Cách Vẽ Mô Phỏng Hoa Văn Thời Lý / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Englishhouse.edu.vn

Đồ Gốm Hoa Nâu Thời Lý

Đồ gốm hoa nâu thời Lý – Trần

Nắp gốm hoa nâu thời Lý, thế kỷ 11-13. BTLSQG,đường kính: 11,7-12,8 cm

Đề tài trang trí có các nhân vật Phật giáo như hình Phật ngồi toạ thiền trên toà sen, nữ thần đầu người mình chim Kinnari, Kinnara, Bát bộ Kim Cương, tiên nữ Apsara và những “em bé của thế giới cực lạc”. Đề tài rồng xuất hiện tuy không nhiều trên nắp hộp, hay trên mô hình tháp nhưng là tiêu chí quan trọng để xác định niên đại cho hiện vật. Hình ảnh hoạt động của con người cũng gây hấp dẫn rất nhiều cho những người thưởng ngoạn cổ vật săn tìm đồ gốm hoa nâu. Những hình võ sỹ đấu giáo như là hình ảnh của góc luyện tập, những cảnh săn bắn, tay kiếm và tay khiên trên các thạp gốm hoa nâu như phản ánh không khí của đất nước Đại Việt một thời sôi sục chống giặc Nguyên Mông. Lại có cảnh luyện tập võ nghệ cùng với úp cá, cầy ruộng trên một chiếc thạp, khiến người xem nhớ đến chính sách kinh tế áp dụng dưới thời Trần “ngự binh ư nông”? Các loại động vật như voi, hổ, ngựa, hươu cho đến các loài lông vũ như vẹt, gà, công, sáo, chim đuôi dài chân cao, hay các loại cá tôm dưới nước, đều được thể hiện sống động trên gốm hoa nâu. Các loài hoa lá, đặc biệt nhiều là hoa sen, cả dưới dạng phù điêu như các băng cánh sen, chạm khắc nổi trên vai ấm, thạp, liễn, đĩa sen, chân đế lọ, hộp, tầng đế tháp. Băng cánh sen cùng nhiều đề tài khác đã làm thành tổ hợp văn, mà chỉ thông qua đó đã có thể cho chúng ta nhận ra phong cách từng thời. Nếu băng cánh sen nổi, cánh to xen cánh nhỏ, dài mập, đều dặn, trau chuốt là thuộc phong cách Lý, còn cánh sen bản dẹt, đầu cánh tròn, trên mặt cánh lại xuất hiện cả mặt nhẫn là thuộc phong cách Trần. Hoa sen thể hiện theo cách khắc chìm và tô nâu khá phổ biến trên nhiều loại hình ấm, chum, chân đèn, thạp, liễn… Hoa sen thường được mô tả dưới dạng sen dây với bông sen nở theo chiều cắt dọc, các cặp cánh đối xứng theo nhịp bố cục thưa thoáng, một bông úp rồi một bông ngửa trên gốm hoa trắng nền nâu như loại thạp, bát, ấm…

Đồ gốm hoa nâu thời Trần thường thấy mô tả hoa lá sen theo xu hướng hiện thực: sen dây, sen cành và cả khóm hoa lá sen như trên thạp, chậu, chum, liễn.

Hoa cúc, tuy không phổ biến như hoa sen nhưng cũng thấy thể hiện theo kiểu chạm khắc nổi, khắc và tô nâu và rồi cả vẽ nâu dưới men trắng ngà. Hoa mai 5, 6 cánh, khắc và tô nâu trên thạp. Hoa chanh 4 cánh (hay gọi hoa thị) xuất hiện dưới dạng trổ thủng, nhưng phổ biến là khắc và tô nâu trên thạp, liễn, chậu… Cành dây lá trên thạp, bình, liễn thời Trần. Những cành lá xen kẽ với dây chấm lửng trên chậu cảnh. Hoa thị (hay quen gọi là chân chim) trên ấm và đĩa. Các loại hoa văn khác như “Sừng tê ngọc báu”, hình cây tháp nhiều tầng in nổi trong hình lá đề là loại đề tài ít gặp trên đồ gốm. Mây hình khánh in nổi hoặc khắc chìm tô nâu. Sóng nước thể hiện theo lớp vòng cung trên chân thạp, theo hình vân núi hay giống hình cánh sen dẹo. Các loại văn hình học còn gặp là hồi văn, mạng mai rùa và đặc biệt là vòng tròn nhỏ, vạch đứng song song – những hồi âm Đông Sơn, Đồ gốm hoa nâu được thể hiện theo các hình thức chính là: – Hoa văn men trắng nền men nâu, gọi là hoa trắng nền nâu. – Hoa nâu thể hiện phần hoa văn trang trí trên nền men trắng ngà (hoa nâu nền trắng). – Nền men nâu, hoa văn khắc chìm để mộc. – Men nâu vẽ hoa văn trang trí như loại men xanh cobalt dưới men nền trắng ngà. Đồ gốm men nâu phủ toàn bộ bên ngoài sản phẩm. Dựa trên các nguồn cơ sở dữ liệu về minh văn, đề tài trang trí mang đặc trưng thời đại, các đồ gốm phát hiện qua khai quật, khảo sát và phát hiện ngẫu nhiên từ lòng đất có kèm theo những đồ gốm khác cùng phong cách nghệ thuật trang trí mà chúng ta có thể đưa ra khung niên đại cho đồ gốm hoa nâu: – Thời Lý thế kỷ 11-13 – Thời Trần, thế kỷ 13-14 – Thời Trần – Lê sơ, thế kỷ 14-15.

Một số loại hình gốm hoa nâu tiêu biểu: – Ấm gốm hoa nâu thời Lý có những kiểu dáng đặc biệt với dáng hình quả đào, trang trí nổi đầu Kinnari, 2 tay nâng vòi ấm, men nâu phủ trên đầu Kinnari, cánh và đuôi, men nền trắng ngà. Ấm rượu khác có miệng đấu, cổ eo cao chia nhiều ngấn, thân hình chiếc bát sâu lòng, thành ngoài chia nhiều cánh sen, viền tô nâu, vòi cong, quai hình khuyên. Một chiếc ấm loại này còn khá nguyên đã tìm thấy được trong khu khảo cổ học Ba Đình năm 2003. Các nhà khảo cổ học đã gọi là bình rượu hoa nâu, thời Lý. Lại có chiếc ấm hình quả dưa, nắp chạm khắc nổi cánh sen phủ men nâu, vai chạm nổi băng cánh sen, vòi hình đầu rồng, quai hình chim vẹt ngủ. Xung quanh thân chia 6 ô, trong khắc cành hoa lá tô nâu. Giáp chân đế có 2 băng vòng tròn nhỏ. Chiếc ấm này cao 22cm, trước đây tìm thấy ở Đại La, nay do Bảo tàng Hoàng gia, Nghệ thuật và Lịch sử Brussels lưu giữ và trưng bày.

Ấm gốm hoa nâu thời Trần có dạng thể hiện trong hình tượng voi với người quản tượng, men nâu tô trên các đường trang trí vòng tròn nhỏ, men nền trắng ngà. Thời Trần còn có kiểu ấm miệng đấu, cổ eo, thân hình cầu, vòi cong, quai hình khuyên, trang trí văn hoa thị mầu trắng tren nền men nâu hoặc văn hoa thị mầu nâu đen trên nền men nâu vàng.

Bát gốm hoa nâu thời Lý, thế kỷ 11-13. BTLSQG, đường kính miệng 15,7 cm.

Thế kỷ 14-15, ấm gốm hoa nâu có dáng quả dưa, vòi hình đầu rồng, trên thân khắc băng hoa dây với đường chấm lửng, giữa 2 đường chỉ nâu. Cũng có loại ấm giống hoa nâu thời Trần nhưng vẽ nâu rỉ sắt vạch dọc thân hay mạng ô hình vuông. – Bình gốm hoa nâu thời Lý có miệng loe, cổ eo ngắn, thân hình cầu dẹt. Thân bổ ô hình bầu dục, trong khắc bông hoa, tô nâu. Cổ và chân đế có băng vòng tròn nhỏ tô nâu. Kiểu bình khác có dáng tỳ bà (mặt cắt dọc bình có hình cây đàn tỳ bà), thân chia múi hình cánh hoa, bên trong khắc cành hoa lá. Gờ miệng có băng tròn nhỏ tô nâu. – Bình gốm hoa nâu cuối Trần đầu Lê sơ, tạo dáng hình trụ, gờ miệng dầy, đáy bằng, trên vai đắp nổi 2 quai rồng và 2 núm ngang. Thành ngoài khắc và tô nâu 3 băng hoa lá và sóng nước trên nền men trắng ngà. – Chậu gốm hoa nâu, có một số mảnh lớn tìm thấy ở di tích thành Thăng Long đáng chú ý như mảnh chậu có gờ viền dày, thành ngoài chạm khắc các lớp cánh sen nổi, cánh to xen cánh nhỏ, men nâu tô viền cánh to, xen kẽ men trắng ngà. Mảnh chậu khác, thành ngoài khắc và tô nâu hoa chanh, văn mây hình khánh và hoa dây. Tại di tích gốm thời Trần ở xã Đa Tốn (Gia Lâm, Hà Nội) đã gặp loại chậu gốm hoa nâu có viền miệng, thành cong, đế rộng. Xung quanh thành ngoài bổ ô, khắc và tô nâu bông hoa sen nở, tương tự như các loại chậu tìm thấy ở di tích Tam Đường (Thái Bình). Cũng tại xã Đa Tốn, năm 1978 đã có một phát hiện ngẫu nhiên trong khi đào đất ở làng Lê Xá, người ta đã tìm thấy 2 chiếc chậu gốm hoa nâu chôn cùng với 3 chiếc đĩa gốm hoa lam, Hai chiếc chậu này đều đang lưu giữ tại Bảo tàng Hà Nội. Một chiếc chậu có trang trí nổi băng hoa mai và khắc chìm tô nâu băng dây lá hình sin trên nền men trắng ngà. chiếc khác phủ men nâu toàn bộ phía thành ngoài, ngoài băng hoa mai nổi, phía dưới thân còn khắc chìm để mộc bông hoa trong ô xen kẽ những hình nửa bông hoa. Phát hiện này gợi mở về những sản phẩm gốm hoa nâu sản xuất ở Bát Tràng, bên cạnh xã Đa Tốn, vào cuối Trần đầu Lê sơ, thế kỷ 14-15. Cùng loại với chậu trên, ở thành Thăng Long trước đây còn tìm thấy mảnh chậu thành ngoài phủ men nâu, khắc hoa văn để mộc, hoa 4 cánh, hoa sen, sóng nước. Hiện nay, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam đang trưng bày sưu tập gốm hoa nâu thời Lý – Trần, trong đó, ngoài loại ấm miệng cao cổ eo, thân hình chiếc bát sâu lòng còn có nhiều loại khác như thạp, bát, nắp hộp chạm khắc hoa sen dây theo kiểu hoa trắng nền nâu, nhiều chân đế, đĩa sen, đế liền có băng “những em bé của thế giới cực lạc”, thể hiện theo phong cách phù điêu. Nhiều chân đế, đài sen, nắp hộp có hoa văn chạm khắc chi tiết, tỉ mỉ các đề tài rồng, cánh sen, hoa sen, vòng tròn nhỏ, vạch dứng song song… – Đĩa sen cũng là loại tìm thấy nhiều mảnh trong các di tích ở Thăng Long. Loại đĩa sen gốm hoa nâu này cũng được tạo dáng và trang trí tương tự gốm men ngà và gốm men lục, lòng phẳng không men khắc chìm cành hoa lá sen, thành ngoài chạm khắc 2,3 lớp cánh sen nổi, cánh to xen cánh nhỏ phủ men trắng xám, xung quanh chân đế khắc băng vũ nữ hoặc “những em bé của thế giới cực lạc” tô men nâu. Trên gờ miệng hay quanh chân đế loại dĩa sen này còn có băng vòng tròn nhỏ cách đều, tô men nâu. – Tượng gốm hoa nâu: Trong số các loại tượng gốm hoa nâu tìm thấy ở khu vực thành Thăng Long trước đây đáng chú ý có tước hình chim vẹt thời Lý, dài 15,4cm. Tước tạo hình chim vẹt đứng, đầu quay lại, trên đầu và cánh có những mảng tô men nâu trên nền men ngà. Tượng mèo nhỏ cũng thuộc thời Lý, cao 7,5cm, mô tả khá hiện thực một con mèo ngồi, 2 chân trước chống, 2 chân sau qùy, trên thân mèo có những mảng men nâu xen lẫn mảng men trắng ngà. Ấm gốm hoa nâu hình voi với một người quản tượng trên lưng, thuộc thời Trần, cao 12,7cm, ấm có các mảng khắc chìm tô men vàng nâu trên nền men trắng ngà. Nhiều đồ gốm men nâu thời Lý – Trần cũng phát hiện như lọ nhỏ, cao 10,5 cm, có miệng vê tròn, tạo dáng búp sen, vai đắp nổi 3 núm ngang, thành ngoài men nâu đen, trong lòng men trắng ngà. Những đầu tượng người gốm men nâu, chỉ cao 4-5cm, thể hiện rõ kiểu tóc vấn. Tượng người quản tượng cưỡi voi, gốm men nâu, cao 10cm, thể hiện tư thế voi đứng 2 chân trước chống, 2 chân sau quỳ, vòi voi uốn cong trên đỉnh trán. Đây cũng là loại ấm rượu nhỏ, chiều cao cả nắp là 14cm. Nắp chạm khắc nổi băng cánh sen, miệng loe, cổ eo, vai có diềm nổi, vòi ngắn, quai hình khuyên… kiểu dáng này cũng gần giống loại ấm hoa nâu nêu trên.

Chân đèn gốm hoa nâu thời Trần,thế kỷ 13-14. BT Hà Nội, cao 43,5 cm.

Đồ gốm hoa nâu thời Lý – Trần thể hiện một bước tiến đặc biệt trong lịch sử gốm sứ cổ Việt Nam. Đồ gốm Lý đã đạt một đỉnh cao trong tạo dáng và trang trí. Lối tạo dáng trau chuốt, tỷ mỷ đã tạo ra mỗi đồ gốm như một tác phẩm nghệ thuật. Xương gốm đã được lọc luyện pha chế với kỹ thuật cao khiến cho cốt gốm sau khi nung rất đều, không bị sệ, nứt. Lớp men phủ đã tôn vẻ đẹp trang trọng cho đồ gốm bởi độ trong bóng và sâu. Nếu hoa văn trang trí gốm giai đoạn Bắc thuộc chỉ chủ yếu là văn hình học thì giờ đây, trên đồ gốm Lý – Trần đã thấy phong phú rất nhiều: cây cỏ, hoa lá, chim muông, rồng phượng, con người, mây trời sóng nước đã xuất hiện trên đồ gốm. Đặc biệt, đề tài hoa lá sen – biểu trưng của đạo Phật đã được người thợ gốm khai thác triệt để, từ tạo dáng đến trang trí. Đoá sen nở được thể hiện qua từng giai đoạn, cho đến đài sen, gương sen, cánh sen… lúc thì trang trí nổi, khi thì khắc hoặc in chìm… Bởi vậy, có thể nói hoa lá sen luôn luôn là mẫu hình cho người thợ gốm Lý – Trần tìm tòi và sáng tạo. Kỹ thuật lò nung cũng thể hiện tiến bộ ngày càng cao. Trong lòng bát đĩa của gốm thế kỷ 9-10, ta còn thấy to và thô phác, với hình chữ thập hay bông hoa, thì đến gốm Lý – Trần, dấu kê chỉ còn là những chấm nhỏ, như một bông hoa, đã tôn thêm vẻ đẹp cho đồ gốm. Gốm thời Lý – Trần, không chỉ đạt được tính thẩm mỹ cao mà còn khẳng định một tinh thần phục hưng các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Chẳng hạn, các mô típ Đông Sơn quen thuộc như chữ S, chấm dải, vạch đứng song song, hình chim với bố cục ngược chiều kim đồng hồ… lại thấy tái hiện trên đồ gốm Lý – Trần sau cả ngàn năm Bắc thuộc.

Hoa Văn Thời Sơ Sử (Phần Cuối)

Hoa văn thời Sơ sử (Phần cuối)

Từ những hoa văn kỷ hà mà lại muốn sao chép một hình ảnh của hiện thực là chuyện đáng lưu ý. Ở trên gốm Hoa Lộc chúng tôi thấy có một số đồ án như vậy, dù chưa thật nhiều. Đó là các đồ án hoa văn về hình hoa. Thực ra sớm hơn Hoa Lộc, từ thời hậu kỳ đồ đá mới, trên gốm Mai Pha chúng ta đã thấy người nguyên thủy khắc vẽ hình hoa thị. Dù nét vẽ có phần còn vụng về nhưng các cánh hoa thị ở đây được vẽ nhìn rất dễ nhận ra (Hình 25a, b).

Ở Hoa Lộc, các nghệ nhân gốm cũng sáng tác loại hoa nhiều cánh tròn nhỏ bao quanh một đài hoa tròn khác to hơn. Cánh hoa ở đây không cố định, có nơi là 3, có nơi là 5 hoặc 7 hoặc 8, nhưng chúng được chia đều quanh hình tròn đài hoa (Hình 25 d, đ, e). Có loại bao ngoài hình hoa này là một hình tròn to nữa thuộc trong một băng nhiều hình như vậy. Cũng có đồ án chỉ có 4 cánh hoa chụm vào nhau, rất cân đối nhưng không có vòng tròn của đài hoa ở giữa. Loại này cũng nhỏ và đơn giản (Hình 25c). Nó giống kiểu đồ án hoa văn hoa chanh của thời Lê mạt sau này (thế kỷ XVIII) mặc dù đơn giản hơn nhiều.

Rất tiếc các thời kỳ sau, kể cả thời kỳ phát triển rực rỡ của nghệ thuật Đông Sơn không thấy đồ án hình hoa xuất hiện, chưa rõ là vì sao.

Hình 25. Hoa văn hình hoa a, b. Trên gốm Mai Pha – c, d, đ, g. Trên gốm Hoa Lộc

Hoa văn này có một đồ án duy nhất trên gốm Hoa Lộc. Hình được thể hiện ở đây là một cây cỏ đơn giản, gồm một thân cây và hai lá, một lá cong về bên phải và một lá ở trên ngọn. Chúng được sắp đặt kề nhau chạy dài trong một băng tròn trông giống như một cây ngô mới mọc được 2 lá (Hình 26a). Cùng với hình cây cỏ còn có hai chấm trên đầu và hai chấm dưới. Các chấm này có lẽ không phải là hoa quả mà tác giả của chúng muốn làm dấu trên phôi gốm để chia cho đều trước khi vẽ hình chăng(?).

Dù còn đơn giản nhưng đây là một đồ án đáng quý vì từ các hình học khô khan người Hoa Lộc đã biết chép lại các hình ảnh có thực trong cuộc sống. Trên một số đồ gốm thời Phùng Nguyên có xuất hiện đồ án hình tròn bầu dục, có đường chia đôi ở giữa. Nhiều ý kiến cho đó là hình lá cây (Hình 26b).

Hình 26. Hoa văn hình thảo mộc a. Trên gốm Hoa Lộc – b. Trên gốm Phùng Nguyên

Gốm v ăn hóa Phùng Nguyên

17. Hoa văn hình rẻ quạt

Đây là một loại hoa văn thường ra đời vào những nơi có diện tích trang trí không vuông vắn nên nghệ nhân đã vận dụng thực hiện các đường kẻ không cách đều nhau để tạo các đường thẳng thành hình rẻ quạt. Ví dụ như trên một số đáy gốm ở di chỉ Đồng Đậu và di chỉ Lũng Hòa, người thợ gốm đã chải theo kiểu khuông nhạc các đường thẳng chạy đều ra các phía. Vì càng ra xa càng rộng nên để cách đều các phía những đường kẻ bắt buộc phải bố cục theo kiểu rẻ quạt (Hình 27a, b). Hoặc trên một rìu lưỡi cân ở di chỉ Làng Vạc cũng vậy. Từ chuôi rìu xuống phía lưỡi càng rộng nên người thợ đồng Làng Vạc muốn trang trí các sọc chạy đều buộc phải bố cục các đường chạy thẳng theo hình rẻ quạt (Hình 27đ).

Hoa văn rẻ quạt còn được ứng dụng trên mặt phẳng xen kẽ giữa các tia của ngôi sao mặt trời của một số trống đồng Đông Sơn. Người Đông Sơn đã kẻ các dường thẳng dọc theo hai cạnh bên của tam giác cân, tạo nên hình rẻ quạt từ to đến nhỏ dần (Hình 27c, d).

Hoa văn rẻ quạt được thực hiện để trang trí ứng dụng vào những mặt phẳng không vuông vắn. Nó đã tạo nên những đồ án đẹp, hợp lý, phản ánh sự sáng tạo của người thời này.

Hình 27: Hoa văn hình rẻ quạt a. Trên gốm di chỉ Lũng Hòa – b. Trên gốm di chỉ Đồng Đậu c, d, đ. Trên đồ đồng văn hóa Đông Sơn: trống Dac glao (c), trống Hàng Bún (d), rìu căn di chỉ Làng Vạc (đ).

Hình 28. Hoa văn hình lông công trên các mặt trống đồng văn hóa Đông Sơn a. Trống Duy Tiên; b. Trông Cửu Cao; c. Trống Thôn Mống; d. Trống Hàng Bún

18. Hoa văn hình lông công

Hoa văn này chỉ có trên một số mặt trống đồng thời văn hóa Đông Sơn, ở các thời kỳ trước chưa thấy. Cũng trên diện tích xen kẽ giữa các tia của hoa văn mặt trời còn có loại hoa văn hình lông công. Đây là một hình tam giác, phía trong là hai vòng tròn đồng tâm phía ngoài là một số đường kẻ dọc ngắn chạy tỏa ra như kiểu hoa văn rẻ quạt. Vì có mặt hình tròn đồng tâm giống lông của đuôi công nên các nhà khảo cổ học gọi đó là hoa văn hình lông công (Hình 28a, b) cũng có nơi thay vòng tròn đồng tâm bằng hai tam giác nhỏ nằm kề nhau (Hình 28c, d).

Chúng chẳng những lấp được chỗ trống giữa các tia mặt trời mà còn làm cho mặt trời ở giữa càng nổi trội các tia của nó như tỏa rộng thêm.

19. Hoa văn hình sao mặt trời

Đây là hoa văn chúng ta thấy có nhiều trên các trống đồng Đông Sơn, nằm ở trung tâm giữa mặt trống. Ngôi sao được người Đông Sơn đúc dầy lên vừa làm nơi để đánh trống vừa mang ý nghĩa của việc thờ thần mặt trời. Ngôi sao mặt trời được thể hiện là một hình tròn có nhiều cánh chia đều bao quanh. Số lượng cánh cũng tùy tiện, có trống nhiều có trống ít.

Nó được chọn làm trung tâm giữa với ý nghĩa là trung tâm của vũ trụ.

Hoa văn này chỉ có nhiều nhất là trên các trống đồng Đông Sơn. Trước đó, ở giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên trong di chỉ Nghĩa Lập người ta có tìm thấy hoa văn này trên một dọi xe chỉ bằng đất nung. Tuy nhiên hình sao mặt trời ở đây có phần khác. Số lượng cánh sao của nó, tuy bị sứt chúng ta cũng đoán được chúng phải có khoảng 18. Các cạnh sao ở đây đều được kẻ bằng 3 đường thẳng song song. Và các cánh sao ngắn, bố cục ra sát rìa của hiện vật. Dù không hoàn toàn giống nhau nhưng đây vẫn là hình ảnh của ngôi sao mặt trời (Hình 29 a). Trên chân đế bát bồng bằng gốm văn hóa Gò Mun cũng có một hình sao 6 cánh (Hình 29 b). Chắc chắn chúng là tiền thân của hình ngôi sao mặt trời mà có nhiều trên mặt trống đồng vào giai đoạn văn hóa Đông Sơn (Hình 29 e, d, đ).

Đây là loại hoa văn chỉ mới thấy xuất hiện trên một số trống đồng Đông Sơn vào giai đoạn muộn như các trống Hữu Chung, Đông Hiếu, Đa Bút, Thôn Mống v.v. Chúng thường được bố cục trong các băng lớn gần phía ngoài của mặt trống. Về hình dáng, tạm chia chúng làm hai loại.

– Loại thứ nhất có thân vuông hoặc dài, dược hình thành bởi bốn mũi tên hình tam giác, có góc tròn xuất phát từ một tâm điểm chĩa ra 4 phía. Trên các mũi tên đều có các điểm vòng tròn (Hình 30 a, b).

– Loại thứ hai thân dài hình chữ nhật hai đầu của hai góc cạnh ngắn của chúng được vuốt nhọn ra hai phía. Trên thân điểm tô thêm các vòng tròn đồng tâm và vòng tròn tiếp tuyến (Hình 30 c, d). Những hoa văn hình trâm được bố cục riêng, không kết hợp với hoa văn nào cả. Chúng được đặt xen kẽ giữa các hình chim lạc bay, có từ hai đến bốn hình trên một vòng tròn và thường đối xứng nhau qua tâm điểm của hình mặt trời ở giữa. Dường như chúng tạo nên ranh giới các khoảng cách cần thiết cho đồ án đàn chim lạc bay.

Cách bố cục của loại hoa văn này khá hiện đại.

Hình 29. Hoa văn hình sao mặt trời a. Trên gốm văn hóa Phùng Nguyên (di chỉ Nghĩa Lập) – b. Trên gốm văn hóa Gò Mun (di chỉ Hoàng Ngô)

c-e. Trên đồ đồng văn hóa Đông Sơn: Trống Ngọc Lũ (c). Trống Phú Duy (d) Trống Cửu Cao (đ). Trống Việt Khê (e)

Hình 30. Hoa văn hình trâm trên các mặt trống đồng văn hóa Đông Sơn a. Trống Đa Bút – b. Trống Hàng Bún – c. Trống Thôn Mống – d. Trống Đac glao

Một Số Họa Tiết Trang Trí Hoa Sen Tiêu Biểu Thời Lý – Trần

MỘT SỐ HỌA TIẾT HOA SEN TIÊU BIỂU TRONG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH TRUYỀN THỐNG THỜI LÝ- TRẦN

Ở Việt Nam, đề tài hoa sen xuất hiện khá sớm trong nghệ thuật tạo hình. Hầu như ở thời nào đề tài này cũng có trong các đồ án trang trí nơi thờ tự hoặc ở các công trình văn hoá cộng đồng. Họa tiết hoa sen được khai thác, thể hiện dưới nhiều bố cục khác nhau góp phần tạo nên sự đa dạng, đẹp đẽ và cao quý cho các đồ án trang trí. Nó xuất hiện hằng xuyên theo chiều dài của lịch sử mỹ thuật ở những công trình kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ. Trong khuôn khổ bài viết này, người viết chỉ xin đưa ra một vài nhận xét mang tính nghiên cứu của mình về hoạ tiết hoa sen trong Mỹ thuật Việt thuộc giai đoạn đầu của thời độc lập quân chủ Lý – Trần.

1. Họa tiết hoa sen ở bệ đỡ chân cột để bảo vệ chân cột gỗ khỏi bị ẩm thấp và chống mối mọt ở các chùa cổ Việt Nam.

Thời Lý hoa sen được bố cục các cánh thành một vòng tròn theo kiểu nhìn chính diện từ trên xuống. Hoa bao gồm 16 cánh chính và 16 cánh phụ ở dưới. Đáng chú ý nữa là lòng của các cánh sen thời Lý được chạm thêm đôi rồng dâng chầu ngọc quý. Nét chạm tỉ mỉ tinh tế, tôn vẻ cao quý của cánh sen. Các nghệ nhân đã trang trí các cánh sen viền quanh, tạo cảm giác như toàn bộ ngôi chùa được dựng trên các đoá hoa sen.

Họa tiết hoa sen đỡ chân cột thời Trần có nhiều trên các tảng đá kê chân cột như ở thời Lý. Số lượng cánh và bố cục giống thời Lý. Nhưng các họa tiết trong lòng các cánh sen thời Lý thường có các hình rồng, còn thời Trần thì hoàn toàn không có. Người thợ chạm bệ đá thời Trần thường chỉ đục thêm một đường gờ chìm viền theo các cánh sen

2. Họa tiết hoa sen đỡ các vật thiêng

Thời Lý họa tiết này thường đỡ chân chim phượng, trong các đồ án phượng múa ở các thành bậc chùa Bà Tấm, chùa Lạng hoặc phượng chầu ở trán bia chùa Diên Phúc (Hưng Yên). Các vật thiêng có hình lá đề trong các đồ án về dàn nhạc các tiên nữ, và rồng chầu ở chùa Phật Tích và chùa Chương Sơn v.v…Họa tiết này được thể hiện theo lối nhìn nghiêng, tức là hoa sen được bổ dọc nên tạo thành một đài sen dẹt, gồm hai lớp với nhiều cánh, xuất phát từ giữa và choãi đần dần ra hai bên. Lớp trên thể hiện các cánh mới nở ôm lấy đài gương khuất ở trong. Lớp dưới là các cánh sen đã tàn, đổ dài ra hai bên.

Sang thời Trần họa tiết này vẫn được các nghệ nhân vận dụng để trang trí làm bệ đỡ cho các vật thiêng như thời Lý như đồ án trán bia chùa Tổng, hoặc đỡ ngọc báu đang toả sáng hình lá đề trong đồ án ở chùa Thái Lạc, chùa Dâu ( phỏng theo Lục tự chú Phật giáo: Úm Ma Ni Bát Mê Hum). Trên các chân cột trốn của vì nóc, vì kèo chùa Thái Lạc cũng thấy có chạm đài sen đỡ phía dưới. Nói chung nó vẫn giữ bố cục kiểu có từ thời Lý. Nghĩa là vẫn hai lớp cánh sen được dàn mỏng theo hai hướng trên dưới chạy dài từ giữa ra hai phía. Bởi vậy các nhà nghiên cứu quen gọi loai này là “cánh sen dẹo”.

3. Họa tiết hoa sen kết hợp hoa cúc của thời Lý mà nay còn thấy ở hai di tích chùa Long Đọi và tháp Chương Sơn .. Sắp xếp thay đổi cứ một hoa sen lại đến một hoa cúc trong những vòng tròn của hoa dây. Những vòng tròn này gần như tiếp tuyến nhau và chỗ gặp nhau là hình các thiên thần nhỏ bé đang trong động tác múa hoặc nhào lộn. Đồ án này cách điệu khá cao và có bố cục rất đẹp.

Đến thời Trần, họa tiết hoa sen được cách điệu thành hoa dây lúc thì thành băng dài chạy phía dưới đôi rồng đang trịnh trọng dâng chầu ngọc báu lúc lại uốn lượn phía trên các tầng mây, nơi có hình các tiên nữ đầu người mình chim đang vừa múa vừa dâng hoa cho Phật. Họa tiết này được bố cục từ một sợi dây được uốn lượn thành sóng hình sin và giữa các quãng trống người ta lại thể hiện một bông hoa sen cách điệu cao. Các cánh sen thể hiện như những dấu ngoắc, từng đôi đăng đối nhau, theo lối nhìn nghiêng, đơn giản và rành mạch. Mỗi bông hoa chỉ có 6 cánh sen và một chút nhuỵ hương.

Loại họa tiết này ở thời Trần còn lại nhiều ở các di tích: Bệ tháp Phổ Minh, Bệ chùa Dương Liễu, chùa Côn Sơn, chùa Nhạn Tháp, chùa Ngọc Khánh, Bằng đất nung chùa Hang, chùa Thái Lạc.

4. Họa tiết hoa sen quanh các bệ tượng Phật.

Các bệ tượng Phật của thời Lý – Trần đều chạm thành những đài sen lớn.. Cánh sen ở đây có 2 hoặc 3 lớp, xen kẽ nhau, thể hiện thành những khối nổi, không còn là họa tiết nữa.. Họa tiết ở đây là các cánh sen được chạm nối tiếp nhau vòng quanh bệ. Trong lòng các cánh sen thường chạm thêm những hình hoa lửa. Sang thời Trần thì sự tinh xảo của kỹ thuật đục chạm giảm đi thay vào đó là cách diễn tả khối chắc khỏe, những cánh sen chen khít nhau dăng thành hàng dài theo chiều hơi xen chéo.

5. Hoa tiết hoa sen trên đồ gốm Lý –Trần

Họa tiết hoa sen trên men ngọc thời Lý được thể hiện bố cục theo lối nhìn nghiêng mặt trong của lòng bát (Bảo tàng Lịch sử Hà Nội). Cuống hoa quay vào tâm vòng tròn của lòng bát. Cứ một bông hoa sen lại một bông hoa cúc. Chúng được bố cục hoàn toàn độc lập với nhau. Tổng cộng mô típ có 3 hoa sen và 3 hoa cúc. Sen ở đây là nhiều cánh chưa nở, quây kín lấy gương sen và hai cánh ngoài cùng nở rộng ra 2 phía. Họa tiết sen ở đây được bố cục theo sự cân xứng,đăng đối từng hoa và toàn bộ đồ án và được khắc chìm vào xương đất, sau đó tráng men để đem nung. Đây cũng là đặc trưng kỹ thuật đồ gốm men ngọc thời Lý.

Họa tiết hoa sen trên gốm hoa nâu thời Trần thường được chia thành ô hoặc thành băng để trang trí. Họa tiết ở đây cũng được dùng bút vẽ lên xương đất sau khi đã tráng men và kẻ vạch rồi mới đem nung. Đề tài trang trí gồm nhiều loại mà trong đó họa tiết hoa sen chiếm số lượng lớn. Họa tiết hoa sen ở đây có loại đơn giản chỉ vẽ vạch mấy nét mà thành. Tuy nhiên phần lớn ở đây là loại hoa sen được vẽ theo lối nhìn nghiêng… Từ một cuống hoa ở dưới vươn lên rồi tiếp đến là các cánh hoa đổ ra hai phía bọc quanh một đài gương ở giữa. Hai cánh trên cùng đang ôm lấy gương sen, hai cánh tiếp đã nở vươn rộng ra hai bên và hai cánh dưới cùng thì đã đổ xuống phía dưới sắp tàn héo. Đơn giản như vậy nhưng vì các cánh sen ở đây không gò bó trong một khuôn mẫu đăng đối nào nên trông rất sinh động. Khi nhìn nhấn mạnh tạo một mảng đậm cho một cánh sen, lúc lại nâng cao lướt nhẹ mô tả một chi tiết của cuống hoa hay của búp sen. Mỗi ô một hoa, mỗi hoa một kiểu dáng, thường đứng riêng lẻ một mình hoặc kết hợp với một vài cây cỏ và búp sen. Đặc biệt có đồ án trên một thạp gốm thuộc Bảo tàng Hải Dương, nghệ nhân còn vẽ thêm nhiều búp sen và lá sen. Lá sen ở đây có nhiều kiểu dáng. Có lá bố cục theo lối nhìn chính diện từ trên xuống thành cả mảng tròn to thấy rõ cả chi tiết các gân lá. Có lá bố cục theo kiểu nhìn nghiêng viền của lá uốn lượng sóng. Có lá toàn bộ đã uốn cong xuống phía dưới báo hiệu sắp héo tàn… trông sinh động và hấp dẫn bởi bút pháp có xu hướng trở về hiện thực.

HỌA TIẾT HOA SEN TRUYỀN THỐNG LƯU GIỮ SẮC HƯƠNG CHO NGÀY HÔM NAY

Họa tiết hoa sen xuất hiện hằng xuyên theo chiều dài của lịch sử dân tộc trên những công trình kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ. Chúng lưu giữ sắc hương giá trị dân tộc cho ngày hôm nay và mai sau.

Hoa sen trong trang trí mỹ thuật thời Lý. Đây là thời kỳ thái bình thịnh trị. Khi đó, Phật giáo phát triển, chùa Phật được xây dựng rất nhiều. Chính vì vậy họa tiết hoa sen được ứng dụng làm mô típ trang trí rất nhiều. Có những kiến trúc hình bông hoa sen như chùa Một Cột. Hoa sen được sử dụng ở những tảng đá kê chân cột cho đến diềm cửa võng và các đồ mỹ nghệ truyền thống. Với sự tinh tế trong bố cục, khéo léo trong kỹ thuật. giản dị trong thể hiện nhưng lại rất “bác học” trong sự lựa chọn đề tài. Tất cả những điều đó đã tạo nên một mỹ thuật thời Lý đánh dấu cho đỉnh cao trong lịch sử mỹ thuật nước nhà. Trong vườn hoa đó họa tiết hoa sen đã khoe sắc như một sự kết tinh giữa nghệ thuật và tâm thức của người Việt

Hoa sen trong trang trí mỹ thuật thời Trần được kế thừa những thành tựu của thời Lý nhưng chúng lại có những đặc điểm riêng biệt, độc đáo đánh dấu tính chất thời đại. Đó là phong cách hiện thực sinh động hơn, mạnh mẽ hơn được ảnh hưởng từ niềm vui, tinh thần tự hào dân tộc với ba lần đánh tan giặc Mông Nguyên. Tô đậm thêm trang sử vẻ vang và sức mạnh của dân tộc bằng ngôn ngữ tạo hình.

Họa tiết trang trí trong mỹ thuật truyền thống Việt không chỉ nhằm mục đích đơn thuần để trang trí cho kiến trúc hoặc các hiện vật nào đó mà chúng là sự kết tinh những tầng bậc ý nghĩa “muôn đời” của dân tộc. Chúng gắn với cuộc sống thường ngày của con người trong việc ứng xử với cái đẹp. Chúng là những “chữ viết” chân thực về lịch sử, xã hội, là lời nhắn nhủ đầy tính mỹ triết của tổ tiên, là tiếng nói của tâm hồn, là ý niệm của cuộc sống, là khát vọng của muôn người, muôn đời…Vì thế, tiếp cận với họa tiết trong mỹ thuật là tiếp cận một khía cạnh cốt lõi về bản sắc văn hoá Việt Nam.

Cung cấp cho sinh viên tư liệu về các đồ án trang trí của hoa sen vì họa tiết này khá điển hình trong kho tàng vốn cổ của dân tộc. Qua đó, các em được biết thêm phương pháp nghiên cứu ở bài chép vốn cổ dân tộc và áp dụng vào các bài học trang trí như : trang trí bìa sách, truyện tranh, truyện lịch sử, Tranh cổ động, Bản trích, vẽ biểu trưng, tranh tường, v.v.

ThS

Triệu Thế Hùng

Khoa QLVH-NT

Trường ĐH SP Nghệ Thuật Trung Ương

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Trần Lâm Biền, Một con đường tiếp cận lịch sử . Nxb Văn hóa dân tộc, 2003.

[2]. Nguyễn Du Chi, Hoa văn Việt Nam, NXB Mỹ thuật, 2002.

[3]. Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam , Viện NT – Bộ văn hóa, 1975.

[4]. Thích Chân Quang, Lotus – ý nghĩa của hoa sen. NXB Tôn giáo 2004.

[5]. Thích Thanh Từ, Bát nhã ba la mật đa tâm kinh. NXB Tôn giáo, 1999.

MỤC LỤC  –  GỐM SỨ CỔ TRUYỀN VN

Share this:

Twitter

Facebook

Like this:

Số lượt thích

Đang tải…

Hãy Vẽ Sơ Đồ Bộ Máy Nhà Nước Thời Lý?

Các cơ quan giúp việc cho hoàng đế: sảnh, hàn lâm viện Các cơ quan đầu não của triều đình: khu mật viện, bộ Các cơ quan giúp việc cho triều đình: viện, ty, cuộc Các chức tướng công, thái phó được hoàng đế nhà Lý ban cho những người có nhiệm vụ trực tiếp điều khiển toàn bộ chính quyền. Phụ tá cho các thái phó là tả tham tri chính sự, hữu tham tri chính sự, và hành khiển. Phụ tá cho thái phó còn có các cơ quan là khu mật viện và bộ.

+Các cấp hành chính ở địa phương lần lượt từ cao xuống thấp là:

Theo truyền thuyết, Hòn Chén (còn gọi là Ngọc Trản Sơn) là nơi Thánh Mẫu Thiên Yana xuất hiện để cứu hộ chúng sinh. Ngọc Trản vốn là ngọn núi thấp ăn từ chân dãy Trường Sơn chạy về phía động, đến làng Hải Cát, huyện Hương Trà thì dừng lại ở tả ngạn sông Hương. Đến đây, dãy núi như bị dồn nén lại, tạo thành ngọn Ngọc Trản, cây cối xanh tốt, soi bóng xuống dòng sông . Khúc sông qua Ngọc Trản được xem là sâu nhất của dòng Hương Giang. Người xưa chọn Ngọc Trản Sơn để dựng đền thờ. Trên đỉnh núi, có một hố trũng khá rộng, lúc mưa, nước đọng lại trông như cái chén nước khổng lồ, vì thế dân gian đặt tên là Ngọc Trản Sơn – hay còn gọi là Hòn Chén.

Không biết ngôi đền thờ ở Ngọc Trản Sơn có tự bao giờ, chỉ biết rằng người Chăm xưa từng thờ cúng ở núi này, đến thời nhà Nguyễn, các vua, chúa tiếp tục tu sửa, mở rộng đền – Đền Ngọc Trản thờ Thánh Mẫu Thiên Yana với những hình thức sinh hoạt tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc sâu xa là tín ngưỡng Thiên Tiên Thánh giáo với tục thờ Mẫu, cũng như ở miền bắc thờ Mẫu Vân Hương, hay ở miền nam thờ Mẫu ở núi Bà Đen, hoặc Pohnaga ở Tháp Chàm – Nha Trang vậy. Thiên Yana Thánh Mẫu, nguyên xưa vốn là nữ thần của người Chăm có tên là PôYangInô-Nagar, gọi tắt là PôNagar, tức thần Mẹ Xứ Sở mà theo truyền thuyết Chăm là thần sáng tạo ra đất đai, cây cối, rừng, lúa, bắp… Trong chín vị vua triều Nguyễn thì vua Đồng Khánh là một tín đồ rất ngưỡng mộ vị Thánh Mẫu này. Vì vậy, năm 1886 ông đã cho tu sửa đền và đặt tên là Huệ Nam Điện (Huệ Nam có nghĩa là ban ơn huệ cho nước Nam). Vua Đồng Khánh còn làm thơ văn ca tụng công đức của Mẫu Thiên Yana. Chính vua đã ban hành việc dùng Quốc lễ để tế tại Huệ Nam Điện. Theo lệnh vua, vào dịp xuân – thu nhị kỳ hằng năm đều tổ chức tế lễ, vị chủ tế là một triều thần. Sau vua Đồng Khánh, các vị vua chỉ cử quan thần tới chủ tế một lần vào tháng ba, còn tháng bảy dân làng Hải Cát tự tổ chức. Lễ hội đền Hòn Chén, lễ nghênh thần là lễ lớn nhất, trong đó có đám rước Mẫu Thiên Yana. Đám rước được cử hành trên những chiếc thuyền ghép lại với nhau (gọi là bằng). Cùng với những chiếc bằng, nhiều thuyền đơn, thuyền đôi đi theo đám rước. Thuyền nào cũng được trang trí trông rất đẹp. Lễ nghênh thần được tổ chức trang nghiêm, người đi dự lễ mang mũ, quạt, áo quần sặc sỡ.

Phường bát âm với những bài hát chầu văn ca ngợi Thánh Mẫu và chư vị thánh thần. Các tín đồ vừa đi vừa hát, múa trên những chiếc bằng trong trang phục lộng lẫy, dưới lọng kiệu là đồ thờ của Mẫu Thiên Yana. Tất cả tạo nên một không khí tín ngưỡng thiêng liêng, huyền ảo và sôi động.

Ngày nay, đền Hòn Chén được khách thập phương biết đến không chỉ là một di tích tôn giáo mà là một kiến trúc phong cảnh, non nước đẹp của xứ Huế. Với mười công trình kiến trúc xinh xắn của ngôi đền nằm lưng chừng sườn Đông – Nam của ngọn núi, đền Hòn Chén ẩn mình dưới bóng của rừng lá xum xuê bên dòng sông Hương trong xanh. Những năm gần đây, lễ hội Hòn Chén tấp nập, tưng bừng hơn. Vào ngày chính lễ có cả trăm chiếc thuyền, bằng trẩy hội trên dòng Hương, tín đồ của cả miền trung về tụ hội, dâng lễ, rước Mẫu tháng ba năm nay, các tín đồ tín ngưỡng Thiên Tiên Thánh giáo lại có dịp trở về với Mẫu Thiên Yana với những sinh hoạt văn hóa dân gian tạo nên vẻ phong phú của nét văn hóa xứ Huế.