Hướng dẫn soạn bài Lão Hạc (Nam Cao) giúp bạn nắm vững kiến thức và trả lời tốt nhất các câu hỏi trong trang 48 SGK Ngữ Văn 8 tập 1.
Kiến thức cơ bản
Nội dung khái quát các kiến thức ký thuyết bài Lão Hạc:
Tác giả Nam Cao
Nam Cao (1915-1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng, phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc với những truyện ngắn, truyện dài chân thực viêt về người nông dân nghèo bị vùi dập và người trí thức nghèo sống mòn mỏi; bê tắc trong xã hội cũ. Sau Cách mạng, Nam Cao chân thành, tận tụy sáng tác phục vụ kháng chiến. Ông đã hi sinh trên đường công tác ở vùng sau lưng địch. Nam Cao được nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm chính: “Chí Phèo, Trăng sáng, Đời thừa, Lão Hạc…”
Tác phẩm Lão Hạc
Lão Hạc là một truyện ngắn của nhà văn Nam Cao được viết năm 1943. Tác phẩm được đánh giá là một trong những truyện ngắn khá tiêu biểu của dòng văn học hiện thực, nội dung truyện đã phần nào phản ánh được hiện trạng xã hội Việt Nam trong giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám.
Truyện ngắn đã thể hiện một cách chân thực, cảm động số phận đau thương của người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý tiềm tàng của họ. Đồng thời, truyện còn cho thấy tấm lòng yêu thương, trân trọng đối với người nông dân và tài năng nghệ thuật xuất sắc của nhà văn Nam Cao; đặc biệt trong việc miêu tả tâm lí nhân vật và cách kể chuyện.
Tóm tắt truyện ngắn Lão Hạc
Lão Hạc là người hàng xóm của ông giáo. Vợ lão mất sớm, con trai lão vì phần chí mà bỏ đi phu đồn điền cao su, lão sống với con chó vàng – kỉ vật của con trai lão để lại. Cuộc sống ngày càng khó khăn, lão mất việc nhưng lão đã từ chối mọi sự giúp đỡ. Quyết không xâm phạm vào mảnh vườn để dành cho con, lão bán con chó, tự trù liệu đám ma của mình và tự tử bằng bả chó.
Soạn bài Lão Hạc chi tiết
Phần bài soạn chi tiết giúp các em tham khảo và nắm các ý chính để hoàn thành bài soạn của mình.
Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc xung quanh việc bán chó. Qua đó, em thấy Lão Hạc là người như thế nào?
* Diễn biến tâm trạng của Lão Hạc xung quanh việc bán chó.
– Mối quan hộ giữa Lão Hạc và con chó Vàng:
Lão chỉ có một thân một mình. Con lão đi xa để lại kỉ niệm buồn, con chó mua về nuôi; định lúc cưới vợ thì giết thịt. Thế nhưng vợ lấy không được vì con lão nghèo.
Đứa con phẫn uất bỏ đi phu, lão đau đớn: “Hình của nó, người ta đã chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là của người ta”. Tim lão vỡ vụn vì đau đớn nhớ thương.
Cậu Vàng thế chỗ đứa con cùng lão chia sẻ niềm đau và những nỗi buồn, lão bắt rận, tắm, cho cậu ăn trong cái bát như nhà giàu, chửi yêu, nói chuyện, vuốt ve. Cậu Vàng vừa là kỉ niệm, là tín vật của người con, là người bạn trung thành trong cuộc sống quạnh hiu của lão.
– Nguyên nhân phải bán cậu Vàng.
+ Đứa con bỏ đi phu đối với lão như một sự tội lỗi “Làm cha không lo tròn được cho con”. Bóng đứa con nặng trĩu trong hơi thở của lão. Ba sào vườn lão quyết giữ cho bằng được, không thể bán vườn mà ăn để dành cho con trai lão trở về xây dựng hạnh phúc.
+ Trận ốm kéo dài hai tháng mười tám ngày, bao nhiêu tiền dành dụm tiêu hết sạch. Cơn bão kéo đến phá sạch sành sanh hoa màu. Sau trận ốm lão yếu người không làm được việc nặng, bao nhiêu việc nhẹ đàn bà họ tranh nhau làm mất cả, lão Hạc rơi vào túng quẫn kiệt quệ.
+ Cậu Vàng mỗi ngày phải ăn hết hai hào gạo, cậu mà ăn ít lại gầy đi tội nghiệp. Tiền không đủ nuôi người lấy đâu nuôi chó. Lão nghĩ đến cái chết, để giữ được mảnh vườn cho con. Lão chết cậu Vàng cũng tiêu đời, đành phải để cậu Vàng đi trước.
– Tâm trạng của lão Hạc khi bán cậu Vàng. “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậc nước… Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc” ⇒ Sự đau đớn đến cùng cực vò xé tâm can. “Đoạn văn như bị xé từng mảnh về ngữ điệu hay từng mảnh tim tơi tả của lão biến thành văn? Đứt rời, nghẹn ngào, tức tưởi- sự ăn năn đau đớn giày xé vì trót lừa một con chó- “con đi phu, lão chết già nửa, bán cậu Vàng lão chết hẳn”.
⇒ Lão Hạc con người giàu lòng nhân ái, lương thiện và thật trong sáng biết bao.
Em hiểu như thế nào về nguyên nhân cái chết của lão Hạc ? Qua những điều lão Hạc thu xếp nhờ cậy “ông giáo” rồi sau đó tìm đến cái chết, em suy nghĩ gì về tình cảnh và tính cách của lão?
– Nguyên nhân dẫn dến cái chết của lão Hạc:
+ Sau trận ốm lão rơi vào sự túng quẫn kiệt quệ.
+ Phải bán con chó lão vừa như mất đi người bạn thân thiết lại mang cảm giác mình là người có lỗi, là người phản bội lừa dối con chó đáng thương tội nghiệp.
+ Không muốn làm phiền người khác, dù sống cực khổ nhưng kiên quyết từ chối sự giúp đỡ.
+ Vì không muốn xâm phạm đến số tiền ít ỏi và mảnh vườn nhỏ mà lão quyết giữ để dành cho đứa con trai đi phu xa.
⇒ Vì lòng tự trọng, vì tình yêu thương, và vì quá đỗi lương thiện mà lão Hạc phải tìm đến cái chết, Nam Cao đi đến vào tận nơi sâu thẳm của bi kịch tâm hồn: nhân cách con người.
– Những việc lão Hạc thu xếp nhờ cậy ông giáo:
+ Việc thứ nhất: gửi ba sào vườn nhờ ông giáo giữ hộ cho người con trai, để khi người con trai trở về có đất mà ở.
+ Việc thứ hai: gửi ba mươi đồng bạc (năm đồng vừa bán chó và hai mươi lăm đồng đã tích cóp dành dụm tằn tiện suốt cả năm trời) để khi lão chết nhờ hàng xóm lo liệu cho việc ma chay.
⇒ Toàn bộ việc làm của lão “là cuộc chuẩn bị để chết của một con người! Lão Hạc cứ âm thầm làm nốt những phần việc cuối cùng của một kiếp người để rồi tự sát” (Chu Văn Sơn).
– Cái chết của Lão Hạc.
+ Lão Hạc đang vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh, nảy lên.
+ Một cái chết đau đớn và hết sức thảm thương. Dường như lão cố tình chọn cho mình một cái chết đau đớn dữ dội như thế đế tự trừng phạt mình đã đánh lừa con chó thân yêu “chết theo kiểu con chó bị lừa”. Và sâu xa hơn kiếp người có khác gì so với kiếp chó đâu.
– Tình cảnh và tính cách của lão Hạc:
+ Tình cảnh: hết sức éo le, đáng thương: lọm khọm trong cảnh gà trống nuôi con, rồi đứa con trai duy nhất đi xa lão sống trong cô đơn hiu quạnh. Sức yếu già cả, ốm đau bệnh tật, nghèo túng vất vả nhất là phải ở trong bi kịch giữa tình thương con và sự sống của một con vật nuôi mà lão gắn bó thân thiết.
+ Tính cách:
* Một ông lão khiêm cung trong cử chi, tinh tế trong đôi xử, hiểu đời, hiểu người nhưng bất lực và đau đớn tự giày vò về sự bất lực ấy.* Là con người có lòng tự trọng rất cao.* Một người cha thương con vô bờ, quên mình cho cuộc sống của con – một sự hi sinh cao cả.
Lão đúng như tên gọi của lão, con hạc già thanh cao giữa cuộc đời lầm than, ô trọc, bụi bặm.
Bài 3 trang 48 SGK Ngữ văn 8 tập 1
Em thấy thái độ, tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc như thế nào?
Thái độ và tình cảm của nhân vật “tôi” là một sự phát triển, càng ngày càng trân trọng cảm thông sâu sắc, theo sự việc xảy ra:
+ Ban đầu: Nghe chuyện của lão với thái độ thờ ơ, dửng dưng so sánh với việc lão quý con chó, không thể nào bằng mình quý những quyển sách được. Đó cũng là sự hiển nhiên.
+ Sau đó: Khi nghe câu chuyện của lão, ông giáo đã thốt lên: ” Lão Hạc ơi! Bây giờ thì tôi hiểu tại sao lão không muôn bán con chó vàng của lão. Lão chỉ còn một mình nó để làm khuây”.
+ Khi thấy lão Hạc khóc: “Tôi muốn ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc. Bây giờ thì tôi không xót xa năm quyển sách của tôi quá như trước”. Nhân vật “tôi” đã động viên an ủi chia sẻ với lão những buồn đau, ngấm ngầm giúp đỡ lão những ngày túng thiếu.
+ Khi chứng kiến cái chết dữ dội của lão Hạc: Nhân vật “tôi” đã vô cùng cảm động, hứa trước vong linh lão làm tròn những điều mà lão gửi gắm đế lão yên tâm nhắm mắt ra đi.
⇒ Ông giáo là người giàu lòng trắc ẩn, yêu thương.
Khi nghe Bình Tư cho biết lão Hạc xin bả chó để bắt một con chó hàng xóm thì nhân vật “tôi” cảm thấy “cuộc đời quả thật … đáng buồn”, nhưng khi chứng kiến cái chết đau đớn của lão Hạc, “tôi” lại nghĩ : “Không ! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Em hiểu ý nghĩ đó của nhân vật “tôi” như thế nào?
+ Ý nghĩ của nhân vật “tôi” khi nghe Binh Tư nói về lão Hạc. “Hỡi ơi Lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết… Mộtngười như thế ấy!… Một người đã khóc vì trót lừa một con chó!… Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi không muốn liên lụy đến hàng xóm láng giềng… Conngười đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn…”
Đó là nỗi buồn vì sự tha hóa nhân cách của con người, buồn vì sự thất vọng vì lầm tưởng lão Hạc đã làm điều xấu thì cuộc đời không còn biết tin ai nữa, đã cùng tận rồi.
+ Ý nghĩ của nhân vật “tôi” khi chứng kiến cái chết của Lão Hạc.
– Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác.
* Buồn vì số phận hẩm hiu, bất hạnh của những người lương thiện.
* Buồn vì xã hội không cho con người được sống một cuộc sống cho ra sống.
Bài 5 trang 48 SGK Ngữ văn 8 tập 1
Theo em, cái hay của truyện thể hiện rõ nhất ở những điểm nào ? Việc tạo dựng tình huống truyện bất ngờ có tác dụng như thế nào? Cách xây dựng nhân vật có gì đặc sắc ? Việc truyện được kể bằng lời của nhân vật “tôi” (ngôi thứ nhất) có hiệu quả nghệ thuật gì ?
+ Tình huống truyện: Bất ngờ, ngoài sự dự đoán của độc giả. Tình huống đó như “một thứ nước rửa ảnh làm nổi hình nổi sắc nhân vật”. Làm sáng ngời nhân cách của lão Hạc trong lòng người đọc (không ai nghĩ rằng lão Hạc lại tự hủy diệt cuộc đời mình bằng bả chó).
+ Cách xây dựng nhân vật: Chân thực sinh động, từ ngoại hình đến nội tâm, đặc biệt là miêu tả khuôn mặt của lão Hạc khi khóc. + Tác dụng của ngôi kể: Chuyện được kể theo ngôi thứ nhất, làm cho câu chuyện trở nên gần gũi chân thực, làm cho người đọc có cảm tưởng câu chuyện như đang diển ra trước mắt.
Bài 6 trang 48 SGK Ngữ văn 8 tập 1
Em hiểu thế nào về ý nghĩ của nhân vật “tôi” (có thể coi là tác giả) qua đoạn văn sau :
“Chao ôi ! Đối với những người ở xung quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn ; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương ; không bao giờ ta thương […]. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất”.
– Đây là phát hiện sâu sắc mang tính triết lý:
+ Phải thực sự am hiểu, trân trọng con người, khám phá những nét tốt đẹp của con người.
+ Con người chỉ bị những đau khổ che lấp đi bản tính tốt đẹp, cần phải “cố tìm hiểu”
+ Cần phải đặt mình vào hoàn cảnh và vị trí của người khác để hiểu, cảm thông và chấp nhận họ
– Là cách ứng xử nhân hậu, tình nghĩa xuất phát từ tinh thần yêu thương con người.
+ Tránh những mâu thuẫn bằng sự thấu hiểu và vị tha.
Bài 7 trang 48 SGK Ngữ văn 8 tập 1
Qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc, em hiểu gì về cuộc sống và phẩm chất của người nông dân trong xã hội cũ?
– Cuộc đời của những người nông dân trong xã hội cũ:
+ Lão Hạc, chị Dậu đều là những người nông dân cực khổ, nghèo túng, bất hạnh.
+ Họ bị xã hội đè nén, áp bức, rơi vào tình trạng khốn khó, cùng cực.
– Tính cách:
+ Họ đều là những người nông dân hiền lành, lương thiện.
+ Thương yêu chồng con, hết mực giàu sức hi sinh.
+ Trong bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng cố gắng giữ mình được trong sạch.
Câu 1 (trang 48 sgk ngữ văn 8 tập 1)
Cách thức 1
Diễn biến tâm trạng lão Hạc quanh chuyện bán chó:
– Mối quan hệ: cậu Vàng vừa là kỉ niệm, vừa là tín vật của người con, cũng là người bạn trung thành trong cuộc sống quạnh hiu của lão.
– Lão đau khổ khi cùng đường đến mức bán cậu Vàng: “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậc nước…Lão hu hu khóc”, lão đau đớn cùng cực, nghẹn ngào giày xé vì “đã trót đánh lừa một con chó”.
→ Người nông dân nghèo khổ, lương thiện, trái tim vô cùng nhân hậu, trong sạch.
Cách thức 2
+ Lão Hạc cảm thấy mình đốn mạt, đi lừa cả một con chó. Lão day dứt, đau đớn, xót thương cho số phận của cậu Vàng.
+ Điều đó chứng tỏ lão Hạc là người có trái tim giàu yêu thương, giàu tình cảm.
Cách thức 3
Phân tích tâm trạng Lão Hạc xoay quanh việc bán chó:
– Vui vẻ, hạnh phúc khi có cậu Vàng bầu bạn
+ Trân trọng gọi con chó là cậu Vàng
+ Đối xử với cậu Vàng như đối xử với con cháu: cho ăn trong bát, gắp thức ăn cho, chửi yêu, cưng nựng…
– Diễn biến tâm lý sau khi bán cậu Vàng
+ Cố làm ra vui vẻ, nhưng “đôi mắt ầng ậng nước”, “mếu máo như con nít”
+ Đau đớn, dằn vặt khi trót lừa một con chó “mặt lão đột nhiên co rúm lại”, “đầu lão ngoẹo về một bên”…khi ông giáo hỏi “thế nó cho bắt à?”
+ Lão chua xót về quá trình con chó bị bắt, tưởng tượng ra vẻ mặt và lời trách móc của con chó với lão.
Câu 2 (trang 48 sgk ngữ văn 8 tập 1)
Cách thức 1
– Nguyên nhân cái chết: túng quẫn, tuyệt vọng sau trận ốm, bán cậu Vàng cũng là mất đi người bạn thân thiết, cảm giác tội lỗi vì trót lừa một con chó, không đợi được con trai về. Lão chết vì lòng tự trọng, vì tình thương, vì quá đỗi lương thiện.
– Lão Hạc trước khi tìm đến cái chết đã nhờ ông giáo giữ vườn đợi con trai lão về, giữ tiền để lo tiền ma chay cho lão.
→ Tình cảnh lão Hạc éo le, đáng thương nhưng không muốn liên lụy tới mọi người xung quanh. Một con người có lòng tự trọng rất cao, hiền hậu, khiêm cung trong cử chỉ, tinh tế, hiểu đời, hiểu người nhưng bất lực. Là người cha thương con vô bờ, là ông lão giàu tình cảm, lương thiện.
Cách thức 2
Nguyên nhân cái chết lão Hạc:
– Do tình cảnh đói nghèo, cùng quẫn
– Lão không muốn phạm vào số tiền mình để dành cho con trai
– Lão đau đớn vì sự ra đi của cậu Vàng, vì bản thân đã trót lừa một con chó-người bạn tri kỉ của lão
Tình cảnh và tính cách của lão qua việc thu xếp, nhờ cậy ông giáo rồi tìm đến cái chết:
– Tình cảnh: đói nghèo, nếu sống sẽ phạm vào tiền của con → khốn cùng, không còn đường lui.
– Tính cách:
+ Lão là người chu đáo, biết lo xa
+ Lão có lòng tự trọng cao, không muốn phiền xóm giềng cả khi sống hay đã chết
+ Lão coi trọng danh dự, nhân phẩm, đứa con hơn cả mạng sống của mình.
Cách thứ 3
+ Nguyên nhân cái chết: Lão chết vì nếu còn sống thêm thì sẽ phải tiêu tiền và sẽ phạm vào mảnh vườn của cậu con trai.
+ Lão Hạc đang sống trong tình cảnh lay lắt, khổ sở.
+ Tính cách: lão vô cùng yêu thương cậu con trai, lại là người giàu lòng tự trọng, không muốn nhờ cậy, phiền hà đến người khác.
Câu 3 (trang 48 sgk ngữ văn 8 tập 1)
Cách thức 1
Thái độ, tình cảm của nhân vật “tôi” với lão Hạc có sự thay đổi:
Lúc đầu thờ ơ và dửng dưng nghe chuyện bán chó. Sau đó thấu hiểu và an ủi lão. Chứng kiến cái chết lão Hạc, nhân vật “tôi” vô cùng cảm động, kính trọng nhân cách, tấm lòng của lão. Ông giáo là người giàu lòng trắc ẩn, hiểu và đồng cảm người khó khăn.
Cách thức 2
Thái độ, tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc:
– Dửng dưng thờ ơ khi nghe lão Hạc bảo sẽ bán chó, vì lão nói với “tôi” rất nhiều lần trước đây.
– Ái ngại, cảm thông, xót xa thay cho lão khi thấy lão khóc vì bán con Vàng
– Quan tâm, muốn sẻ chia cùng lão khi dấu vợ ngấm ngầm giúp lão.
– Hoài nghi, thất vọng khi nghe Binh Tư kể chuyện lão xin bả chó…
– Kính trọng nhân cách lão khi biết nguyên nhân cái chết của lão Hạc.
Cách thức 3
Thái độ, tình cảm của ông giáo đối với lão Hạc đã có sự thay đổi, từ khó hiểu, thờ ơ đến thấu hiểu, xót thương và trân trọng.
thêm một số cách trả lời bài 3 trang 48 sgk Ngữ văn 8 tập 1 hay khác.
Câu 4 (trang 48 sgk ngữ văn 8 tập 1)
Cách thức 1
Ban đầu khi nghe Binh Tư nói, ông giáo buồn vì thấy sự tha hóa nhân cách con người, thất vọng vì lầm tưởng lão Hạc thật sự đánh mất lương thiện bấy lâu.
Chứng kiến cái chết lão Hạc, ông giáo thấy “cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn” vì niềm tin, hi vọng vào xã hội vẫn còn khi thật sự có những con người vẫn giữ được bản chất lương thiện. Nhưng “lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Một dấu chấm lặng, cuộc đời vẫn đáng buồn vì số phận hẩm hiu, bất hạnh của những người lương thiện, buồn vì cái chết đau đớn dữ dội mà một con người như lão Hạc phải chịu.
Cách thức 2
– Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc xin hắn bả chó để bắt một con chó hàng xóm thì nhân vật “tôi” cảm thấy “cuộc đời quả thật… đáng buồn”: “Tôi” không ngờ một con người đã khóc vì bán một con chó lại xin bả chó để kiếm miếng ăn. Ông giáo nghĩ rằng cái đói, cái khốn cùng đã khiến nhân cách của lão bị tha hóa.
– Nhưng khi chứng kiến cái chết của lão Hạc, “tôi” lại nghĩ : “Không ! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”: Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn vì nhân cách của lão vẫn vẹn nguyên như “tôi” đã từng biết. Nhưng đáng buồn vì cái chết thương tâm của một con người tình nghĩa nhưng bị ép tới đường cùng vì cái đói, cái nghèo.
Cách thức 3
Ý nghĩ của nhân vật tôi:
+ Cuộc đời này đáng buồn ở chỗ nó khiến con người ta phải sống khổ sống sở, sống lay lắt, héo mòn.
+ Nhưng ít ra, trong cuộc đời còn có những con người như lão Hạc, có phẩm chất cao quý, giàu yêu thương và tự trọng.
Câu 5 (trang 48 sgk ngữ văn 8 tập 1)
Cách thức 1
– Cái hay của truyện thể hiện rõ ở việc miêu tả tâm lí nhân vật và cách kể.
– Tình huống truyện bất ngờ, sáng tỏ nhân cách lão Hạc trong người đọc, trong nhân vật.
– Cách xây dựng nhân vật chân thực sinh động từ ngoại hình đến nội tâm sâu sắc.
– Ngôi kể thứ nhất dẫn dắt linh hoạt tạo sự gần gũi chân thực. Nhân vật “tôi” kể mà như là nhập vào lão Hạc, mọi cảm xúc chân thật, sâu sắc.
Cách thức 2
– Cái hay của truyện thể hiện rõ nhất ở những điểm:
+ Tình huống truyện bất ngờ: Khiến cho người đọc cũng đã có lúc hoài nghi lão Hạc như ông giáo, để rồi vỡ òa trong sự thương xót và kính trọng.
+ Diễn biến tâm lí nhân vật của lão Hạc và ông giáo được miêu tả chi tiết, bất ngờ, có chiều sâu.
+ Ngôn ngữ của truyện: ngôn ngữ cô đọng, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại đầy chất trữ tình mang cả tình cảm, suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật.
+ Nghệ thuật kể chuyện: Câu chuyện được kể theo lời dẫn của nhân vật “tôi” người tham gia trong câu chuyện và chứng kiến sự việc diễn ra. Điều này làm cho câu chuyên thêm chân thật, gần gũi với người đọc, khiến cho câu chuyện đa giọng điệu chứ không đơn điệu.
Cách thức 3
+ Cái hay của truyện thể hiện rõ nhất ở những tình huống bất ngờ (lão Hạc bán con chó Vàng và lão Hạc tự vẫn) và cách xây dựng nhân vật.
+ Việc tạo dựng tình huống bất ngờ khiến phẩm chất của lão Hạc được làm bật nổi.
+ Nhân vật được xây dựng thông qua điểm nhìn từ một nhân vật khác, nhân vật hiện lên với nét tính cách điển hình.
+ Sử dụng ngôi kể thứ nhất khiến câu chuyện trở nên đáng tin cậy hơn, nhân vật kể chuyện cũng dễ dàng bộc lộ cảm xúc suy nghĩ nhằm thể hiện tư tưởng của tác giả.
Câu 6 (trang 48 sgk ngữ văn 8 tập 1)
Cách thức 1
– Ý nghĩ của nhân vật “tôi” mang tính triết lí nêu lên bài học về cách nhìn người, nhìn đời và cách ứng xử trong cuộc sống.
– Còn thể hiện tấm lòng, tình thương của tác giả với con người.
Cách thức 2
– Đừng nhìn người khác một cách phiến diện, hãy cố tìm hiểu thế giới tâm hồn, bản tính của họ.
– Hãy đặt bản thân vào vị trí của họ để tìm hiểu, đừng nhìn bên ngoài rồi phán xét.
– Cần khám phá, trân trọng vẻ đẹp bên trong của con người, cảm thông với họ.
Cách thức 3
Ý nghĩ của nhân vật tôi “Chao ôi….ích kỉ che lấp mất”:
+ Không thể phán xét con người chỉ bằng những điều ta trông thấy bên ngoài, ta phải cố mà tìm hiểu họ.
+ Muốn hiểu và thông cảm được với người khác, ta cũng phải biết dẹp bỏ lòng ích kỉ của riêng mình.
+ Cuộc sống hiện thực đầy nghiệt ngã này đã khiến tình yêu thương, sự cảm thông trong mỗi người bị rút cạn dần đi.
Câu 7 (trang 48 sgk ngữ văn 8 tập 1)
Cách thức 1
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc cho thấy:
– Cuộc sống người nông dân trong xã hội cũ: nghèo khổ, bất hạnh, bị xã hội đè nén, áp bức.
– Phẩm chất cao đẹp: hiền lành, lương thiện, giàu tình thương, không bị hòa đục trong dòng nước xã hội.
Cách thức 2
Cuộc sống của người nông dân trong xã hội cũ qua đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” và truyện ngắn “Lão Hạc”:
– Cuộc sống nghèo khổ, đói kém, lạc hậu.
– Họ bị bóc lột, bị chèn ép, sống trong bất công.
– Họ luôn giữ được phẩm chất trong sạch, nhân cách cao đẹp , giàu lòng yêu thương, giàu sức mạnh phản kháng tiềm tàng.
Cách thức 3
Qua hai truyện ngắn trên, người nông dân trong xã hội cũ hiện lên:
+ Cuộc sống khó khăn, túng quẫn đến tột cùng.
+ Nhưng họ có phẩm chất tốt đẹp, ngời sáng, giàu đức hi sinh, giàu tình yêu thương, không bị tha hóa bởi miếng cơm manh áo.
Tổng kết nội dung tác phẩm Lão Hạc
2. Tình cảnh đói khổ, túng quẫn đã đẩy lão Hạc đến tình trạng tuyệt vọng: lão không thể giữ con chó, lão không thể đợi con trai trở về. Lòng thương con không cho phép lão phạm vào tài sản của con trai. Lão tự chọn cái chết để giải thoát cho mình và giữ trọn mảnh vườn cho con trai.Những điều lão Hạc thu xếp nhờ cậy ông giáo rồi sau đó tìm đến cái chết cho thấy: lão Hạc ở trong tình cảnh đau khổ và bi quẫn, nhưng cũng rất tự trọng và kiên quyết.
3. Thái độ và tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc diễn biến đa dạng theo tình huống của tác phẩm: từ dửng dưng đến cảm thông (nghe lão Hạc nói chuyện bán chó, nghe lão kể về đứa con), thoáng buồn và nghi ngờ (khi nghe Binh Tư kể), kính trọng (khi chứng kiến cái chết dữ dội của lão Hạc).
4. Chi tiết lão Hạc xin bả chó của Binh Tư được Nam Cao sắp xếp vào phần sau của câu chuyện như là một chi tiết có ý “đánh lừa” dòng cảm xúc của người đọc. Nó đây những suy nghĩ tốt đẹp của người đọc và ông giáo sang hướng khác (hoài nghi, buồn). Thế nhưng cái chết bất ngờ của lão lại khiến cho cả ông giáo và chúng ta nữa phải giật mình suy ngẫm về SỐ kiếp con người trong xã hội xưa. Cách sắp xếp tình tiết như vậy đã làm nổi bật lên giá trị nhân cách cũng như cái tình thế quẫn bách tột cùng của lão Hạc. Đồng thời cũng hiểu được sự cảm thông sâu sắc của ông giáo đối với lão Hạc.
7. Đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc được sáng tác theo phong cách hiện thực, phản ánh cuộc đời và tính cách của người nông dân trong xã hội cũ. Họ là người sống khổ cực vì bị áp bức bóc lột nặng nề, phải chịu sưu cao thuế nặng. Cuộc sống của họ lâm vào cảnh bần cùng, bế tắc. Tuy vậy, họ có những phẩm chất đáng quý là trong sạch, lương thiện, giàu tình thương yêu. Họ quyết liệt phản kháng hoặc thậm chí dám chọn cái chết để giữ gìn phẩm chất trong sạch của mình. Điều đó cho thấy: người nông dân trong xã hội cũ tiềm tàng một sức mạnh của tình cảm, một sức mạnh phản kháng chống lại áp bức, bất công.
Chúc các em soạn bài Lão Hạc tốt và đừng quên tham khảo nhiều bài soạn văn 8 khác tại Tuyển Sinh AZ để học tốt hơn môn Ngữ Văn lớp 8