Ngữ Văn 10 Soạn Văn Bài Chí Khí Anh Hùng / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Ngữ Văn 10 Đoạn Trích: Chí Khí Anh Hùng (Trích Truyện Kiều

Lê Thị Thủy

Website Luyện thi online miễn phí,hệ thống luyện thi trắc nghiệm trực tuyến miễn phí,trắc nghiệm online, Luyện thi thử thptqg miễn phí

Chí khí anh hùng, Giáo an Chí khí anh hùng theo định hướng phát triển năng lực, Phong cách ngôn ngữ của Chí khí anh hùng, Soạn văn 10 bài Chí khí anh hùng, Dạy bài Chí khí anh hùng, Giáo án điện tử bài Chí khí anh hùng, Nghệ thuật Chí khí anh hùng.

Chí khí anh hùng, Giáo an Chí khí anh hùng theo định hướng phát triển năng lực, Phong cách ngôn ngữ của Chí khí anh hùng, Soạn văn 10 bài Chí khí anh hùng, Dạy bài Chí khí anh hùng, Giáo án điện tử bài Chí khí anh hùng, Nghệ thuật Chí khí anh hùng, Giáo án 5 bước chí khí anh hùngĐoạn thơ Chí khí anh hùng, Mở bài Chí khí anh hùng, Dàn ý Chí khí anh hùng, Cảm nhận về đoạn trích Chí khí anh hùng, Chí khí anh hùng Soạn, Trao duyên, Nghệ thuật bài chí khí anh hùng, Chí khí anh hùng loigiaihay

Đoạn trích: Chí khí anh hùng (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Nội dung đoạn trích Chí khí anh hùng

I. Đôi nét về tác phẩm Chí khí anh hùng

1. Vị trí đoạn trích

    Đoạn trích từ câu 2213 đến câu 2230 của Truyện Kiều, bao gồm ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ đối thoại, cho thấy chí khí của Từ Hải

2. Bố cục (3 phần)

– Phần 1 (4 câu đầu): Khát vọng lên đường của Từ Hải

– Phần 2 (12 câu tiếp): Cuộc đối thoại giữa Từ Hải và Thúy Kiều

– Phần 3 (còn lại): Hành động ra đi dứt khoát của Từ Hải

3. Giá trị nội dung

    Qua hình tượng nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du thể hiện lí tưởng về người anh hùng lí tưởng và gửi gắm ước mơ công lí

4. Giá trị nghệ thuật

– Bút pháp lí tưởng hóa nhân vật

– Hình ảnh kì vĩ, mang tính ước lệ tượng trưng

II. Dàn ý phân tích Chí khí anh hùng (Trích Truyện Kiều)

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều

– Giới thiệu khái quát về đoạn trích “Chí khí anh hùng”

II. Thân bài

    1. Khát vọng lên đường của Từ Hải (4 câu đầu)

– Hoàn cảnh chia tay: Thúy Kiều và Từ Hải đang có cuộc sống hạnh phúc “hương lửa đương nồng”

– Hình ảnh Từ Hải:

    + Trượng phu: chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng

        → Thái độ trân trọng, kính phục của Nguyễn Du đối với Từ Hải

    + Thoắt: dứt khoát, mau lẹ, nhanh chóng

    + Động lòng bốn phương: trong lòng nao nức chí tung hoành bốn phương

    + Lên đường thẳng rong: đi liền một mạch

        → Một tư thế đẹp, hiên ngang, không vướng bận của người quân tử sẵn sàng lên đường

       

Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của khát vọng công danh

  

  2. Cuộc đối thoại giữa Từ Hải và Thúy Kiều (12 câu tiếp theo)

        a) Lời của Thúy Kiều

– Xưng hô: chàng – thiếp

        → Tình cảm vợ chồng mặn nồng, thắm thiết

– Phận gái chữ tòng: bổn phận của người vợ phải theo chồng

– Một lòng xin đi: quyết tâm theo Từ Hải

       

Thúy Kiều không chỉ ý thức được bổn phận người vợ, thể hiện tình yêu với chồng mà còn hiểu, khâm phục và kính trọng Từ Hải. Nàng xứng đáng là tri kỉ của bậc anh hùng

        b) Lời của Từ Hải

– Lời đáp của Từ Hải:

    + Từ chối mong muốn của Thúy Kiều

    + Khuyên Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng làm vợ anh hùng

    + Coi Kiều là tri kỉ, là người hiểu mình

        → Tính cách anh hùng của Từ Hải

– Lời hứa của Từ Hải:

    + Rõ mặt phi thường: tạo nên sự nghiệp xuất chúng, phi thường. Đó chính là niềm tin vào bản thân, vào sự nghiệp của mình

    + Rước nàng về dinh: hứa đón Kiều trở về

        → Người anh hùng có chí khí, có sự thống nhất giữa lí trí, khát vọng phi thường và tình cảm sâu nặng với tri kỉ

    + Bốn bể không nhà: khẳng định thực tế gian nan, vất vả, khó khăn của buổi đầu lập nghiệp

    + Lời hẹn”một năm”: mốc thời gain cụ thể, nhanh chóng

        → Lời hẹn ước dứt khoát, ngắn gọn, tự tin

       

Từ Hải không chỉ là người anh hùng có khát vọng, có chí lớn mà còn là người rất tự tin vào tài năng của mình

  

  3. Hành động ra đi dứt khoát của Từ Hải (2 câu còn lại)

– Hành động: quyết lời, dứt áo ra đi

        → Thái độ, cử chỉ, hành động dứt khoát, không hề do dự, không để tình cảm bịn rịn làm lung lạc và cản bước ý chí anh hùng

– Hình ảnh chim bằng: hình ảnh tượng trưng cho người anh hùng có lí tưởng cao đẹp, hùng tráng, phi thường, mang tầm vóc vũ trụ

       

Hình ảnh người anh hùng Từ Hải thể hiện ước mơ về người anh hùng lí tưởng của Nguyễn Du

III. Kết bài

    Khái quát về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm

 

Soạn Bài: Chí Khí Anh Hùng

Soạn bài: Chí khí anh hùng – Truyện Kiều trang 112 SGK Ngữ văn 10

Anh (chị) hãy cho biết hàm nghĩa các cụm từ “lòng bốn phương” và “mặt phi thường”. Tìm những từ ngữ thể hiện sự trân trọng, kính phục của Nguyễn Du với Từ Hải.

KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Vị trí của đoạn trích

Kiều bị lừa và rơi vào lầu xanh lần thứ hai, cuộc đời nàng hầu như bế tắc hoàn toàn thì đột nhiên Từ Hải xuất hiện đưa Kiều thoát khỏi cảnh ô nhục. Hai người rất tâm đầu ý hợp, sống hạnh phúc. Nhưng Từ Hải không bằng lòng với cuộc sống êm đềm bên cạnh nàng Kiều tài sắc, chàng muốn có sự nghiệp lớn nên sau nửa năm “Hương lửa đang nồng” đã từ biệt Kiều ra đi. Đoạn trích này cho thấy chí khí của Từ Hải.

2. Bố cục: Đoạn trích gồm 18 câu được chia làm ba phần:

– 4 câu đầu: Cuộc chia tay sau nửa năm chung sống.

– 12 câu tiếp: Cuộc đối thoại giữa Kiều và Từ Hải – thể hiện tính cách anh hùng của Từ Hải.

– Hai câu cuối: Hình ảnh ra đi của người anh hùng.

3. Chủ đề

Đoạn trích là ước mơ công lí của Nguyễn Du gửi gắm qua hình tượng Từ Hải với dáng dấp tráng chí của một bậc đại trượng phu anh hùng cái thế, một tráng sĩ anh hùng tung hoành trong thiên hạ, vừa có chí khí phi thường vừa có tâm hồn khoáng đạt. Đồng thời đoạn trích còn thể hiện ngòi bút đầy sáng tạo của Nguyễn Du khi xây dựng hình tượng nhân vật Từ Hải với bút pháp ước lệ và cảm hứng vũ trụ gắn bó chặt chẽ với nhau.

4. Nội dung chính

Chí khí anh hùng là đoạn trích nói về Từ Hải – một “anh hùng cái thế”, nhân vật thể hiện giấc mơ công lí của Nguyễn Du. Đoạn trích khắc hoạ hình ảnh Từ Hải với tính cách anh hùng, chí khí phi thường, khát vọng tự do mãnh liệt.

Từ ngoại hình lời nói, đến hành động, tính cách và ngay cả cách tỏ tình của Từ Hải đều toát lên phẩm chất người anh hùng lí tưởng. Tâm thế Từ Hải luôn thuộc về “bốn phương”, chàng là người của ‘Trời bể mênh mông’ và sẵn sàng vào tư thế “thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong”.

Mọi việc đến nhanh, dồn dập và dứt khoát. Khẩu khí, lời nói của Từ Hải khi từ biệt Kiều thể hiện rõ là của một bậc trượng phu chí lớn, đàng hoàng, đĩnh đạc, có hào khí.

Đoạn trích so với Kim Vân Kiều truyện là hoàn toàn sáng tạo, ngôn ngữ điêu luyện, hình ảnh gợi tả, gợi cảm lớn, giọng điệu đầy hào sảng… tất cả bộc lộ khuynh hướng lí tưởng hoá trong việc xây dựng nhân vật Từ Hải.

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI Câu 1: Anh (chị) hãy cho biết hàm nghĩa các cụm từ “lòng bốn phương” và “mặt phi thường”. Tìm những từ ngữ thể hiện sự trân trọng, kính phục của Nguyễn Du với Từ Hải.

a. “Lòng bốn phương” là cụm từ có sức gợi tả và gợi cảm lớn. Từ Hải nghe tiếng gọi của bốn phương dậy lên trong lòng trượng phu chí lớn. Bốn phương ở đây có ý nghĩa chỉ thiên hạ, thế giới “Lòng bốn phương” đồng nghĩa với “Chí tang bồng”, “Chí làm trai”… Hai câu ba và bốn mở ra không gian “bốn phương” rộng lớn: ‘Trời bể mênh mang”, “Lên đường thẳng dong” không gian có sức biểu đạt “chí khí anh hùng”. So với hiện thực xã hội phong kiến, Từ Hải là một con người “quá kích cỡ”, vì thế hình ảnh Từ Hải phải được đặt trong không gian vũ trụ, trời đất.

b. phi thường là cụm từ chỉ phẩm chất xuất chúng, hơn người. Điều đó

không chỉ đơn giản thể hiện một cách cụ thể ở dung mạo bên ngoài (Râu hùm hàm én, mày ngài / Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao) mà quan trọng hơn là toàn bộ phẩm chất, tính cách cũng như cuộc đời, sự nghiệp của con người xuất chúng (trong trường hợp này “mặt phi thường” đồng nghĩa với “người phi thường”, “đời phi thường”, “sự nghiệp phi thường”…).

c. Hai cụm từ: “lòng bốn phương” và “mặt phi thường” và có ý nghĩa chí khái niệm đồng thời cũng chính là hình tượng văn học. Chúng có quan hệ tương hỗ để làm nổi bật quan niệm về người anh hùnc của Nguyễn Du: những người anh hùng là những người xuất chúng, phi thường, phi phàm, mang tầm vóc vũ trụ chứ không phải người thường. Điều đó thể hiện rõ qua việc sử dụng các yếu tố của thi pháp tả người anh hùng là gắn với các hình tượng thiên nhiên, không gian vũ trụ.

d. Trong đoạn trích, Nguyễn Du sử dụng rất nhiều từ ngữ biểu thị thái độ trân trọng, kính phục Từ Hải:

– Từ ngữ có sắc thái tôn xưng như: “trượng phu”, “lòng bốn phương”, “mặt phi thường”…

– Từ ngữ chỉ hình ảnh kì vĩ, lớn lao: “mười vạn rinh binh”, “bóng tinh rợp đường”, “gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”…

– Từ ngữ diễn tả hành động dứt khoát: “thoắt đã động”, “/ểrt đường thẳng dong”, “quyết lời dứt áo ra đi”…

Miêu tả Từ Hải với thái độ ngưởng mộ, trân trọng và ngợi ca, Nguyễn Du đã dồn tất cả vẻ đẹp của người anh hùng lí tưởng, giấc mơ của nhân dân vào trong hình tượng này.

Câu 2.Từ Hải bộc lộ lí tưởng anh hùng của mình qua lòi nói với Thúy Kiều như thế nào?

Lí tưởng anh hùng của Từ Hải được Nguyễn Du khai thác tinh tế qua cảnh tiễn biệt với Thuý Kiểu, đặc biệt qua những lời nói với nàng.

a. Khác với cảnh tiễn biệt giữa Kiều với Kim Trọng và Kiều với Thúc Sinh, đây là cảnh tiễn biệt của Kiều với một trượng phu chí lớn. Chí khí, lòng quyết tâm của Từ Hải là không gì lay chuyển. Quan niệm về người anh hùng theo Từ Hải là phải lạo dựng sự nghiệp lớn để thực hiện giấc mơ công lí. Vì thế sau hơn nửa năm gắn bó, khát vọng ấy đã thôi thúc trái tim chàng, chàng ý thức được đã đến lúc phải lên đường. Vì vậy việc ra đi của Từ Hải là công việc tất yếu, quan trọng hàng đầu.

Miêu tả một cách ước lệ, để Từ Hải lên ngựa và “lên đường thẳng dong'” rồi Nguyễn Du mới nói đến lời tiễn biệt của Kiều chính là vì muốn tôn vinh Từ Hải như một nhân vật anh hùng nổi bật.

b. Trong lời nói với Kiều, Từ Hải đã bộc lộ lí tưởng, tính cách anh hùng như thế nào?

– Coi Kiều khác hẳn với những người vợ “nữ nhi thường tình” mà là ‘Tâm phúc tương tri” của mình (người hiểu biết lòng dạ mình một cách sâu sắc)

– Khẩu khí lời nói của Từ Hải rõ là của bậc trượng phu chí lớn, đàng hoàng, đĩnh đạc, có hào khí. Khẩu khí ấy một phần được tạo nên bởi các hình ảnh phi thường, hào hùng: “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường”, “bốn bể không nhà”.

Lời của Từ Hải nói với Kiều không chỉ là lời của người yêu với người yêu, của người chồng với người vợ mà hơn hết đó là lời của một trang anh hùng với người “tóm phúc tương tri”. Qua lời Từ ta thấy hiên lên tính cách, phẩm chất, chí khí và khát vọng của một tranh anh hùng hảo hán.

Câu 3: Nêu nhận xét về đặc điểm của cách miêu tả (hiện thực hay lí tưởng hoá) người anh hùng Từ Hải trong đoạn trích. Đây có phải là cách tả phổ biến của ván học trung đại không?

Từ Hải là nhân vật lí tưởng. Nguyễn Du đã dựng chân dung Từ Hải với cảm hứng ngợi ca bởi Từ chính là giấc mơ công lí của tác giả. Vì vậy miêu tả theo bút pháp hiện thực sẽ không làm nổi bật được điều đó mà phải miêu tả theo bút pháp ước lệ, lí tưởng hoá.

a. Nhà thơ đã khắc hoạ những hình ảnh phóng túng, oai hùng, con người “thanh gươm yên ngựa”, “tưởng như che cả trời đất” (Hoài Thanh). Đoạn thơ khép lại bằng cách mở ra hình ảnh cánh chim bằng lướt gió tung mây “G/ớ mây bằng đã đến kì dặm khơi”

b. Nhà thơ sử dụng hộ thống từ ngữ chỉ bậc “trượng phu”: thoắt, quyết, dứt (áo), lòng bốn phương, thẳng dong, dậy đất, rợp đường, tinh binh, phi thường, bốn bể, dặm khơi…

c. Ngôn ngữ đối thoại cùng với những biện pháp miêu tả có tính nhân xưng, ước lệ cũng góp phần làm cho khuynh hướng lí tưởng hoá trong ngòi bút Nguyễn Du thêm phần nổi bật. Hình ảnh Từ Hải được hiện lên với vẻ đẹp của sự phi thường.

Anh hùng, tráng sĩ là mẫu nhân vật lí tưởng truyền thống của văn học trung đại. Hình tượng Từ Hải của Nguyễn Du vừa nằm trong hệ thống thi pháp tả người anh hùng của văn học trung đại đồng thời có những nét riêng biệt, độc đáo, đặc biệt là Nguyễn Du đã khéo léo lồng những phẩm chất rất anh hùng ở Từ Hải vào trong những phẩm chất rất nhiều khiến cho nhân vật anh hùng nhưng không cách biệt với đời thường.

Giáo Án Ngữ Văn 10 Tiết 86: Chí Khí Anh Hùng ( Trích ” Truyện Kiều”

( Trích ” Truyện Kiều” – Nguyễn Du)

A. Mục tiêu cần đạt:

– Hiểu được lí tưởng anh hùng của Nguyễn Du qua nhân vật Từ Hải.

– Thấy được nghệ thuật tả người anh hùng trong đoạn trích.

B. Phương pháp:

– Đọc hiểu tích cực

– Đàm thoại gợi mở

C. Phương tiện:

SGK, SGV, giáo án

D. Trọng tâm bài học:

– Lí tưởng anh hùng của Nguyễn Du gửi gắm qua nhân vật Từ Hải

– Nghệ thuật tả người anh hùng trong đoạn trích nói riêng và thi pháp tả anh hùng trong văn học trung đại nói chung.

Tiết 86 CHÍ KHÍ ANH HÙNG ( Trích " Truyện Kiều" - Nguyễn Du) Mục tiêu cần đạt: Giúp HS: Hiểu được lí tưởng anh hùng của Nguyễn Du qua nhân vật Từ Hải. Thấy được nghệ thuật tả người anh hùng trong đoạn trích. Phương pháp: Đọc hiểu tích cực Phát vấn Đàm thoại gợi mở Phương tiện: SGK, SGV, giáo án Trọng tâm bài học: Lí tưởng anh hùng của Nguyễn Du gửi gắm qua nhân vật Từ Hải Nghệ thuật tả người anh hùng trong đoạn trích nói riêng và thi pháp tả anh hùng trong văn học trung đại nói chung. Tiến trình lên lớp: Ổn định tổ chức. Bài mới. GV dẫn: Trong ®êi KiÒu cã nhiÒu cuéc chia tay, chia tay ®ét ngét víi Kim Träng khi mèi t×nh ®Çu chím hÐ; chia tay Thóc Sinh trong t©m tr¹ng c" ®¬n, ®Çy dù c¶m kh"ng lµnh. Trong ®o¹n trÝch nµy t¸c gi¶ t¸i hiÖn c¶nh KiÒu chia tay Tõ H¶i ®Ó chµng ra ®i thùc hiÖn nghiÖp lín. Nh­ng t¹i sao ta l¹i ®Æt tªn cho ®o¹n trÝch nµy lµ "ChÝ khÝ anh hïng" mµ kh"ng ph¶i "Tõ H¶i chia tay Thuý KiÒu"? §ã lµ v× ®o¹n trÝch nµy kh"ng tËp trung kh¾c ho¹ c¶nh chia tay mµ muèn kh¾c ho¹ Tõ H¶i ë vÎ ®Ñp, tÇm vãc vµ quyÕt t©m ®¹t ®Õn kh¸t väng. Hoạt động của GV và HS Yêu cầu cần đạt HĐ1: GV hướng dẫn HS tìm hiểu chung về đoạn trích. - GV hỏi: Em hãy tóm tắt những nội dung chính của phần Tiểu dẫn? - HS suy nghĩ, trả lời - GV nhận xét, chốt HĐ2: Hướng dẫn đọc hiểu khái quát - GV gọi 1 HS đọc diễn cảm VB, 1 HS khác nhận xét cách đọc. - HS đọc, nhận xét - GV nhận xét cách đọc, hướng HS đến cách đọc đúng cho đoạn trích: giọng đọc chậm rãi, hào hùng thể hiện sự khâm phục, ngợi ca. - GV lưu ý HS phần chú giải từ khó chân trang113. - Hỏi: Em hãy cho biết trong đoạn trích trên có lời của những ai? GV hỏi: Theo em nên chia đoạn trích này thành mấy phần? Nêu nội dung chính của từng phần? HS trả lời GV gọi HS bổ sung GV chốt HĐ3. Hướng dẫn đọc hiểu chi tiết GV yêu cầu 1 HS đọc diễn cảm 4 câu thơ đầu. Gv hỏi: Em hãy cho biết Từ Hải ra đi trong hoàn cảnh nào? HS suy nghĩ, trả lời GV bình: Thời điểm Từ Hải ra đi lập nên sự nghiệp lớn cũng chính là lúc cuộc sống lứa đôi với Thúy Kiều mới đang bắt đầu và vô cùng mặn nồng hạnh phúc. Đó là cuộc sống của "Trai anh hùng, gái thuyền quyên Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng". Thúy Kiều là tri kỉ của anh hùng, Từ Hải là tri kỉ của giai nhân, họ đã nhận ra nhau ngay từ buổi đầu gặp gỡ " Cười rằng " Tri kỉ trước sau mấy người". Thế nhưng Từ Hải không bằng lòng với cuộc sống êm đềm nhưng chật hẹp, tù túng mà luôn khao khát giấc mộng anh hùng nên đã dứt áo ra đi. - GV hỏi: Hình ảnh Từ Hải được hiện lên qua những từ ngữ, hình ảnh, chi tiết nào trong 4 câu thơ trên? - HS phát hiện chi tiết - GV nhận xét và yêu cầu HS trình bày cách hiểu về các chi tiết, hình ảnh đã tìm ra. GV bình cụm "lòng bốn phương":Bốn phương ở đây là đông, tây, nam, bắc có nghĩa là thiên hạ thế giới. Theo Kinh lễ, xưa sinh con trai, người ta làm cái cung bằng cây dâu, tên bằng cỏ bồng gọi tắt là tang bồng, bắn ra bốn phương, tượng trưng cho mong muốn sau này người con trai làm nên sự nghiệp lớn. Nên khi nói đến lòng bốn phương là nói đến chí tang bồng, chí làm trai của nam tử thời xưa.Ngày xưa chí làm trai là phải "xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên". Chính Nguyễn Công Trứ cũng từng khẳng định " Chí làm trai nam bắc Đông Tây, cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể. Vốn là một bậc anh hùng cái thế " đội trời đạp đất" với " gươm đàn nửa gánh non sông một chèo, Từ Hải làm sao có thể say sưa trong hạnh phúc lứa đôi khi mà chí lớn chưa thành? Chính vì vậy chàng đã quyết chí "lên đường thẳng rong"dứt khoát và mau lẹ chứ hề không bịn rịn, quyến luyến gia đình. GV: Em có nhận xét gì về tâm thế ra đi của Từ Hải? HS trả lời GV nhận xét, chốt GV bình:Từ Hải ra đi một cách mau lẹ, dứt khoát trong không gian mênh mang cao rộng của trời đất: "Trông vời trời bể mênh mang"Câu thơ miêu tả hành động nhìn ra xa, đồng thời khắc hoạ dáng vẻ phóng khoáng của Từ Hải. Nguyễn Du đã xây dựng hình ảnh Từ Hải song song, sánh ngang với hình ảnh trời đất. Nhắc đến Từ Hải là thấy hình ảnh cao rộng của trời đất, vũ trụ. Những từ láy, từ biểu cảm chỉ độ rộng, độ cao càng khắc hoạ rõ hơn tư thế của Từ Hải. Cái nhìn của chàng không phải là trông hay nhìn bình thường mà là "trông vời" - cái nhìn ẩn chứa sự sáng suốt và suy nghĩ phi thường. Từ Hải một mình ra đi thực hiện ý nguyện của mình. Việc xây dựng Từ Hải độc lập một mình không làm chân dung chàng đơn độc mà càng cho thấy sự dũng mãnh của chàng. Hành động được miêu tả đầy sự dứt khoát, nhanh nhẹn. Đã nghĩ là làm, Từ Hải không bao giờ chần chừ, do dự, suy tính lâu. "Thoắt đã động lòng bốn phương" là "lên đường thẳng rong" ngay. GV: Nguyễn Du đã xuất phát từ cảm hứng gì khi miêu tả khi miêu tả người anh hùng? HS trả lời GV nhận xét, chốt GV: Tóm lại qua bốn câu thơ đầu tác giả cho chúng ta thấy được điều gì ở nhân vật Từ Hải? HS trả lời GV chốt GV gọi HS đọc, cho HS xác định lời của Thúy Kiều và Từ Hải. GV: Trước quyết định ra đi của Từ Hải, Thúy Kiều có thái độ ntn? Thái độ ấy được thể hiện qua những hình ảnh, chi tiết nào? HS trả lời GV nhận xét, chốt ý (GV có bình thêm về chữ "tòng" trong quan niệm của Nho giáo) GV: Qua câu nói này em thấy Kiều là một người vợ ntn? HS trả lời GV chốt ý GV yêu cầu HS đọc toàn bộ những câu lời của TH GV: Trước thái độ của TK như vậy, TH đã trả lời ra sao? HS phát hiện, trả lời. GV nhận xét, chốt GV giải thích cụm " tâm phúc tương tri": hai người đã hiểu biết lòng dạ nhau, tức là đã hiểu nhau sâu sắc. GV bình: Trong lời đáp của mình Từ Hải đã từ chối mong muốn của Kiều và khẳng định tình cảm chân thành đối với K, coi nàng là người tri ân, tri kỉ vì trong cuộc hội ngộ ở lầu xanh chính K đã nhìn ra TH bằng con mắt tinh đời của mình: "Khen cho con mắt tinh đời Anh hùng đoán giữa trần ai mới già". TH khuyên K nên vượt lên thói tầm thường nhi nữ. Lời trách khéo của Từ với Kiều đồng thời cũng là lời khẳng định và nâng vị thế của nàng ( một kĩ nữ lầu xanh" lên ngang tầm với mình ( một vị anh hùng). Đằng sau lời trách ấy là ý chí dứt khoát, kiên quyết,ko bị níu kéo bởi thê nhi của TH. GV: Sau khi từ chối TK, Từ Hải muốn nói gì với nàng qua bốn câu thơ tiếp theo? HS trả lời GV nhận xét, chốt GV bình: Nguyễn Du đã sử dụng một loạt các từ ngữ, hình ảnh thuộc phạm trù không gian như " mười vạn tinh binh" với bóng cờ, tiếng chiêng gợi nên khát vọng lớn lao, tầm vóc vũ trụ của người anh hùng TH. Khát vọng " làm cho rõ mặt phi thường" chính là khát vọng xây dựng một sự nghiệp, công danh lừng lẫy, xuất chúng, hơn người. Thành công ấy sẽ là sính lễ để TH rước người tri kỉ. " Nghi gia" là nghi thức đón người con gái về làm vợ, làm dâu, một nghi thức có nhiều bước chu đáo và trang trọng. Thế là so với lần chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh trước đây thì lời hứa thực hiện những nghi thức trang trọng này chính là món quà và là hành động rửa sạch vết nhơ của đời kĩ nữ cho Kiều. GV: Em có nhận xét gì về TH qua lời hứa với TK? HS trả lời GV nhận xét, chốt GV : Ngoài lời hứa trở về đón TK, TH còn nói những gì với TK qua 4 câu thơ tiếp. HS trả lời (GV bình qua về lời khẳng định của TH) GV nhận xét, chốt GV bình: Người ta học nghề mất vài ba năm, phải mất hàng chục năm nghề nghiệp mới tinh thông vững vàng. Sự nghiệp lớn muốn hoàn thành có khi phải hiến dâng trọn đời người. TH quyết việc lớn ấy sẽ được thực hiện trong một năm. Phải là một người quyết đoán, tự tin, đầy tài năng mới dám đặt ra một thời hạn như thế cho một sự nghiệp long trời lở đất. GV: Tóm lại, em có nhận xét gì về TH qua đoạn đối thoại với TK? HS trả lời GV nhận xét, chốt GV: Hai câu thơ cuối cho ta thấy hành động gì của TH? HS trả lời GV nhận xét, chốt ý GV bình: Theo sách xưa kể rằng chim bằng là một giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước trong ba ngàn dặm, cưỡi gió mà bay lên chín ngàn dặm. Chim bằng trong thơ văn thường tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khao khát làm nên sự nghiệp lớn. Đem hình ảnh chim bằng để ẩn dụ cho tư thế ra đi của TH, Nguyễn Du muốn khẳng định TH chính là bậc anh hùng cái thế có tầm vóc phi thường, sánh ngang đất trời, vũ trụ. GV: Theo em Nguyễn Du đã gửi gắm điều gì qua nhân vật TH? HS trả lời GV chốt GV bình: Trong KVK truyện, TH chỉ đơn thuần là một tên tướng cướp từng thi hỏng và đi buôn... Nhưng trong TK, ND đã nhận thức lại nhân vật TH, nhất quán miêu tả nhân vật với một sự cảm phục không che giấu, trao cho nhân vật TH lí tưởng anh hùng của ông. Đó là lí tưởng về một con người có phẩm chất, chí khí phi thường, một khát vọng làm nên sự nghiệp lớn. HĐ4: Hướng dẫn tổng kết bài GV: Em hãy nhận xét giá trị nghệ thuật và nội dung của đoạn trích " Chí khí anh hùng"? Theo em, vì sao tác giả lại đặt tên là CKAH? GV chốt lại những ý chính. Tìm hiểu chung Tóm tắt cuộc gặp gỡ giữa Từ Hải và Thúy Kiều Vị trí đoạn trích Câu 2213 - 2230 II. Đọc hiểu khái quát 1.Đọc, chú giải từ khó Lời tác giả Lời Thúy Kiều Lời Từ Hải 2.Bố cục: 3 phần P1: 4 câu thơ đầu→ Cuộc chia tay giữa Từ Hải và Thúy Kiều sau nửa năm chung sống P2: 12 câu thơ tiếp→ Cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải - tính cách anh hùng của Từ P3: 2 câu cuối: Hình ảnh Từ Hải dứt áo ra đi. III. Đọc hiểu chi tiết. 4 câu đầu: "Nửa năm hương lửa đương nồng, Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương. Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong." Thúy Kiều và Từ Hải đang có cuộc sống vô cùng hạnh phúc "hương lửa đương nồng" Trượng phu: chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng → Thái độ trân trọng, kính phục của Nguyễn Du với Từ Hải. Thoắt: dứt khoát, mau lẹ,nhanh chóng. Động lòng bốn phương: trong lòng náo nức chí tung hoành ở bốn phương Lên đường thẳng rong: đi liền một mạch → Một tư thế đẹp, hiên ngang không vướng bận, không lệ bộ của người quân tử sẵn sàng lên đường. → Cảm hứng vũ trụ, con người vũ trụ với kích thước phi thường, không gian bát ngát, ngợi ca, khâm phục. 2. 12 câu tiếp: a. Lời Thúy Kiều: - Xưng hô: Chàng - thiếp: tình cảm vợ chồng mặn nồng, tha thiết. - Phận gái chữ tòng: bổn phận của người vợ phải theo chồng. - Một lòng xin đi: quyết tâm theo Từ Hải → Muốn ra đi để tiếp sức, chia sẻ, gánh vác công việc với chồng b. Lời Từ Hải * Lời đáp: "Từ rằng: "Tâm phúc tương tri Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình" Từ chối mong muốn của Kiều Khuyên Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng làm vợ một người anh hùng. Coi Kiều là người tri kỉ, hiểu mình → Tính cách anh hùng của Từ Hải. * Lời hứa: "Bao giờ mười vạn tinh binh, Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường. Làm cho rỡ mặt phi thường, Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia." - Rõ mặt phi thường: tạo nên sự nghiệp xuất chúng, phi thường→ niềm tin sắt đá vào bản thân, sự nghiệp của mình. - Rước nàng nghi gia: hứa trở về đón Kiều → Người anh hùng có chí khí, sự thống nhất giữa khát vọng phi thường và tình cảm sâu nặng với người tri kỉ. * 4 câu thơ tiếp: "Bằng nay bốn bể không nhà, Theo càng thêm bận biết là đi đâu? Đành lòng chờ đó ít lâu Chầy chăng là một năm sau vội gì!" Bốn bể không nhà: khẳng định thực tế gian nan, vất vả, khó khăn của buổi đầu lập nghiệp. Lời hẹn: " một năm" : mốc thời gian cụ thể, nhanh chóng → Khẳng định ý chí, bản lĩnh, sự tự tin → Lời hẹn ước ngắn gọn, dứt khoát, tự tin 3. Hai câu cuối "Quyết lời dứt áo ra đi, Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi" Hành động : + quyết lời + dứt áo ra đi →thái độ, cử chỉ, hành động dứt khoát, không hề do dự, không để tình cảm bịn rịn làm lung lạc và cản bước ý chí người anh hùng Hình ảnh chim bằng : → ẩn dụ tượng trưng về người anh hùng có lí tưởng cao đẹp, hùng tráng, phi thường, mang tầm vóc vũ trụ. Thể hiện ước mơ về người anh hùng lí tưởng của Nguyễn Du ( chân dung kì vĩ, chí khí, tài năng, bản lĩnh phi thường, thực hiện giấc mơ công lí). IV. Tổng kết 1.Nghệ thuật * Bút pháp lí tưởng hóa : - Từ ngữ : trượng phu, thoắt... - Hình ảnh kì vĩ, ước lệ: lòng bốn phương, trời bể... 2.Nội dung Qua hình tượng nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du thể hiện quan niệm về người anh hùng lí tưởng và gửi gắm ước mơ công lý. Dặn dò: HS học thuộc lòng đoạn trích, nắm được các nét chính về ND và NT

Bài Văn Mẫu Phân Tích Đoạn Trích Chí Khí Anh Hùng Lớp 10 Hay Nhất

Đề bài: Dựa vào đoạn trích Chí khí anh hùng và những cảm nhận của bản thân, anh/chị hãy viết bài phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng, trích Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng

1. Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng, mẫu số 1:

Nếu Kim Trọng là một người thư sinh đèn sách hiếu học thì Từ Hải là một người anh hùng với khí phách hiên ngang. Từ Hải là người đã cứu Thúy Kiều thoát khỏi cảnh sống nhơ nhớp, ô nhục khi nàng rơi vào lầu xanh lần thứ hai. Hai người chung sống với nhau rất hạnh phúc nhưng do Từ Hải muốn có được sự nghiệp lớn lao nên đã từ biệt Thúy Kiều ra đi. Ý chí, quyết tâm ấy của chàng được thể hiện qua đoạn trích “Chí khí anh hùng” nằm trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.

Đoạn trích này nằm ở vị trí câu 2213 đến câu 2230 thể hiện lí tưởng về người anh hùng của tác giả. Bốn câu thơ đầu của đoạn trích đã thể hiện khát vọng lên đường vì sự nghiệp của Từ Hải:

“Nửa năm hương lửa đương nồngTrượng phu thoắt đã động lòng bốn phươngTrông vời trời bể mênh mangThanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

Trong lúc tình yêu và hạnh phúc vợ chồng đang nồng đượm, yên ấm, Từ Hải quyết chí ra đi, rời xa người vợ tài sắc để thực hiện lí tưởng nam nhi của mình. Nam nhi trong xã hội xưa muốn được công nhận thì phải có công danh, sự nghiệp, có được những công trạng lớn lao. Chẳng vậy mà Nguyễn Công Trứ từng viết:

“Chí làm trai nam bắc tây đông,Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.

Từ Hải là một đấng nam nhi muốn “vẫy vùng” nên đã “động lòng bốn phương”. Chàng là người có ý chí lập công danh, sự nghiệp lớn. Động từ “thoắt” vừa thể hiện một trạng thái nhanh chóng vừa thể hiện sự dứt khoát, kiên quyết của Từ Hải. Tác giả Nguyễn Du đã đặt người anh hùng vào tình thế khó xử khi một bên là hạnh phúc vợ chồng chốn khuê phòng như một cám dỗ còn một bên là không gian rộng lớn thỏa sức thể hiện tráng trí bốn phương. Không làm bạn đọc thất vọng, bậc trượng phu ấy đã lựa chọn con đường theo đuổi hoài bão, lí tưởng cuộc đời mình. Nguyễn Du đã thể hiện sự trân trọng nhân vật Từ Hải khi gọi chàng là “trượng phu” – người nam nhi có chí lớn, là bậc anh hùng trong thiên hạ. Dù cuộc sống vợ chồng còn nhiều lưu luyến, vẻ đẹp khiến “hoa ghen”, “liễu hờn” của người vợ Thúy Kiều còn níu bước chân người anh hùng nhưng Từ Hải vẫn quyết lên đường chinh chiến để thực hiện khát vọng “vẫy vùng trong bốn bể” mà không một chút do dự, phân vân. Một con người “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” như Từ Hải muốn thỏa sức tung hoành khắp thiên hạ cũng là điều dễ hiểu. Hình ảnh Từ Hải ra đi một mạch cùng thanh gươm trên yên ngựa trong cõi “trời bể mênh mang” thật oai phong, lẫm liệt. Những hạnh phúc cá nhân riêng tư không thể làm chùn bước chân của người anh hùng. Từ Hải “không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng, mà là người của trời đất, của bốn phương” (Hoài Thanh). Chàng đối diện với trời đất, vũ trụ bằng một tâm thế đầy chủ động.

Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng để thấy khát vọng lập công danh của Từ Hải

Cuộc chia ly nào cũng gắn với nỗi buồn, những giọt nước mắt và cuộc chia ly của Thúy Kiều – Từ Hải cũng không ngoại lệ:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòngChàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Nho giáo đã quy định người phụ nữ phải tuân theo luật “tam tòng”: ở nhà theo cha, xuất giá theo chồng, chồng chết theo con. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc đến luật lệ của đạo Nho để xin đi theo chồng. Trong lúc “hương lửa đương nồng”, nàng không muốn phải chịu cảnh xa cách, chia lìa với Từ Hải – một người chồng nhưng đồng thời cũng là một người ân nhân cứu mạng Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh. Nàng muốn được theo chồng, muốn nâng khăn sửa túi và cùng chồng sẻ chia những khó khăn trong cuộc đời. Mong muốn ấy vô cùng chính đáng bởi lẽ nữ nhi lấy chồng thì phải theo chồng. Dù phải chịu những vất vả, gian nan thì Kiều cũng nguyện một lòng ở bên Từ Hải. Nhưng với nghĩa khí của một bậc quân tử, Từ Hải đã đáp lại rằng:

“Từ rằng: Tâm phúc tương triSao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?Bao giờ mười vạn tinh binhTiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.Làm cho rõ mặt phi thườngBấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau đến mức sâu sắc vậy tại sao Kiều vẫn “chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”. Đó là lời trách cứ Thúy Kiều tuy là tri âm tri kỉ mà tại sao lại không thấu hiểu cho hành động của Từ Hải. Đồng thời đó cũng là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều vượt qua những trắc trở trước mắt để hướng về tương lai tốt đẹp sau này và mong muốn nàng đừng quá lo lắng cho mình. Từ Hải thuyết phục, hứa hẹn với Thúy Kiều bằng tình cảm chân thành, sâu nặng. Từ Hải ra đi lập sự nghiệp, công danh đến khi trở thành một con người xuất chúng, phi thường và nắm giữ trong tay “mười vạn tinh binh”thì chàng sẽ quay trở về rước Kiều “nghi gia” bằng những hình thức lễ nghi trang trọng. Vợ chồng đoàn tụ trong âm thanh rộn rã của “tiếng chiêng dậy đất” và khung cảnh ngập tràn bóng cờ trên các con đường.

Để từ chối khéo léo mong muốn của Thúy Kiều, Từ Hải đã sử dụng những lời lẽ đầy sức thuyết phục:

“Bằng nay bốn bể không nhàTheo càng thêm bận biết là đi đâu?Đành lòng chờ đó ít lâuChầy chăng là một năm sau vội gì!”

Chàng từ chối mong muốn của Thúy Kiều là vì nàng sẽ làm bận lòng mình hay thật tâm chàng không muốn người vợ của mình phải chịu những khổ cực, vất vả? Đối với đấng nam nhi, việc coi bốn bể là nhà là lẽ thường tình nhưng đối với phận nữ nhi như Thúy Kiều thì việc đó không hề dễ dàng và rất khó thích nghi. Có lẽ vì những lí do trên mà Từ Hải khuyên Kiều “đành lòng” chờ đợi ngày chàng thành công trở về. Một năm chờ đợi không phải thời gian quá dài nhưng nó lại thể hiện chí khí,lòng quyết tâm cao độ của người anh hùng Từ Hải. Việc gây dựng sự nghiệp, công danh không phải là chuyện ngày một ngày hai mà đó còn là chuyện của cả đời người nhưng Từ Hải lại hứa với Thúy Kiều sẽ đạt được công danh sau một năm nữa. Phải là người có quyết tâm cao độ, tin vào khả năng của bản thân thì mới có lời hứa như vậy.

Nếu cuộc chia tay của đôi vợ chồng trong “Chinh phụ ngâm” được Đặng Trần Côn miêu tả:

“Nhủ rồi tay lại cầm tayBước đi một bước giây giây lại dừng”

thì cuộc chia tay của Từ Hải và Thúy Kiều trong đoạn trích “Chí khí anh hùng” được Nguyễn Du miêu tả với sự dứt khoát:

“Quyết lời dứt áo ra điGió mây bằng đã đến kì dặm khơi”.

Người xưa có câu anh hùng khó qua ải mĩ nhân nhưng với khát vọng lớn lao của con người đầu đội trời chân đạp đất thì ải mĩ nhân không làm khó được Từ Hải. Hành động “dứt áo ra đi” của chàng thể hiện thái độ dứt khoát, không chút tơ vương, vướng bận chuyện cá nhân. Theo truyện ngụ ngôn trong sách Trang Tử, “chim bằng là giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước trong ba ngàn dặm, cưỡi gió mà bay lên chín ngàn dặm. Chim bằng trong thơ văn thường tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khát khao làm nên sự nghiệp lớn”. Tư thế ra đi của Từ Hải được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ chim bằng thật oai phong và có sức mạnh phi thường. Đó là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của một nhà thơ trung đại.

“Chí khí anh hùng” đã miêu tả cuộc chia ly giữa “trai anh hùng” và “gái thuyền quyên” đầy dứt khoát nhưng nổi bật lên trong đoạn trích là chí khí của người anh hùng Từ Hải. Đó là tính cách hiên ngang, ngay thẳng của bậc “trượng phu” trong thiên hạ. Nhân vật này được Nguyễn Du xây dựng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng cùng với ngôn ngữ hàm súc, mang tính biểu đạt cao. Đây cũng là yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả. Từ Hải xứng đáng là bậc nam nhi “vẫy vùng trong bốn bể”, không vì “hương lửa đương nồng” mà chùn chân, nhụt chí.

2. Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng, mẫu số 2: (Chuẩn)

Truyện Kiều là kiệt tác trong sáng tác của Nguyễn Du, cũng là một trong những tác phẩm làm nên sự hưng thịnh văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Qua Truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn Du không chỉ thể hiện sự đồng cảm, xót xa với cuộc đời truân chuyên của nàng Kiều mà còn gửi gắm ước mơ về người anh hùng có thể cứu dân, dẹp loạn thông qua hình tượng Từ Hải. Trong đoạn trích “Chí khí anh hùng”, nhân vật Từ Hải xuất hiện nổi bật với những phẩm chất phi thường và khát vọng cao đẹp của người anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất”.

Trải qua bao biến cố của cuộc đời, những tưởng cuộc đời Thúy Kiều mãi bị vùi dập trong những đau đớn, ê chề thì Từ Hải đã xuất hiện, mang theo ánh sáng hi vọng cho cuộc đời nàng. Có thể nói gặp gỡ và nên duyên cùng với Từ Hải là hạnh phúc hiếm hoi trong cuộc đời của Thúy Kiều. Tuy nhiên, cuộc sống hạnh phúc với nàng Kiều cũng không thể làm nguôi đi chí lớn của người anh hùng:

“Nửa năm hương lửa đương nồngTrượng phu thoắt đã động lòng bốn phươngTrông vời trời bể mênh mangThanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Sau nửa năm chung sống hạnh phúc với nàng Kiều, Từ Hải đã quyết định ra đi để thực hiện nghiệp lớn. Từ Hải vốn là người người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất với khát vọng tung hoành khắp muôn phương “nghênh ngang một cõi biên thùy”. Vì vậy dù đang sống trong những ngày hạnh phúc nhất cuộc đời cùng người mà mình yêu thương, trân trọng thì người anh hùng ấy cũng không thể quên đi chí lớn của người làm trai “Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”.

Tư thế ra đi của Từ Hải được tác giả Nguyễn Du tái hiện qua một động từ “thoắt” thể hiện sự mau lẹ, dứt khoát của người trượng phu. “Trời bể mênh mang” không chỉ là hình ảnh ước lệ thể hiện sự rộng lớn trời đất, nơi người anh hùng thỏa sức tung hoành ngang dọc mà còn gợi ra tầm vóc lớn lao, phi thường của người anh hùng. Hình ảnh gươm ngựa “lên đường thẳng rong” góp phần làm nổi bật lên phong thái ung dung, tư thế đĩnh đạc, hiên ngang của Từ Hải.

Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng, trích Truyện Kiều của Nguyễn Du

Thấu hiểu khát vọng và quyết tâm của Từ Hải, Kiều không ngăn cản mà bày tỏ nguyện vọng muốn đi theo để tiện bề chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chồng:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòngChàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”

Thúy Kiều muốn đi theo Từ Hải để cùng sẻ chia, gánh vác làm trọn đạo “tam tòng chữ đức” của một người vợ và làm trọn tình nghĩa với một người tri kỉ, một người ân nhân có công cứu mạng. Tuy cảm động trước tấm lòng của nàng Kiều nhưng Từ Hải đã quyết chí ra đi mà không muốn vướng bận bởi tình cảm nam nữ và cũng là muốn bảo vệ nàng Kiều khỏi những hiểm nguy nơi chiến trường nên đã từ chối:

“Từ rằng: Tâm phúc tương triSao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tìnhBao giờ mười vạn tinh binhTiếng chiêng dậy đất, bóng binh rợp đườngLàm cho rõ mặt phi thườngBấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Dù hiểu được tấm lòng của Thúy Kiều nhưng Từ Hải vẫn cố gắng khuyên nhủ Kiều và muốn nàng thoát khỏi thói “nữ nhi thường tình” và hứa hẹn về tương lai tươi sáng, khi nghiệp lớn thành công, cơ đồ được gây dựng sẽ “rước nàng nghi gia”. Qua những lời nói của Từ Hải với Thúy Kiều, ta có thể thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người anh hùng, Từ Hải không để tình cảm chi phối mà vô cùng quyết đoán, dứt khoát với hành động của mình. Cũng cần phải hiểu rằng không phải sự dứt khoát của Từ Hải khi ra đi là vì vô tình hay trọng công danh hơn tình cảm. Chàng là người sống tình cảm hơn bất cứ ai, thay vì quyến luyến, động lòng thì Từ Hải muốn thể hiện bằng hành động, bằng quyết tâm chiến thắng để mang đến nàng Kiều không chỉ là danh phận mà còn là tình cảm.

“Bằng ngay bốn bể là nhàTheo càng thêm bận, biết là đi đâuĐành lòng chờ đó ít lâuChầy chăng là một năm sau vội gì”

Nếu ở những câu thơ trên Từ Hải có ý trách móc nàng Kiều vì sự yếu đuối của nữ nhi thường tình thì ngay câu thơ sau chàng đã kín đáo thể hiện sự quan tâm, động viên với nàng. Từ Hải mang tráng khí khắp bốn phương với toàn bộ quyết tâm và tự tin nhưng chàng cũng hiểu rằng con đường mình đang đi sẽ vô cùng chông gai, đó là cuộc sống màn trời chiếu đất, bốn bể không nhà. Từ Hải không muốn Thúy Kiều đi theo một là không muốn vướng bận, hai là muốn nàng phải xông pha vào chốn hiểm nguy cùng mình. Cuối cùng, để lại bao lưu luyến, Từ Hải dứt khoát lên đường:

“Quyết lời dứt áo ra điGió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Từ Hải là nhân vật hội tụ đầy đủ những phẩm chất đẹp đẽ, phi thường của người anh hùng. Khi xây dựng nhân vật Từ Hải trong đoạn trích Chí khí anh hùng, tác giả Nguyễn Du đã kín đáo thể hiện quan niệm về người anh hùng và ước mơ công lí.

3. Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng, mẫu số 3: (Chuẩn)