Soạn Bài Lão Hạc Ngữ Văn 8 / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Soạn Bài Lão Hạc Ngữ Văn 8

(Soạn văn lớp 8) – Em hãy Soạn bài Lão Hạc Ngữ Văn 8 của Nam Cao (Bài làm của học sinh Đỗ Minh Hải)

Câu 1: Tâm trạng của lão Hạc xung quanh việc bán chó

– Sau khi con trao lão Hạc đi làm đồn điền cao su, lão chỉ có cậu Vàng làm bầu bạn. Con chó vừa là kỉ vật cuối cùng mà người con trai để lại cho lão, là bạn của lão. Lão đã suy tính, đắn đo nhiều khi phải bán “cậu Vàng”. Bán nó là việc bất đắc dĩ vì lão nghèo, yếu sau trận ốm, không ai giúp đỡ. Cậu Vàng ăn rất khoẻ, lão không nuôi nổi.

Sau khi bán chó, lão Hạc sang nhà ông giáo và kể lại việc bán chó cho ông giáo nghe. Qua đoạn văn này, Nam Cao đã khắc họa tâm trạng của lão: “Lão cố làm ra vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu, đôi mắt ầng ậng nước …Mặt lão đột nhiên co rúm lại , vết nhăn xô lại , ép cho nước mắt chảy ra, đầu ngoẹo, miệng mếu máo như con nít…hu hu khóc”. Những chi tiết miêu tả ngoại hình của lão Hạc, gợi lên gương mặt cũ kĩ, già nua, khô héo, một tâm hôn đau khổ đến cạn kiệt cả nước mắt, một hình hài đáng thương. Tác giả sử dụng một loạt từ láy: ầng ậng, móm mém, hu hu … lột tả sự đau đớn, hối hận, xót xa, thương tiếc dâng trào, đang vỡ oà. Cách thể hiện chân thật cụ thể, chính xác diển biến tâm trạng nhân vật rất phù hợp với tâm lý, hình dáng của người già.

Sau khi bán chó, lão Hạc cứ day dứt, ăn năn vì “già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”. Cả đời, ông già nhân hậu này nào đã lỡ lừa ai !

b) Qua đó tâm trạng của lão Hạc xung quanh việc bán chó, chúng ta có thể hình dung lão Hạc là người có tấm lòng nhân hậu. Và hơn hết, ta càng thấm thía lòng thương con sâu sắc của người cha nghèo khổ. Lão Hạc có lẽ đã mòn mỏi đợi chờ và ăn năn “mắc tội với con. Cảm giác day dứt vì không cho con bán vườn cưới vợ nên lão có tích cóp dành dụm để khoả lấp cảm giác ấy. Dù rất thương cậu Vàng nhưng cũng không thể phạm vào đồng tiền, mảnh vườn cho con.

Câu 2: Tinh cảnh khốn khổ, túng quẫn đã đẩy lão Hạc đến cái chết. Lão tự chọn lấy cái chết để bảo toàn căn nhà và mảnh vườn dành cho đứa con trai. Cái chết của lào xuất phát từ tấm lòng thương con của một người cha. Cái chết của lào còn như là một hành động tự giải thoát. Đó cũng chính là số phận đáng thương của những người nông dân nghèo ở những năm đen tối trước Cách mạng tháng Tám.

– Nếu lão Hạc tham sống lão có thể sống lâu được vì lão còn 30 đồng, 3 sào vườn nhưng lão làm thế thì ăn vào tiền , vốn liếng cuối cùng để cho con

– Lão đã âm thám chuẩn bị chu đáo, thu xếp cẩn thận cái chết cho mình. Lão nhịn ăn sau khi bán chó, chứ không muốn gây phiền bà cho hàng xóm. Điểu này cho thấy lão là người hay suy nghĩ và tỉnh táo nhận ra tình cảnh của mình lúc này. Qua đó, chúng ta thấy lão có lòng tự trọng đáng kính và rất mực thương yêu con. Lão thà nhịn ăn chứ không muốn gây phiền hà cho hàng xóm, láng giềng. Lão thà chết chứ không muốn sống và phạm vào những đồng tiền để dành cuối cùng cho con.

Câu 3: Thái độ và tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc:

– Ông giáo là trí thức nghèo sống ở nông thôn, giàu tình thương, lòng tự trọng thân thiết, là người lão Hạc tâm sự để tìm nguồn an ủi; giúp đỡ lão Hạc.

– Lúc đầu, khi nghe lão Hạc nói về việc bán chó, ông giáo rất dửng dưng, vì nghĩ chỉ bán một con chó thôi thì làm sao mà lão lại phải suy nghĩ như thế. Và ông nghĩ rằng việc bán chó là việc hết sức bình thường.

– Nhưng sau đó, khi thấy lão Hạc rất đau đớn, ăn nặn, hối lỗi vì đã phải bán đi cậu Vàng, ông giáo “muốn ôm chầm lấy lão mà òa lên khóc”. Ông rất thấu hiểu, đồng cảm với nỗi đau của lão.

Câu 4: Khi nghe Binh Tư nói lão Hạc xin bả chó, ông giáo ngỡ ngàng thấy cuộc đời đáng buồn nhưng khi chứng kiến cái chết của lão Hạc, ông giáo lại có cảm nhận khác: ” Chao ôi ! Đối với những người ở quanh ta…đáng buồn” và ” Không! cuộc đời chưa hẳn… một nghĩa khác”.

– Chi tiết xin bả chó là một chi tiết quan trọng, ông lão giàu tình thương và lòng tự trọng đã đi đến quyết định cuối cùng “đánh lừa” ý nghĩ của mọi người từ tốt đẹp sang hướng khác đẩy những con người đáng kính đến bước đường cùng bị tha hoá như lời nói mỉa mai của Binh Tư. Và khi nghĩ lão Hạc xin bả chó của Binh Tư để giết thịt một con chó, ông giáo nghĩ rằng “con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư?”, vì vậy, ông thấy cuộc đời thật đáng buồn.

– Và khi thấy lão Hạc chết một cách vật vã, đau đớn, bằng chính cái bả chó mà ông đã xin. Ông giáo giật mình và ngẫm nghĩ về cuộc đời, mình đã không đúng. Đáng buồn theo nghĩa khác: những con người tốt đẹp như lão Hạc mà không được sống phải tìm cái chết vật vã dữ dội.

– Cái hay, hấp dẫn ở truyện nằm ở việc miêu tả tâm lý nhân vật và cách kể chuyện.

+ Diễn biến tâm lý của lão Hạc xung quanh chuyện bán chó

+ Sự thay đổi thái độ, tình cảm của ông giáo từ dửng dưng đến cảm thông, chia sẻ, kính trọng

– Việc tạo dựng tình huống bất ngờ: lão Hạc tự tử bằng bả chó, có tác dụng làm cho truyện trở nên hấp dẫn.

– Cách xây dựng nhân vật có nét đặc sắc: cả hai nhân vật đều có vẻ đẹp của nhân cách, phẩm giá dù họ có nỗi khổ riêng. Lão Hạc giàu tình thương, lòng tự trọng, trung thực. Ông giáo tử tế, biết chia sẻ, đồng cảm. Tác giả đã khắc hoạ nhân vật tài tình: bộ dạng,cử chỉ của lão Hạc khi kể chuyện với ông giáo , miêu tả cái chết lão Hạc ; suy nghĩ của ông giáo tâm lí nhân vật rất thành công.

– Cách kể chuyện bằng ngôi thứ nhất:

+ Khiến câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực, tác giả như người chứng kiến câu chuyện.

+ Cốt truyện linh hoạt dịch chuyển không gian, thời gian, kết hợp kể và tả với hồi tưởng bộc lộ trữ tình

+ Tác phẩm có nhiều giọng điệu: vừa tự sự vừa trữ tình, vừa triết lý sâu sắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự và trữ tình

Câu 6: Sau khi vợ nhận xét không hay về lão Hạc, ông giáo suy nghĩ: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố gắng mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bí Ổi… toàn những cái cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương: không bao giờ ta thương…”.

Câu nói này thể hiện triết lý của nhà văn về cách nhìn đời, nhìn cuộc sống, cách nhìn nhận và cách đánh giá người khác. Đối với những người ở xung quanh mình, chúng ta cần phải “cố gắng mà hiểu họ”, tức là chúng ta phải biết đồng cảm, thấu hiểu,… Nếu không, thì tất cả mọi người, đều chỉ là những người xấu mà thôi.

Câu 7: Qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc chúng ta hiểu hơn về cuộc đời và tính cách người nông dân trong xã hội cũ:

– Tình cảnh của người nông dân trong xã hội cũ: nghèo khổ, bế tắc, bị bần cùng hoá trong xã hộ thực dân nửa phong kiến.

– Họ có vẻ đẹp tâm hồn cao quý, lòng tận tuỵ hi sinh vì người thân.

( Tức nước vỡ bờ sức mạnh của tình thương, của tiềm năng phản kháng. Lão Hạc: ý thức về nhân cách, lòng tự trọng, yêu thương…)

Soạn Bài Lão Hạc Trang 38 Sgk Ngữ Văn 8

Soạn bài Lão Hạc trang 38 SGK ngữ văn 8

Sau khi vợ nhận xét không hay về lão Hạc, ông giáo suy nghĩ: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố gắng mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bí Ổi… toàn những cái cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương: không bao giờ ta thương…”.

1. Diễn biến tâm trạng của lão Hạc xung quanh việc bán cậu vàngMặc dù rất yêu thương con chó Vàng, nhưng lảo Hạc cũng phảibán đi vì không nuôi nối nó và sợ tiêu lạm vào số tiền lâu nay lão dành dụm cho đứa con trai, đứa con vì nghèo mà phẫn chí bỏ làng đi:Nỗi đau của người cha bất hạnh này là ở chỗ đó.Lão Hạc toan tính mãi, dằn vặt mãi và do dự mãi mới quyết định gọi người tới bán.Khi chuyện trò với ông giáo về việc bán con chó Vàng, lão cố làm ra vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước… Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhãn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo uể một bên và cái miệng móm mém của lão mếu máo như con nít. Lão hu hu khóc… Lão Hạc cứ day dứt, ăn năn mãi vì già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó. Nhũng chi tiết miêu tả bộ dạng, cứ chỉ của lão lúc ấy cho thấy nội tâm của lão đang đau đớn, xót xa, ân hận đến cùng cực.Tình cảm của lão Hạc đối với con chó Vàng là sự thể hiện gián tiẽp tình yêu thương sâu nặng của lão đối với con trai. Từ ngày anh con trai phẫn chí bỏ nhà đi phu đồn điền cao su vì không có tiền cưới vợ, lão Hạc ở nhà đợi con về luôn mang tâm trạng day dứt vì đã không cho con bán vườn lấy vợ. Lão ân hận thấy mình có lỗi vì không lo liệu nổi cho con. Lão cố tâm dành dụm đế khỏa lấp mặc cảm ấy! Do vậy, dù rất thương cậu Vàng nhưng đến nỗi này thì lão cũng phải bán, vì không muốn tiêu phạm vào đồng tiền và mảnh vườn mà lão cố giữ cả cho con trai. Việc phải bán cậu Vàng cho thấy tình thương con của lão Hạc sâu nặng biết bao.2. Nguyên nhân cái chết của lão Hạc. Suy nghĩ về tình cảnh cùng đường và về bán chất, tính cách của lão qua những điểu lão thu xếp nhờ cậy “ông giáo” rồi sau đó tìm đến cái chếtTình cảnh túng quẫn, đói khổ ngày càng đe dọa lão Hạc và đấy lão vào con đường chết, tìm một lối thoát cuối cùng. Đủ thấy số phận bi thảm của những người nông dân nghèo khổ ớ những năm đen tối trước Cách mạng tháng Tám.Nhưng suy cho cùng, việc lão tìm đến cái chết một cách tự nguyện cũng vì con. Nên nhớ, khi đó lão Hạc còn ba mươi đồng bạc (một số tiền khá lớn thời bấy giờ) và mảnh vườn ba sào. Nhưng lão nhất quyết không tiêu phạm vào cái vốn liếng cuối cùng mà lão đã dành cho con trai lão. Lão Hạc cũng là người đầy khí tiết, có lòng tự trọng. Thà chịu đói, chịu chết chứ không nhờ người khác.Qua những điều lão Hạc thu xếp và nhờ cậy ” ông Giáo ” , ta thấy lão là người cấn thận, chu đáo, hay suy nghĩ và nhận biết rõ tình cảnh của mình khi đó. Lão đau đáu một nỗi lo không giừ được ba sào vườn cho con trai. Lão tự trọng, không muốn gây phiền hà cho lối xóm bà con nên đã âm thầm lo liệu mọi đường cho cái chết của mình từ khi bán “cậu Vàng”.3. Thái độ, tình cảm của “ông giáo” dối với lão HạcKhi nghe lão Hạc kể chuyện, “ông giáo” ái ngại cho tình cảnh của lão. Ông an ủi và sau đó nhận lời nhờ cậy của lão. Nhiều lúc ông đã giấu giếm vợ ngấm ngầm giúp dỡ cho người láng giềng tội nghiệp này. Khi hiểu lầm lão Hạc làm liều, ông giáo hơi thất vọng, cảm thấy cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm dáng buồn. Vì xưa nay, ông vẫn tin vào nhân cách của lảo Hạc.Đến lúc hiểu ra đó chĩ là sự hiểu lầm. Cái chết của lão Hạc càng làm sáng tỏ thêm vẻ đẹp tâm hồn của lão. Ống giáo thấy “cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn” vì cuộc đời vẫn không làm mất đi niềm tin của ông vào bản chất lương thiện của người nông dân lao động. Ông giáo tự hứa trao lại số tiền và ba sào vườn lão đã gửi gắm cho con trai của lão.4. Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc xin bả chó đế định bắt một con chó hàng xóm thì “ông giáo” cảm thấy “cuộc đời quá thật đáng buồn”. Nhưng khi chứng kiến cái chết đau đớn cùa lảo Hạc ”ông giáo” đã nghĩ: “Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”.Ông giáo cảm thấy: “Cuộc đời quá thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn” vì lâu nay ông vẫn tin vào nhân cách của lão Hạc, đâu ngờ “bần cùng sinh dạo tặc” “đến lúc cùng Lão cũng có thể làm liều như ai hết”.Nhưng đó chỉ là hiểu lầm. Lão Hạc xin bả chó là đế tự kết liều dời mình. Cái chết đột ngột càng làm sáng đẹp thêm những phẩm chất đáng quý của lão. Vì vậy, ông giáo cảm thấy: “Không! Cuộc đời chưa hẳn là đáng buồn” ( vì cuộc đời vẫn còn những con người đáng quý thà chịu chết vật vã đau đớn mà không làm phiền lụy con cái, láng giềng). Sở dĩ ông giáo lại nghĩ: “nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác” là vì trong cuộc đời ấy, những con người lương thiện như lão Hạc không có đất sống, cái giá của người gìn giữ nhân cách đã được nhà văn thế hiện một cách thành công.5. Đặc sắc nghệ thuật của truyệna) Nghệ thuật xây dựng nhân vật chủ yếu là qua nhân vật lão Hạc:Nhà văn Nam Cao rât điêu luyện trong việc xây dựng nhân vật lão Hạc. Bằng phương pháp đối lập, nhà văn tạo vé bề ngoài cho lão Hạc dường như lẩm cấm, gàn dở, đôi lúc bị nghi ngờ là phường “đâm heo thuốc chó” nữa. nhưng bên trong lão lại là một người có vẻ đẹp tâm hồn cao quý, đáng kính trọng. b) Cách dựng truyệnNhà văn dựng truyện chân thực và sinh động. Ông dẫn người đọc vào mạch truyện đầy khéo léo, bất ngờ. Càng lúc truyện càng căng thẳng qua đó, bộc lộ tính cách nhân vật. Anh con trai vì nghèo đói bỏ làng ra đồn điền cao su kiếm tiền Lão Hạc ở nhà chăm sóc con chó của con như một kỉ vật. Rồi do bệnh tật, thất nghiệp, đói kém, lão phải bán chó. Vẫn đói kém do sợ tiêu mất tiền dành dụm, mất vườn của con nên lão gửi tiền và văn tự bán vườn cho ông giáo. Lão xin bả chó của Binh Tu để tự tử. Cái chết đột ngột của lão để giải quyết mâu thuẫn giữa tình thương con và sự đói nghèo. Việc lão xin bả chó của Binh Tư tạo sự hiẽu lầm hấp dẫn làm cho hình ảnh lão Hạc sau đó, khi mọi việc được hiểu đúng, sáng đẹp hơn biết bao lần…c) Ngôn ngữ của truyệnTruyện được viết với nghệ thuật ngôn ngữ cô đọng. Nét nối bật là ngôn ngữ đối thoại và độc thoại đầy chất trữ tình mang cả tình cảm, suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật.6. Sau khi vợ nhận xét không hay về lão Hạc, ông giáo suy nghĩ: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố gắng mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bí Ổi… toàn những cái cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương: không bao giờ ta thương…”.Suy nghĩ cúa ông giáo thế hiện cách nhìn nhận người nông dân của nhà văn Nam Cao. Theo nhà văn, chúng ta phải nhìn nhận và đánh giá bằng đôi mắt của tình thương và lòng tin mới thấy hết được bản chất tôt đẹp cùa họ. Đây đúng là một quan điểm tiến bộ, đúng đắn và sâu sắc, đầy tính nhân văn của nhà vàn Nam Cao.7.Cảm nhận về cuộc đời và tính cách người nông dân xã hội cũ qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão HạcTừ đoạn trích Tức nước vờ bờ và truyện ngắn Lão Hạc, người đọc thấy được tình cảnh túng quẫn, nghèo khổ cùng đường của tầng lớp nông bần cùng trong xã hội thực dân nửa phong kiến.Lấp lánh trong từng trang văn ấy là vẻ đẹp tâm hồn cao quý. lòng tận tụy hi sinh vì người thân ruột thịt của con người lam lũ, cùng khổ nhưng rất đáng kính trọng ấy.Nếu vẻ đẹp tâm hồn của chị Dậu là sức mạnh cua tình thương yêu, của tiềm năng phản kháng thì vẻ đẹp của lão Hạc là vẻ đẹp của nhân cách: của hoa sen nở cánh trong bùn, của con cò lộn cố xuống ao dù chết cũng muốn chết trong sạch.

Giải Vbt Ngữ Văn 8 Lão Hạc

Lão Hạc

Câu 1 (Câu 1 trang 48 SGK Ngữ Văn 8 Tập 1):

Trả lời:

a. Diễn biến tâm trạng của lão Hạc:

– Lão Hạc rất yêu quý và trân trọng cậu Vàng (coi nó như người bạn, người con của mình).

– Trong tình thế khốn cùng (ốm đau, bão đi qua) Lão Hạc vô cùng nghèo túng. Vì không muốn bán mảnh vườn của con trai nên đã quyết định bán cậu Vàng.

– Đến tâm sự cùng ông giáo, cố tỏ ra vui vẻ nhưng vô cùng đau khổ, dằn vặt.

– Cảm thấy hối hận, sống bạc bẽo lão với một con chó, lão Hạc đã tìm đến một cái chết vô cùng đau đớn.

b. Vẻ đẹp tâm hồn của lão Hạc: Là một người hiền lành, sống tình nghĩa.

Câu 2: Lão Hạc đã tự thu xếp cuộc đời mình ra sao sau khi bán con chó Vàng? Tại sao lão chọn cho mình cái chết, lại là một cái chết “thật dữ dội” như thế?

Trả lời:

– Sau khi bán chó, lão Hạc đã âm thầm tự thu xếp cuộc đời mình một cách cẩn thận, chu đáo và rất tội nghiệp:

+ Gửi nhờ ông giáo ba sào vườn cho thằng con

+ Gửi ông giáo ba mươi đồng bạc để nhờ lo ma chay khi lão mất

+ Đi xin bả chó của Binh Tư.

– Cuối cùng lão chọn cho mình cái chết, một cái chết “thật là dữ dội” là vì: lão chết vì đã lâm vào cảnh khốn cùng, đói nghèo. Lão chọn cái chết thật dữ dội để chuộc lỗi cùng cậu vàng, ông dằn vặt, áy náy khi đã bán cậu vàng đi nên đã chọn cái chết giống như cậu vàng.

– Ngòi bút Nam Cao là ngòi bút thật xuất sắc về nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật: Qua từng cử chỉ, nét mặt, từng lời đối thoại, độc thoại nội tâm đã toát lên suy nghĩ nội tâm của nhân vật.

Câu 3 (Câu 3 trang 48 SGK Ngữ Văn 8 Tập 1):

Trả lời:

Diễn biến truyện Thái độ, tình cảm của nhân vật “tôi”

Lão Hạc tâm sự về việc bán chó

Động viên, an ủi, đồng cảm với lão Hạc

Chứng kiến cuộc sống của lão những ngày sau đó

Thương cảm cho cuộc sống của Lão hạc, giấu vợ ngấm ngầm giúp lão Hạc

Sau buổi nói chuyện với Binh Tư

Ngạc nhiên, cảm thấy đáng buồn

Chứng kiến cái chết của lão Hạc

Nhận ra được phẩn chất cao đẹp của lão Hạc, xót thương, đồng cảm trước cái chết đầy đau đớn của lão

– Nhận xét về ngòi bút nhân đạo của nhà văn: Ngòi bút Nam Cao đã thể hiện niềm đồng cảm, xót thương đối với số phận của Lão Hạc, đồng thời thể hiện niềm tin tưởng về những phẩm chất cao đẹp đáng quý của người nông dân.

Câu 4 (Câu 4 trang 48 SGK Ngữ Văn 8 Tập 1):

Trả lời:

– Khi nghe Binh Tư kể chuyện lão Hạc xin bả chó để bắt một con chó hàng xóm, ông giáo cảm thấy “cuộc đời quả thật đáng buồn”: Ở đây ông buồn vì nghĩ rằng vì miếng ăn, vì cái nghèo túng đường cùng đã khiến lão Hạc tha hóa về nhân cách.

– Thế nhưng, chứng kiến cái chết của lão Hạc, ông giáo lại nghĩ: “Không! Cuộc đời chưa hẳn là đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng buồn theo một cách khác”:

+ “Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn” vì ông giáo nhận ra lão Hạc vẫn giữ cho mình trọn vẹn nhân cách cao đẹp.

+ Thế nhưng “buồn theo một cách khác” kia đó là cái chết đầy đau đớn, thương tâm mà lão Hạc tự chọn lấy cho mình.

Câu 5: Em có nhận xét gì về tài năng xuất sắc trong nghệ thuật khắc họa nhân vật và trong cách kể chuyện của Nam Cao.

Trả lời:

– Nghệ thuật khắc họa nhân vật xuất sắc:

+ Nam Cao chú ý khắc họa nhân vật qua ngoại hình, từng điệu bộ, cử chỉ cũng thể hiện nội tâm bên trong của nhân vật

+ Ngôn ngữ nhân vật phong phú: Có đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm

+ Nắm bắt sâu diễn biến tâm lí nhân vật, len lỏi vào từng trạng thái cảm xúc, khắc họa rất chân thực dòng chảy cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật

– Nghệ thuật kể chuyện sinh động, hấp dẫn:

+ Kể chuyện theo ngôi thứ nhất, người kể chuyện xưng tôi trực tiếp tham gia câu chuyện, làm tăng tính chân thực cho chuyện kể

+ Kết cấu truyện đầy bất ngờ khiến người đọc cảm thấy tò mò, thú vị đến tận kết truyện.

+ Tình huống truyện độc đáo

+ Ngôn ngữ kể chuyện biến đổi linh hoạt.

Câu 6 (Câu 7* trang 48 SGK Ngữ Văn 8 Tập 1):

Trả lời:

a. Cuộc đời người nông dân trong xã hội cũ.

– Bị áp bức bóc lột sức lao động (Anh con trai Lão Hạc phải đi đồn điền)

– Họ sống khổ cực ở làng quê, làm quanh năm cũng không đủ ăn.

– Thường xuyên phải chịu những thiên tai, dịch bệnh, bệnh tật.

– Cuộc sống nghèo khổ bần cùng đến khốn cùng

b. Vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của người nông dân:

– Họ sống giàu tình cảm, trọng tình trọng nghĩa

– Sống lương thiện, trong sạch

– Sống thủy chung, ân tình

– Dám phản kháng để bảo vệ phẩm chất đáng quý của mình

Các bài giải vở bài tập Ngữ Văn lớp 8 (VBT Ngữ Văn 8) khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Soạn Bài Lão Hạc: Trang 48 Sgk Ngữ Văn 8 Tập 1

Hướng dẫn soạn bài Lão Hạc (Nam Cao) giúp bạn nắm vững kiến thức và trả lời tốt nhất các câu hỏi trong trang 48 SGK Ngữ Văn 8 tập 1.

Kiến thức cơ bản

Nội dung khái quát các kiến thức ký thuyết bài Lão Hạc:

Tác giả Nam Cao

Nam Cao (1915-1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng, phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc với những truyện ngắn, truyện dài chân thực viêt về người nông dân nghèo bị vùi dập và người trí thức nghèo sống mòn mỏi; bê tắc trong xã hội cũ. Sau Cách mạng, Nam Cao chân thành, tận tụy sáng tác phục vụ kháng chiến. Ông đã hi sinh trên đường công tác ở vùng sau lưng địch. Nam Cao được nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm chính: “Chí Phèo, Trăng sáng, Đời thừa, Lão Hạc…”

Tác phẩm Lão Hạc

Lão Hạc là một truyện ngắn của nhà văn Nam Cao được viết năm 1943. Tác phẩm được đánh giá là một trong những truyện ngắn khá tiêu biểu của dòng văn học hiện thực, nội dung truyện đã phần nào phản ánh được hiện trạng xã hội Việt Nam trong giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám.

Truyện ngắn đã thể hiện một cách chân thực, cảm động số phận đau thương của người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý tiềm tàng của họ. Đồng thời, truyện còn cho thấy tấm lòng yêu thương, trân trọng đối với người nông dân và tài năng nghệ thuật xuất sắc của nhà văn Nam Cao; đặc biệt trong việc miêu tả tâm lí nhân vật và cách kể chuyện.

Tóm tắt truyện ngắn Lão Hạc

Lão Hạc là người hàng xóm của ông giáo. Vợ lão mất sớm, con trai lão vì phần chí mà bỏ đi phu đồn điền cao su, lão sống với con chó vàng – kỉ vật của con trai lão để lại. Cuộc sống ngày càng khó khăn, lão mất việc nhưng lão đã từ chối mọi sự giúp đỡ. Quyết không xâm phạm vào mảnh vườn để dành cho con, lão bán con chó, tự trù liệu đám ma của mình và tự tử bằng bả chó.

Soạn bài Lão Hạc chi tiết

Phần bài soạn chi tiết giúp các em tham khảo và nắm các ý chính để hoàn thành bài soạn của mình.

Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc xung quanh việc bán chó. Qua đó, em thấy Lão Hạc là người như thế nào?

* Diễn biến tâm trạng của Lão Hạc xung quanh việc bán chó.

– Mối quan hộ giữa Lão Hạc và con chó Vàng:

Lão chỉ có một thân một mình. Con lão đi xa để lại kỉ niệm buồn, con chó mua về nuôi; định lúc cưới vợ thì giết thịt. Thế nhưng vợ lấy không được vì con lão nghèo.

Đứa con phẫn uất bỏ đi phu, lão đau đớn: “Hình của nó, người ta đã chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là của người ta”. Tim lão vỡ vụn vì đau đớn nhớ thương.

Cậu Vàng thế chỗ đứa con cùng lão chia sẻ niềm đau và những nỗi buồn, lão bắt rận, tắm, cho cậu ăn trong cái bát như nhà giàu, chửi yêu, nói chuyện, vuốt ve. Cậu Vàng vừa là kỉ niệm, là tín vật của người con, là người bạn trung thành trong cuộc sống quạnh hiu của lão.

– Nguyên nhân phải bán cậu Vàng.

+ Đứa con bỏ đi phu đối với lão như một sự tội lỗi “Làm cha không lo tròn được cho con”. Bóng đứa con nặng trĩu trong hơi thở của lão. Ba sào vườn lão quyết giữ cho bằng được, không thể bán vườn mà ăn để dành cho con trai lão trở về xây dựng hạnh phúc.

+ Trận ốm kéo dài hai tháng mười tám ngày, bao nhiêu tiền dành dụm tiêu hết sạch. Cơn bão kéo đến phá sạch sành sanh hoa màu. Sau trận ốm lão yếu người không làm được việc nặng, bao nhiêu việc nhẹ đàn bà họ tranh nhau làm mất cả, lão Hạc rơi vào túng quẫn kiệt quệ.

+ Cậu Vàng mỗi ngày phải ăn hết hai hào gạo, cậu mà ăn ít lại gầy đi tội nghiệp. Tiền không đủ nuôi người lấy đâu nuôi chó. Lão nghĩ đến cái chết, để giữ được mảnh vườn cho con. Lão chết cậu Vàng cũng tiêu đời, đành phải để cậu Vàng đi trước.

– Tâm trạng của lão Hạc khi bán cậu Vàng. “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậc nước… Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc” ⇒ Sự đau đớn đến cùng cực vò xé tâm can. “Đoạn văn như bị xé từng mảnh về ngữ điệu hay từng mảnh tim tơi tả của lão biến thành văn? Đứt rời, nghẹn ngào, tức tưởi- sự ăn năn đau đớn giày xé vì trót lừa một con chó- “con đi phu, lão chết già nửa, bán cậu Vàng lão chết hẳn”.

⇒ Lão Hạc con người giàu lòng nhân ái, lương thiện và thật trong sáng biết bao.

Em hiểu như thế nào về nguyên nhân cái chết của lão Hạc ? Qua những điều lão Hạc thu xếp nhờ cậy “ông giáo” rồi sau đó tìm đến cái chết, em suy nghĩ gì về tình cảnh và tính cách của lão?

– Nguyên nhân dẫn dến cái chết của lão Hạc:

+ Sau trận ốm lão rơi vào sự túng quẫn kiệt quệ.

+ Phải bán con chó lão vừa như mất đi người bạn thân thiết lại mang cảm giác mình là người có lỗi, là người phản bội lừa dối con chó đáng thương tội nghiệp.

+ Không muốn làm phiền người khác, dù sống cực khổ nhưng kiên quyết từ chối sự giúp đỡ.

+ Vì không muốn xâm phạm đến số tiền ít ỏi và mảnh vườn nhỏ mà lão quyết giữ để dành cho đứa con trai đi phu xa.

⇒ Vì lòng tự trọng, vì tình yêu thương, và vì quá đỗi lương thiện mà lão Hạc phải tìm đến cái chết, Nam Cao đi đến vào tận nơi sâu thẳm của bi kịch tâm hồn: nhân cách con người.

– Những việc lão Hạc thu xếp nhờ cậy ông giáo:

+ Việc thứ nhất: gửi ba sào vườn nhờ ông giáo giữ hộ cho người con trai, để khi người con trai trở về có đất mà ở.

+ Việc thứ hai: gửi ba mươi đồng bạc (năm đồng vừa bán chó và hai mươi lăm đồng đã tích cóp dành dụm tằn tiện suốt cả năm trời) để khi lão chết nhờ hàng xóm lo liệu cho việc ma chay.

⇒ Toàn bộ việc làm của lão “là cuộc chuẩn bị để chết của một con người! Lão Hạc cứ âm thầm làm nốt những phần việc cuối cùng của một kiếp người để rồi tự sát” (Chu Văn Sơn).

– Cái chết của Lão Hạc.

+ Lão Hạc đang vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh, nảy lên.

+ Một cái chết đau đớn và hết sức thảm thương. Dường như lão cố tình chọn cho mình một cái chết đau đớn dữ dội như thế đế tự trừng phạt mình đã đánh lừa con chó thân yêu “chết theo kiểu con chó bị lừa”. Và sâu xa hơn kiếp người có khác gì so với kiếp chó đâu.

– Tình cảnh và tính cách của lão Hạc:

+ Tình cảnh: hết sức éo le, đáng thương: lọm khọm trong cảnh gà trống nuôi con, rồi đứa con trai duy nhất đi xa lão sống trong cô đơn hiu quạnh. Sức yếu già cả, ốm đau bệnh tật, nghèo túng vất vả nhất là phải ở trong bi kịch giữa tình thương con và sự sống của một con vật nuôi mà lão gắn bó thân thiết.

+ Tính cách:

* Một ông lão khiêm cung trong cử chi, tinh tế trong đôi xử, hiểu đời, hiểu người nhưng bất lực và đau đớn tự giày vò về sự bất lực ấy.* Là con người có lòng tự trọng rất cao.* Một người cha thương con vô bờ, quên mình cho cuộc sống của con – một sự hi sinh cao cả.

Lão đúng như tên gọi của lão, con hạc già thanh cao giữa cuộc đời lầm than, ô trọc, bụi bặm.

Bài 3 trang 48 SGK Ngữ văn 8 tập 1

Em thấy thái độ, tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc như thế nào?

Thái độ và tình cảm của nhân vật “tôi” là một sự phát triển, càng ngày càng trân trọng cảm thông sâu sắc, theo sự việc xảy ra:

+ Ban đầu: Nghe chuyện của lão với thái độ thờ ơ, dửng dưng so sánh với việc lão quý con chó, không thể nào bằng mình quý những quyển sách được. Đó cũng là sự hiển nhiên.

+ Sau đó: Khi nghe câu chuyện của lão, ông giáo đã thốt lên: ” Lão Hạc ơi! Bây giờ thì tôi hiểu tại sao lão không muôn bán con chó vàng của lão. Lão chỉ còn một mình nó để làm khuây”.

+ Khi thấy lão Hạc khóc: “Tôi muốn ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc. Bây giờ thì tôi không xót xa năm quyển sách của tôi quá như trước”. Nhân vật “tôi” đã động viên an ủi chia sẻ với lão những buồn đau, ngấm ngầm giúp đỡ lão những ngày túng thiếu.

+ Khi chứng kiến cái chết dữ dội của lão Hạc: Nhân vật “tôi” đã vô cùng cảm động, hứa trước vong linh lão làm tròn những điều mà lão gửi gắm đế lão yên tâm nhắm mắt ra đi.

⇒ Ông giáo là người giàu lòng trắc ẩn, yêu thương.

Khi nghe Bình Tư cho biết lão Hạc xin bả chó để bắt một con chó hàng xóm thì nhân vật “tôi” cảm thấy “cuộc đời quả thật … đáng buồn”, nhưng khi chứng kiến cái chết đau đớn của lão Hạc, “tôi” lại nghĩ : “Không ! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Em hiểu ý nghĩ đó của nhân vật “tôi” như thế nào?

+ Ý nghĩ của nhân vật “tôi” khi nghe Binh Tư nói về lão Hạc. “Hỡi ơi Lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết… Mộtngười như thế ấy!… Một người đã khóc vì trót lừa một con chó!… Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi không muốn liên lụy đến hàng xóm láng giềng… Conngười đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn…”

Đó là nỗi buồn vì sự tha hóa nhân cách của con người, buồn vì sự thất vọng vì lầm tưởng lão Hạc đã làm điều xấu thì cuộc đời không còn biết tin ai nữa, đã cùng tận rồi.

+ Ý nghĩ của nhân vật “tôi” khi chứng kiến cái chết của Lão Hạc.

– Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác.

* Buồn vì số phận hẩm hiu, bất hạnh của những người lương thiện.

* Buồn vì xã hội không cho con người được sống một cuộc sống cho ra sống.

Bài 5 trang 48 SGK Ngữ văn 8 tập 1

Theo em, cái hay của truyện thể hiện rõ nhất ở những điểm nào ? Việc tạo dựng tình huống truyện bất ngờ có tác dụng như thế nào? Cách xây dựng nhân vật có gì đặc sắc ? Việc truyện được kể bằng lời của nhân vật “tôi” (ngôi thứ nhất) có hiệu quả nghệ thuật gì ?

+ Tình huống truyện: Bất ngờ, ngoài sự dự đoán của độc giả. Tình huống đó như “một thứ nước rửa ảnh làm nổi hình nổi sắc nhân vật”. Làm sáng ngời nhân cách của lão Hạc trong lòng người đọc (không ai nghĩ rằng lão Hạc lại tự hủy diệt cuộc đời mình bằng bả chó).

+ Cách xây dựng nhân vật: Chân thực sinh động, từ ngoại hình đến nội tâm, đặc biệt là miêu tả khuôn mặt của lão Hạc khi khóc. + Tác dụng của ngôi kể: Chuyện được kể theo ngôi thứ nhất, làm cho câu chuyện trở nên gần gũi chân thực, làm cho người đọc có cảm tưởng câu chuyện như đang diển ra trước mắt.

Bài 6 trang 48 SGK Ngữ văn 8 tập 1

Em hiểu thế nào về ý nghĩ của nhân vật “tôi” (có thể coi là tác giả) qua đoạn văn sau :

“Chao ôi ! Đối với những người ở xung quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn ; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương ; không bao giờ ta thương […]. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất”.

– Đây là phát hiện sâu sắc mang tính triết lý:

+ Phải thực sự am hiểu, trân trọng con người, khám phá những nét tốt đẹp của con người.

+ Con người chỉ bị những đau khổ che lấp đi bản tính tốt đẹp, cần phải “cố tìm hiểu”

+ Cần phải đặt mình vào hoàn cảnh và vị trí của người khác để hiểu, cảm thông và chấp nhận họ

– Là cách ứng xử nhân hậu, tình nghĩa xuất phát từ tinh thần yêu thương con người.

+ Tránh những mâu thuẫn bằng sự thấu hiểu và vị tha.

Bài 7 trang 48 SGK Ngữ văn 8 tập 1

Qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc, em hiểu gì về cuộc sống và phẩm chất của người nông dân trong xã hội cũ?

– Cuộc đời của những người nông dân trong xã hội cũ:

+ Lão Hạc, chị Dậu đều là những người nông dân cực khổ, nghèo túng, bất hạnh.

+ Họ bị xã hội đè nén, áp bức, rơi vào tình trạng khốn khó, cùng cực.

– Tính cách:

+ Họ đều là những người nông dân hiền lành, lương thiện.

+ Thương yêu chồng con, hết mực giàu sức hi sinh.

+ Trong bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng cố gắng giữ mình được trong sạch.

Câu 1 (trang 48 sgk ngữ văn 8 tập 1)

Cách thức 1

Diễn biến tâm trạng lão Hạc quanh chuyện bán chó:

– Mối quan hệ: cậu Vàng vừa là kỉ niệm, vừa là tín vật của người con, cũng là người bạn trung thành trong cuộc sống quạnh hiu của lão.

– Lão đau khổ khi cùng đường đến mức bán cậu Vàng: “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậc nước…Lão hu hu khóc”, lão đau đớn cùng cực, nghẹn ngào giày xé vì “đã trót đánh lừa một con chó”.

→ Người nông dân nghèo khổ, lương thiện, trái tim vô cùng nhân hậu, trong sạch.

Cách thức 2

+ Lão Hạc cảm thấy mình đốn mạt, đi lừa cả một con chó. Lão day dứt, đau đớn, xót thương cho số phận của cậu Vàng.

+ Điều đó chứng tỏ lão Hạc là người có trái tim giàu yêu thương, giàu tình cảm.

Cách thức 3

Phân tích tâm trạng Lão Hạc xoay quanh việc bán chó:

– Vui vẻ, hạnh phúc khi có cậu Vàng bầu bạn

+ Trân trọng gọi con chó là cậu Vàng

+ Đối xử với cậu Vàng như đối xử với con cháu: cho ăn trong bát, gắp thức ăn cho, chửi yêu, cưng nựng…

– Diễn biến tâm lý sau khi bán cậu Vàng

+ Cố làm ra vui vẻ, nhưng “đôi mắt ầng ậng nước”, “mếu máo như con nít”

+ Đau đớn, dằn vặt khi trót lừa một con chó “mặt lão đột nhiên co rúm lại”, “đầu lão ngoẹo về một bên”…khi ông giáo hỏi “thế nó cho bắt à?”

+ Lão chua xót về quá trình con chó bị bắt, tưởng tượng ra vẻ mặt và lời trách móc của con chó với lão.

Câu 2 (trang 48 sgk ngữ văn 8 tập 1)

Cách thức 1

– Nguyên nhân cái chết: túng quẫn, tuyệt vọng sau trận ốm, bán cậu Vàng cũng là mất đi người bạn thân thiết, cảm giác tội lỗi vì trót lừa một con chó, không đợi được con trai về. Lão chết vì lòng tự trọng, vì tình thương, vì quá đỗi lương thiện.

– Lão Hạc trước khi tìm đến cái chết đã nhờ ông giáo giữ vườn đợi con trai lão về, giữ tiền để lo tiền ma chay cho lão.

→ Tình cảnh lão Hạc éo le, đáng thương nhưng không muốn liên lụy tới mọi người xung quanh. Một con người có lòng tự trọng rất cao, hiền hậu, khiêm cung trong cử chỉ, tinh tế, hiểu đời, hiểu người nhưng bất lực. Là người cha thương con vô bờ, là ông lão giàu tình cảm, lương thiện.

Cách thức 2

Nguyên nhân cái chết lão Hạc:

– Do tình cảnh đói nghèo, cùng quẫn

– Lão không muốn phạm vào số tiền mình để dành cho con trai

– Lão đau đớn vì sự ra đi của cậu Vàng, vì bản thân đã trót lừa một con chó-người bạn tri kỉ của lão

Tình cảnh và tính cách của lão qua việc thu xếp, nhờ cậy ông giáo rồi tìm đến cái chết:

– Tình cảnh: đói nghèo, nếu sống sẽ phạm vào tiền của con → khốn cùng, không còn đường lui.

– Tính cách:

+ Lão là người chu đáo, biết lo xa

+ Lão có lòng tự trọng cao, không muốn phiền xóm giềng cả khi sống hay đã chết

+ Lão coi trọng danh dự, nhân phẩm, đứa con hơn cả mạng sống của mình.

Cách thứ 3

+ Nguyên nhân cái chết: Lão chết vì nếu còn sống thêm thì sẽ phải tiêu tiền và sẽ phạm vào mảnh vườn của cậu con trai.

+ Lão Hạc đang sống trong tình cảnh lay lắt, khổ sở.

+ Tính cách: lão vô cùng yêu thương cậu con trai, lại là người giàu lòng tự trọng, không muốn nhờ cậy, phiền hà đến người khác.

Câu 3 (trang 48 sgk ngữ văn 8 tập 1)

Cách thức 1

Thái độ, tình cảm của nhân vật “tôi” với lão Hạc có sự thay đổi:

Lúc đầu thờ ơ và dửng dưng nghe chuyện bán chó. Sau đó thấu hiểu và an ủi lão. Chứng kiến cái chết lão Hạc, nhân vật “tôi” vô cùng cảm động, kính trọng nhân cách, tấm lòng của lão. Ông giáo là người giàu lòng trắc ẩn, hiểu và đồng cảm người khó khăn.

Cách thức 2

Thái độ, tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc:

– Dửng dưng thờ ơ khi nghe lão Hạc bảo sẽ bán chó, vì lão nói với “tôi” rất nhiều lần trước đây.

– Ái ngại, cảm thông, xót xa thay cho lão khi thấy lão khóc vì bán con Vàng

– Quan tâm, muốn sẻ chia cùng lão khi dấu vợ ngấm ngầm giúp lão.

– Hoài nghi, thất vọng khi nghe Binh Tư kể chuyện lão xin bả chó…

– Kính trọng nhân cách lão khi biết nguyên nhân cái chết của lão Hạc.

Cách thức 3

Thái độ, tình cảm của ông giáo đối với lão Hạc đã có sự thay đổi, từ khó hiểu, thờ ơ đến thấu hiểu, xót thương và trân trọng.

thêm một số cách trả lời bài 3 trang 48 sgk Ngữ văn 8 tập 1 hay khác.

Câu 4 (trang 48 sgk ngữ văn 8 tập 1)

Cách thức 1

Ban đầu khi nghe Binh Tư nói, ông giáo buồn vì thấy sự tha hóa nhân cách con người, thất vọng vì lầm tưởng lão Hạc thật sự đánh mất lương thiện bấy lâu.

Chứng kiến cái chết lão Hạc, ông giáo thấy “cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn” vì niềm tin, hi vọng vào xã hội vẫn còn khi thật sự có những con người vẫn giữ được bản chất lương thiện. Nhưng “lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Một dấu chấm lặng, cuộc đời vẫn đáng buồn vì số phận hẩm hiu, bất hạnh của những người lương thiện, buồn vì cái chết đau đớn dữ dội mà một con người như lão Hạc phải chịu.

Cách thức 2

– Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc xin hắn bả chó để bắt một con chó hàng xóm thì nhân vật “tôi” cảm thấy “cuộc đời quả thật… đáng buồn”: “Tôi” không ngờ một con người đã khóc vì bán một con chó lại xin bả chó để kiếm miếng ăn. Ông giáo nghĩ rằng cái đói, cái khốn cùng đã khiến nhân cách của lão bị tha hóa.

– Nhưng khi chứng kiến cái chết của lão Hạc, “tôi” lại nghĩ : “Không ! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”: Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn vì nhân cách của lão vẫn vẹn nguyên như “tôi” đã từng biết. Nhưng đáng buồn vì cái chết thương tâm của một con người tình nghĩa nhưng bị ép tới đường cùng vì cái đói, cái nghèo.

Cách thức 3

Ý nghĩ của nhân vật tôi:

+ Cuộc đời này đáng buồn ở chỗ nó khiến con người ta phải sống khổ sống sở, sống lay lắt, héo mòn.

+ Nhưng ít ra, trong cuộc đời còn có những con người như lão Hạc, có phẩm chất cao quý, giàu yêu thương và tự trọng.

Câu 5 (trang 48 sgk ngữ văn 8 tập 1)

Cách thức 1

– Cái hay của truyện thể hiện rõ ở việc miêu tả tâm lí nhân vật và cách kể.

– Tình huống truyện bất ngờ, sáng tỏ nhân cách lão Hạc trong người đọc, trong nhân vật.

– Cách xây dựng nhân vật chân thực sinh động từ ngoại hình đến nội tâm sâu sắc.

– Ngôi kể thứ nhất dẫn dắt linh hoạt tạo sự gần gũi chân thực. Nhân vật “tôi” kể mà như là nhập vào lão Hạc, mọi cảm xúc chân thật, sâu sắc.

Cách thức 2

– Cái hay của truyện thể hiện rõ nhất ở những điểm:

+ Tình huống truyện bất ngờ: Khiến cho người đọc cũng đã có lúc hoài nghi lão Hạc như ông giáo, để rồi vỡ òa trong sự thương xót và kính trọng.

+ Diễn biến tâm lí nhân vật của lão Hạc và ông giáo được miêu tả chi tiết, bất ngờ, có chiều sâu.

+ Ngôn ngữ của truyện: ngôn ngữ cô đọng, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại đầy chất trữ tình mang cả tình cảm, suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật.

+ Nghệ thuật kể chuyện: Câu chuyện được kể theo lời dẫn của nhân vật “tôi” người tham gia trong câu chuyện và chứng kiến sự việc diễn ra. Điều này làm cho câu chuyên thêm chân thật, gần gũi với người đọc, khiến cho câu chuyện đa giọng điệu chứ không đơn điệu.

Cách thức 3

+ Cái hay của truyện thể hiện rõ nhất ở những tình huống bất ngờ (lão Hạc bán con chó Vàng và lão Hạc tự vẫn) và cách xây dựng nhân vật.

+ Việc tạo dựng tình huống bất ngờ khiến phẩm chất của lão Hạc được làm bật nổi.

+ Nhân vật được xây dựng thông qua điểm nhìn từ một nhân vật khác, nhân vật hiện lên với nét tính cách điển hình.

+ Sử dụng ngôi kể thứ nhất khiến câu chuyện trở nên đáng tin cậy hơn, nhân vật kể chuyện cũng dễ dàng bộc lộ cảm xúc suy nghĩ nhằm thể hiện tư tưởng của tác giả.

Câu 6 (trang 48 sgk ngữ văn 8 tập 1)

Cách thức 1

– Ý nghĩ của nhân vật “tôi” mang tính triết lí nêu lên bài học về cách nhìn người, nhìn đời và cách ứng xử trong cuộc sống.

– Còn thể hiện tấm lòng, tình thương của tác giả với con người.

Cách thức 2

– Đừng nhìn người khác một cách phiến diện, hãy cố tìm hiểu thế giới tâm hồn, bản tính của họ.

– Hãy đặt bản thân vào vị trí của họ để tìm hiểu, đừng nhìn bên ngoài rồi phán xét.

– Cần khám phá, trân trọng vẻ đẹp bên trong của con người, cảm thông với họ.

Cách thức 3

Ý nghĩ của nhân vật tôi “Chao ôi….ích kỉ che lấp mất”:

+ Không thể phán xét con người chỉ bằng những điều ta trông thấy bên ngoài, ta phải cố mà tìm hiểu họ.

+ Muốn hiểu và thông cảm được với người khác, ta cũng phải biết dẹp bỏ lòng ích kỉ của riêng mình.

+ Cuộc sống hiện thực đầy nghiệt ngã này đã khiến tình yêu thương, sự cảm thông trong mỗi người bị rút cạn dần đi.

Câu 7 (trang 48 sgk ngữ văn 8 tập 1)

Cách thức 1

Đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc cho thấy:

– Cuộc sống người nông dân trong xã hội cũ: nghèo khổ, bất hạnh, bị xã hội đè nén, áp bức.

– Phẩm chất cao đẹp: hiền lành, lương thiện, giàu tình thương, không bị hòa đục trong dòng nước xã hội.

Cách thức 2

Cuộc sống của người nông dân trong xã hội cũ qua đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” và truyện ngắn “Lão Hạc”:

– Cuộc sống nghèo khổ, đói kém, lạc hậu.

– Họ bị bóc lột, bị chèn ép, sống trong bất công.

– Họ luôn giữ được phẩm chất trong sạch, nhân cách cao đẹp , giàu lòng yêu thương, giàu sức mạnh phản kháng tiềm tàng.

Cách thức 3

Qua hai truyện ngắn trên, người nông dân trong xã hội cũ hiện lên:

+ Cuộc sống khó khăn, túng quẫn đến tột cùng.

+ Nhưng họ có phẩm chất tốt đẹp, ngời sáng, giàu đức hi sinh, giàu tình yêu thương, không bị tha hóa bởi miếng cơm manh áo.

Tổng kết nội dung tác phẩm Lão Hạc

2. Tình cảnh đói khổ, túng quẫn đã đẩy lão Hạc đến tình trạng tuyệt vọng: lão không thể giữ con chó, lão không thể đợi con trai trở về. Lòng thương con không cho phép lão phạm vào tài sản của con trai. Lão tự chọn cái chết để giải thoát cho mình và giữ trọn mảnh vườn cho con trai.Những điều lão Hạc thu xếp nhờ cậy ông giáo rồi sau đó tìm đến cái chết cho thấy: lão Hạc ở trong tình cảnh đau khổ và bi quẫn, nhưng cũng rất tự trọng và kiên quyết.

3. Thái độ và tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc diễn biến đa dạng theo tình huống của tác phẩm: từ dửng dưng đến cảm thông (nghe lão Hạc nói chuyện bán chó, nghe lão kể về đứa con), thoáng buồn và nghi ngờ (khi nghe Binh Tư kể), kính trọng (khi chứng kiến cái chết dữ dội của lão Hạc).

4. Chi tiết lão Hạc xin bả chó của Binh Tư được Nam Cao sắp xếp vào phần sau của câu chuyện như là một chi tiết có ý “đánh lừa” dòng cảm xúc của người đọc. Nó đây những suy nghĩ tốt đẹp của người đọc và ông giáo sang hướng khác (hoài nghi, buồn). Thế nhưng cái chết bất ngờ của lão lại khiến cho cả ông giáo và chúng ta nữa phải giật mình suy ngẫm về SỐ kiếp con người trong xã hội xưa. Cách sắp xếp tình tiết như vậy đã làm nổi bật lên giá trị nhân cách cũng như cái tình thế quẫn bách tột cùng của lão Hạc. Đồng thời cũng hiểu được sự cảm thông sâu sắc của ông giáo đối với lão Hạc.

7. Đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc được sáng tác theo phong cách hiện thực, phản ánh cuộc đời và tính cách của người nông dân trong xã hội cũ. Họ là người sống khổ cực vì bị áp bức bóc lột nặng nề, phải chịu sưu cao thuế nặng. Cuộc sống của họ lâm vào cảnh bần cùng, bế tắc. Tuy vậy, họ có những phẩm chất đáng quý là trong sạch, lương thiện, giàu tình thương yêu. Họ quyết liệt phản kháng hoặc thậm chí dám chọn cái chết để giữ gìn phẩm chất trong sạch của mình. Điều đó cho thấy: người nông dân trong xã hội cũ tiềm tàng một sức mạnh của tình cảm, một sức mạnh phản kháng chống lại áp bức, bất công.

Chúc các em soạn bài Lão Hạc tốt và đừng quên tham khảo nhiều bài soạn văn 8 khác tại Tuyển Sinh AZ để học tốt hơn môn Ngữ Văn lớp 8