trở lại. Những ai đã từng sống ở đó, qua tuổi thơ im lặng sẽ được thức dậy bao nhiêu kỉ niệm vui buồn.

Tuổi thơ im lặng là một tập văn xuôi đầy chất thơ, đớn đau nhưng đằm thắm và đôn hậu. Đó là những tâm tình sâu lắng nhất, cái làm nên nền tảng của tâm hồn, để anh bước vào cuộc kháng chiến, vào văn chương. Cái nghiệp văn không ít lo toan, vật vã nhưng cũng xiết bao hạnh phúc.

Soạn Văn Lớp 6 Bài Lao Xao Ngắn Gọn Hay Nhất

Soạn văn lớp 6 bài Lao xao ng ắn gọn hay & đúng nhất: Câu 2 (trang 113 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2): Nhận xét nghệ thuật miêu tả các loài chim. Cụ thể: a) Chúng được miêu tả về những phương diện nào và mỗi loài được miêu tả kĩ ở điểm gì? (hình dạng, màu sắc, tiếng kêu hoặc hót, hoạt động và đặc tính). b) Kết hợp tả và kể như thế nào? Tìm những dẫn chứng cho thấy các loài chim được tả trong môi trường sinh sống, hoạt động của chúng và trong mối quan hệ giữa các loài.

Soạn văn lớp 6 trang 113 tập 2 bài Lao xao ngắn gọn hay nhất

Câu 1 (trang 113 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):

Câu hỏi bài Lao xao lớp 6 tập 2 trang 113

Đọc bài văn Lao xao (Duy Khán) và trả lời các câu hỏi:

a) Thống kê theo trình tự tên của các loài chim được nói đến.

b) Tìm xem các loài chim có được sắp xếp theo từng nhóm loài gần nhau hay không?

Câu 2 (trang 113 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):

c) Tìm hiểu cách dẫn dắt lời kể, cách tả, cách xâu chuỗi hình ảnh, chi tiết.

Nhận xét nghệ thuật miêu tả các loài chim. Cụ thể:

a) Chúng được miêu tả về những phương diện nào và mỗi loài được miêu tả kĩ ở điểm gì? (hình dạng, màu sắc, tiếng kêu hoặc hót, hoạt động và đặc tính).

b) Kết hợp tả và kể như thế nào? Tìm những dẫn chứng cho thấy các loài chim được tả trong môi trường sinh sống, hoạt động của chúng và trong mối quan hệ giữa các loài.

c) Nhận xét về tài quan sát và tình cảm của tác giả với thiên nhiên, làng quê qua việc miêu tả các loài chim.Câu 3 (trang 113 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):

Trong bài có sử dụng nhiều chất liệu văn hoá dân gian như thành ngữ, đồng dao, kể chuyện. Hãy tìm các dẫn chứng.

Câu 4 (trang 113 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):

Cách cảm nhận đậm chất dân gian về các loài chim trong bài tạo nên nét đặc sắc gì và có điều gì chưa xác đáng?

Bài văn đã cho em những hiểu biết gì mới và những tình cảm như thế nào về thiên nhiên, làng quê qua hình ảnh các loài chim?

Sách giải soạn văn lớp 6 bài Lao xao

Trả lời câu 1 soạn văn bài Lao xao trang 113

Trình tự kể tả các loài chim được nói đến:

– Bồ các, chim ri, sáo sậu, sáo đen, tu hú

– Chim ngói, nhạn, bìm bịp

– Diều hâu, chèo bẻo, quạ đen, quạ khoang, cắt.

– Trong bài, tác giả nhắc tới rất nhiều loài chim ở làng quê song không phải tả một cách ngẫu nhiên hay lộn xộn. Việc lựa chọn sắp xếp thứ tự tả có trình tự rõ rệt theo từng nhóm gần nhau:

+ Lý giải việc các loài chim có họ với nhau.

+ Tiếp đó là chim ngói, nhạn, bìm bịp giống bước trung gian.

+ Sau cùng là những loài chim ác.

– Cách dẫn dắt truyện tự nhiên, từ thiên nhiên đến con người, từ chuyện trẻ em đến chuyện các loài chim.

+ Mở đầu bằng tiếng kêu của bồ các để dẫn dắt lời kể, tiếp đó vận dụng cấu trúc đồng dao dân ca để phát triển mạch kể theo cấu trúc dân ca đồng dao để phát triển mạch kể.

Trả lời câu 2 soạn văn bài Lao xao trang 113

Tác giả tập trung vào những yếu tố nổi trội riêng của từng loài (tiếng kêu, cách bay, thói quen, hình dáng…) tạo nên sự phong phú, đa dạng.

– Chim bồ các kêu “váng” lên

– Cậu sáo sậu, sáo đen đậu lên cả lưng trâu mà hót mừng được mùa.

– Chim ngói sạt qua.

– Nhạn vùng vẫy tít mây xanh “chéc, chéc”

– Bìm bịp “suốt đêm ngày rúc rích trong bụi cây.

– Diều hâu bay cao, mũi khoằm, đánh hơi tinh.

– Chèo bẻo “những mũi tên đen, mang hình đuôi cá từ đâu tới tấp bay đến.

– Qụa lia lia láu láu…

→ Loài chim hiền được miêu tả bằng tiếng kêu và tiếng hót, loài trung gian được qua miêu tả màu sắc và tiếng kêu, loài chim ác qua miêu tả hoạt động bắt mồi và cách sinh tồn.

b, Tác giả kết hợp giữa tả và kể khá nhuần nhuyễn, tuần tự.

– Sự kết hợp giữa kể, tả trong mối quan hệ đấu tranh sinh tồn giữa các loài:

+ Việc tranh cướp mồi giữa diều hâu và chèo bẻo.

+ Tranh mồi giữa chèo bẻo và chim cắt.

c, Tác giả kết hợp kể, tả về các loài chim, tác giả vừa thể hiện khả năng quan sát tinh tế , vừa thay đổi được giọng văn mềm mại uyển chuyển.

– Thể hiện sự quan sát tỉ mỉ, nhấn mạnh vào đặc điểm riêng biệt của loài chim như một xã hội loài người có hiền, dữ, mâu thuẫn được giải quyết bằng bạo lực…

→ Tình cảm, sự gắn bó mật thiết giữa tác giả với thiên nhiên.

Trả lời câu 3 soạn văn bài Lao xao trang 113

Chất liệu văn hóa dân gian.

Trong bài văn tác giả sử dụng một số chất liệu văn hóa dân gian:

– Bồ các là bác chim ri, chim ri là rì sáo sậu…. tu hú là chú bồ các

– Dây mơ, rễ má

– Kẻ cắp gặp bà già

– Sự tích chim bìm bịp

→ Cách sử dụng chất liệu dân gian nói trên làm cho mạch văn phát triển tự nhiên, lời kể gần gũi mà sinh động với con người.

Tuy nhiên cách nhận định, đánh giá trên mang tính định kiến, gán ghép khiên cưỡng.

Trả lời câu 4 soạn văn bài Lao xao trang 113

– Bài văn đem đến những thông tin thú vị về các loài chim, từ tập tính, hình dáng cho tới thói quen bắt mồi…

– Giúp ta thêm hiểu, trân trọng vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương.

Câu hỏi Phần Luyện Tập bài Lao xao lớp 6 tập 2 trang 114

Nội dung: Quan sát và miêu tả một loài chim quen thuộc ở quê em.

Sách giải soạn văn lớp 6 bài Phần Luyện Tập

Trả lời câu soạn văn bài Phần Luyện Tập trang 114

Quan sát và miêu tả một loài chim quen thuộc ở quê em.

Cần triển khái các ý sau:

– Loài chim mà em định miêu tả là gì?

– Nó có nhiều ở quê em không? Nó thường xuất hiện vào mùa nào?

– Miêu tả vẻ bên ngoài của loài chim ấy.

– Thói quen của loài chim ấy là gì?

– Sự xuất hiện của loài chim đó gợi cho em sự thích thú ra sao?

Tags: soạn văn lớp 6, soạn văn lớp 6 tập 2, giải ngữ văn lớp 6 tập 2, soạn văn lớp 6 bài Lao xao ngắn gọn, soạn văn lớp 6 bài Lao xao siêu ngắn