Nhà thơ Huy Cận: Người sắm cả “hai vai” (Toquoc)- Sinh thời, nhà biên kịch Tào Mạt (1) có một câu nói khá nổi tiếng, mà trong giới văn nghệ thời ấy ai cũng biết: “Đã làm Hề thì đừng làm Quan, đã làm Quan thì đừng làm Hề” (2), tức là làm chính trị thì đừng làm nghệ sĩ. Thế nhưng, trớ trêu là ở đời có không ít người có tài sắm cả “hai vai” và xem ra khá thuận nữa đằng khác. Nhà thơ Huy Cận, có thể coi là một trường hợp điển hình về mẫu con người ấy.Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, sinh ngày 31/5/1919, trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân dưới chân núi Mồng Gà, bên bờ sông Ngàn Sâu (thượng nguồn sông La, nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh). Ngày sinh trên giấy tờ công khai là do ông cậu của Huy Cận khai khi vào học ở Huế, còn ngày sinh chính xác là ngày 29 tháng Chạp năm Bính Thìn, tức ngày 22/01/1917.Lúc nhỏ ông theo học ở quê, sau vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp; rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Trong thời gian học Cao đẳng, ông ở phố Hàng Than, quận Hoàn Kiếm cùng nhà thơ Xuân Diệu- bạn tâm giao của nhà thơ Huy Cận và cũng là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh. Huy Cận đã tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8/1945) và được bầu vào Ủy ban Giải phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Tháng 8/1945, Cù Huy Cận là một trong ba thành viên của phái đoàn Chính phủ Lâm thời, trong đó có nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng, nhà sử học Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận, vào kinh đô Huế để tiếp nhận lễ thoái vị của Vua Bảo Đại.Cách mạng tháng 8 thành công (8/1945), khi mới 28 tuổi, Cù Huy Cận đã là Bộ trưởng Bộ Canh nông trong Chính phủ Liên hiệp lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh đứng đầu. Trong những năm 1945-1946, ông là Ủy viên Ban thanh tra đặc biệt của Chính phủ.Sau này ông làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ở cả hai thời kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phụ trách công tác văn hóa văn nghệ.Từ 1984, ông là Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các hội Văn học- Nghệ thuật Việt Nam. Ông cũng đã từng là Đại biểu Quốc hội các khóa I, II, và VII. Huy Cận mất ngày 19/2/2005.Như vậy, đường quan lộ của Huy Cận dù chưa đạt tới đỉnh cao nhất, nhưng xem ra cũng không đến nỗi nào với hàm Bộ trưởng gần như suốt đời. Với hàm ấy, nhiều người đã có những đóng góp đáng kể trong lĩnh vực mà mình phụ trách, còn đối với Huy Cận dường như chỉ làm cho hết trách nhiệm trên giao hoặc giả là làm cho vui để lấy cảm hứng cho sáng tác thơ. Bởi lẽ những lĩnh vực mà ông từng phụ trách, dấu ấn cá nhân của ông để lại khá mỡ nhạt, nếu như không muốn nói là chẳng có gì đáng kể. Nhà thơ Huy Cận (ảnh http://truyenthong.omard.gov.vn)Sự ngiệp sáng tác của nhà thơ Cù Huy Cận được chia làm hai giai đoạn khá rõ nét.Giai đoạn trước tháng 8 năm 1945So với nhiều người cùng thời, Huy Cận có thơ đăng báo từ lúc còn khá trẻ, 19 tuổi và sau đấy 4 năm (1940) ông đã cho in tập thơ đầu tay “Lửa thiêng”. Bắt đầu từ đây Huy Cận trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của phong trào Thơ Mới (1932-1941) lúc bấy giờ. Có người cho rằng, bao trùm “Lửa thiêng” là một nỗi buồn mênh mang da diết. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, đẹp nhưng thường buồn. Nỗi buồn đó dường như vô cớ, siêu hình, theo kiểu: “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” (Chiều- Xuân Diệu). Dù có vẻ như buồn vô cớ, nhưng xét đến cùng, chủ yếu là buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước. Hồn thơ ảo não, bơ vơ đó vẫn cố tìm được sự hài hòa và mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc đời. Nếu không nói quá, chỉ cần một bài “Tràng giang” trong tập “Lửa thiêng” cũng đủ làm nên thơ hiệu
Cách Học Thuộc Nhanh Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá / Top 18 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend
Bạn đang xem chủ đề Cách Học Thuộc Nhanh Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung Cách Học Thuộc Nhanh Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Soạn Bài: Đoàn Thuyền Đánh Cá
1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Huy Cận trong SGK Ngữ văn 9 Tập 1).
2. Tác phẩm
* Xuất xứ: Văn bản Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian Huy Cận đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh vào năm 1958. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
* Thể thơ: Văn bản Đoàn thuyền đánh cá được viết theo thể thơ 7 chữ.
II. Hướng dẫn soạn bàiCâu 1:
* Bố cục: Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá có thể được chia làm 3 phần:
Phần 1: Hai khổ đầu: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi
Phần 2: 4 khổ thơ tiếp: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển.
Phần 3: khổ thơ cuối: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong bình minh.
* Thời gian và không gian được miêu tả trong bài thơ: không gian rộng lớn, bao la với mặt trời, biển, trăng, sao, gió. Còn thời gian ở đây là nhịp tuần hoàn của vũ trụ từ hoàng hôn đến bình minh, cũng là thời gian của một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá.
Câu 2:
* Hình ảnh người lao động và công việc của họ được miêu tả trong không gian rộng lớn của vũ trụ, giữa biển cả bao la, rộng lớn.
* Tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của con người lao động trước thiên nhiên vũ trụ bằng những biện pháp nghệ thuật là: cảm hứng lãng mạn, bay bổng; liệt kê, nhân hóa, so sánh thể hiện được sự phong phú của các loài cá, vẻ đẹp kì diệu và sự giàu có của biển khơi. Qua đó, hiện lên hình ảnh người lao động thật đẹp, thật hăng say, con người như hòa quyện vào với vẻ đẹp của thiên nhiên.
Câu 3:
Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp và tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Một số hình ảnh đặc sắc trong các khổ 1,3,4 và 7: Đó là hình ảnh cảnh biển về đêm rộng lớn, thật gần gũi với con người:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Tác giả so sánh mặt trời giống như hòn lửa đang từ từ lặn xuống biển. Ở đây, trời và biển có sự giao hòa trọn vẹn, mặt biển mênh mông, rộng lớn sẽ làm cho “hòn lửa” mặt trời dịu êm hơn. Nhà thơ đã liên tưởng vũ trụ là một ngôi nhà lớn, còn màn đêm là cánh cửa khổng lồ, những con sóng là then cửa cài chặt cánh cửa đêm đen. Hay nói cách khác, vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi theo nhịp tuần hoàn của thời gian.
Câu 4:
Bài thơ có nhiều từ “hát”, cả bài thơ cũng như một khúc ca, đây là khúc ca ngợi ca lao động, tinh thần làm chủ và niềm vui phơi phới mà tác giả viết thay cho người dân lao động, cụ thể ở đây là những người lao động trên biển.
Âm hưởng và giọng điệu của bài thơ rất sôi nổi, khỏe khoắn, phơi phới và bay bổng. Có sự kết hợp của cả vần bằng và vần trắc, vần liền xen lẫn vần bằng. Vần trắc tạo nên sức dội, sức mạnh, còn vần bằng tạo nên sự vang xa, bay bổng.
Câu 5:
Qua những bức tranh về thiên nhiên và con người lao động trong bài thơ, em thấy tác giả có một cái nhìn khá tươi mới, tràn đầy cảm xúc hào hứng. Mỗi hình ảnh thơ đều mang sức sống, mang niềm vui, cuốn theo tình yêu say đắm, mãnh liệt trước biển khơi bao la, hùng vĩ, giàu có vô tận của nhà thơ: cảnh cửa vũ trụ với hòn lửa mặt trời, cá bạc, cá thu, cá nhụ, cá chim,…người lao động đang hăng say làm việc. Qua đó, cho chúng ta thấy tình yêu của tác giả đối với quê hương, đất nước, phải là một con người gắn bó với quê hương, gắn bó với người dân lao động làng chài thì mới có thể viết nên những vần thơ đẹp như thế.
Theo chúng tôi
Bài Soạn Lớp 9: Đoàn Thuyền Đánh Cá
Tác giả:
Huy Cận (1919-2005) quê huyện Vụ Quang,tỉnh Hà Tĩnh.
Trước cách mạng:nổi tiếng trong phong trào Thơ mới .
Sau cách mạng:Thơ ông có sự chuyển mình, ấm áp hơi thở cuộc sống và dào dạt niềm vui. Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam.
Phong cách thơ: Bút pháp hiện thực đậm chất lãng mạn.Cảm hứng chính hướng về thiên nhiên, vũ trụ.
Tác phẩm:
Viết năm 1958, trong một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh, in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”.
Thể thơ: thất ngôn trường thiên
Phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả, biểu cảm
Bố cục: 3 phần
Hai khổ đầu: cảnh đoàn thuyền ra khơi và tâm trạng của người đi biển
Bốn khổ thơ tiếp theo: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển
Khổ thơ cuối: cảnh đoàn thuyền trở về.
Bài thơ được triển khai theo trình tự chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá. Dựa theo trình tự ấy, em hãy tìm bố cục của bài thơ. Hãy nêu thời gian và không gian được miêu tả trong bài thơ. Trả lời:
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được triển khai theo bố cục ba phần:
Không gian và thời gian trong bài thơ được miêu tả:
Không gian: biển cả bao la và khoáng đạt, người lao động hòa mình vào với thiên nhiên.
Thời gian: sự thay đổi của vũ trụ từ lúc hoàng hôn đến bình minh của ngày hôm sau.
Hình ảnh người lao động và công việc của họ được miêu tả trong không gian nào? Bằng những biện pháp nghệ thuật gì, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của người lao động trước thiên nhiên, vũ trụ? Trả lời:Hình ảnh người lao động và công việc của họ được miêu tả giữa thiên nhiên bao la của biền và trời như đã gắn liền, hải hòa với nhịp sống của thiên nhiên đất trời: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng – Lướt giữa mây cao với biển bằng:, “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”, ” Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”…
Thông qua biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh, tác giả đã miêu tả con thuyền lướt giữa gió trăng lồng lộng. Bằng cảm hứng lãng mạn, bay bổng, với những liên tưởng sáng tạo làm nổi bật lên hình ảnh con người lao động mới hăng say, vẻ đẹp của biển trời hoà quyện với vẻ đẹp của con người lao động đã tạo nên bức tranh thiên nhiên đầy sống động.
Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động. Em hãy chọn phân tích một số hình ảnh đặc sắc trong các khổ thơ 1, 3, 4 và 7. Bút pháp xây dựng hình ảnh của tác giả trong bài thơ có đặc điểm gì nổi bật? Trả lời:Mở đầu bài thơ tác giả đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ với những ánh hoàng hôn trên biển đẹp kì vĩ, rực rỡ. Biển cả lúc này như mọt ngôi nhà kì vĩ, những con sóng là then cửa cài chặt cánh cửa đêm đen.Vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi theo nhịp tuần hoàn của thời gian. Và khi ấy:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Công việc đánh cá của bà con ngư dân lại bắt đầu, lại một chuyến tàu ra khơi đánh bắt. Họ ra khơi với một niềm vui, sự phấn chấn, tinh thần hăng sau của những con người đi lao động, chinh phục thiên nhiên. Qua khổ thơ này, cho người đọc thấy được sự hòa hợp giữa sức mạnh con người và thiên nhiên bao la, vũ trụ.
Bước sang khổ thơ thứ ba, hình ảnh con thuyền lướt đi giữ trời cao biển lặng có cái lâng lâng sảng khoái lạ thường:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng.
Hai câu thơ đẹp như một bức tranh lồng lộng mây trời, mênh mông biển cả. Hình ảnh đoàn thuyền được làm đẹp thêm bởi một sức tưởng tượng kì diệu, giàu chất lãng mạn: gió là người lái, trăng là cánh buồm. Cách tả như vậy giúp ta cảm nhận được thuyền và con người như hòa nhập vào thiên nhiên bát ngát, lâng lâng trong cái thơ mộng của trời, biển gió, trăng….
Bút pháp nghệ thuật trong bài thơ nổi bật là bút pháp lãng mạn, cảm xúc dạt dào của nhà thơ cùng với những hình ảnh kì vĩ, đã làm nổi bật vẻ đẹp của con người lao động giữa thiên nhiên bao la.
Bài thơ có nhiều từ hát, cả bài cũng như một khúc ca. Đây là khúc ca gì và tác giả làm thay lời ai? Em có nhận xét gì về âm hưởng, giọng điệu của bài thơ? Các yếu tố: thể thơ, vần, nhịp đã góp phần tạo nên âm hưởng của bài thơ như thế nào? Trả lời:Trong bài thơ có tất cả 4 từ “hát”, cả bài như một khúc ca, ngợi ca lao động, với tinh thần làm chủ, với niềm vui phơi phới mà nhà thơ viết thay cho những người lao động. Câu thơ “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” ở khổ đầu bài thơ gần như được lặp lại ở khổ cuối bài thơ “Câu hút căng buồm với gió khơi” tạo nên một sự tương ứng đẹp, thể hiện một sự trọn vẹn của cuộc hành trình của đoàn thuyền đánh cá và sự vận hành của thời gian, không gian. Đây là khúc ca về lao động hào hùng, tràn đây sức sống mà tác giả đã thay lời cho những người lao động cất lên tiếng hát.
Giọng điệu bài thơ sôi nổi, khỏe khoắn, tràn đầy không khí hứng khởi. Lời thơ dõng dạc giọng điệu như khúc hát mê say hào hứng, cách gieo vần linh hoạt tạo nên âm hưởng hào hùng cho bài thơ.
Qua những bức tranh về thiên nhiên và con người lao động trong bài thơ, em có nhận xét gì về cái nhìn và cảm xúc của tác giả trước thiên nhiên đất nước và con người lao động? Trả lời:Qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ta thấy được, nhà thơ Huy Cận có cái nhìn tươi mới và cảm xúc hào hứng, tràn đầy niềm vui về cuộc sống.
Thiên nhiên tráng lệ, giàu có là nguồn tài nguyên vô tận luôn phục vụ con người, tham gia tích cực vào cuộc sống. Con người hăng hái say mê lao động làm chủ cuộc sống, xây dựng cuộc sống mới. Chính nhà thơ đã viết “Không khí lúc này thật vui, cuộc đời phấn khởi, nhà thơ cũng rất phấn khởi. Cả một vùng than, vùng biển đang hăng say lao động từ bình minh cho đến hoàng hôn và cả từ hoàng hôn cho đến bình minh”.
Đây là một cái nhìn tin tưởng và phấn khởi của nhà thơ trước cuộc đời mới. Cái nhìn ấy, cảm xúc ấy là kết quả của quá trình đi thực tế dài ngày tại vùng mở Quảng Ninh. Bắt đầu từ đây hồn thơ Huy Cận này nở trở lại trong niềm vui say cuộc sống mới.
Trả lời:Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ được Huy Cận sáng tác vào năm 1958, nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hồng Gia – Cẩn Phả -Quảng Ninh. Bài thơ đã dụng được một không khí khẩn trương, hăng say của những người lao động đánh cá trong một đêm trên biển, với tư thế làm chủ thiên nhiên, biển cả. Bốn câu thơ đầu diển tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyềnđánh cá”, mở đầu cho một đêm đánh cá trên biển.
Hai câu thơ đầu diển tả thời điểm ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Thời gian ở đây là lúc ngày tàn, được miêu tả bằng những chi tiết, hình ảnh cụ thể, giàu giá trị gợi cảm:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đãcài then đêm sập cửa”.
Ở câu thơ này, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh.Màu đỏ của “mặt trời” được so sánh với “hòn lửa”. Viết về cảnh biển đêm,ngày tàn, nhưng cảnh vẫn không hoang vắng nhờ hình ảnh rực sáng này.Trong cản quan của Huy Cận, vũ trụ là một ngôi nhà khổng lồ. Khi ngày đã tàn, “Mặt trời xuống biển”, màn đêm buông xuống “Đêm sập cửa” thì sóngbiển như “then cài” đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy. Những hình ảnh ẩn dụ này chứng tỏ nhà thơ có trí tưởng tượng phong phú.
Đối với thiên nhiên thì một ngày đã khép lại, nhưng với đoàn thuyền đánh cá thì đây lại là thời điểm bắt đầu cho công việc đánh cá trên biển trong đêm.
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Từ “lại” nói lên rằng hằng ngày vào cái thời điểm ấy, khi trời yên biển lặng, đoàn thuyền ra khơi đã thành một cảnh quen thuộc. Hình ảnh thơ “Câu hát căng buồn cùng gió khơi” là một hình ảnh được xây dựng nhờ một trí tưởng tượng phong phú. Huy Cận đã miêu tả, đã cụ thể hoá tiếng hát của những người lao động. Những người lao động đánh cá ra khơi cùng với tiếng hát khoẻ khoắn đến mức tạo nên một sức mạnh(cùng với gió khơi) làm căng những cánh buồm. Họ ra khơi với một niềm phấn khởi, niềm tin vào thành quả lao động.
Như vậy, bốn câu thơ mở đầu miêu tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Cảnh ngày tàn mà vẫn ấm áp, vẫn tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan của người lao động. Không khí chung của bốn câu thơ mở đầu này chi phối không khí chung của cả bài thơ.
Thống nhất với cảm hứng và bút pháp lãng mạn của tác phẩm, khổ cuối của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận) là bức tranh hoành tráng với âm thanh, hình ảnh tràn đầy sức mạnh của con người, đoàn thuyền và ngập tràn ánh sáng:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua củng mặt trời
Câu hát cùng gió khơi đưa thuyền đi nay vẫn câu hát ấy căng buồm đưa thuyền về. Nhưng giờ đây không chỉ còn là sức mạnh của gió mà sức mạnh niềm vui con người như được nhân lên vì thuyền đầy cá. Nếu như ở khổ thơ đầu, sau khi màn đêm bao trùm trên biển thì con người mở cửa đêm ra khơi đánh cá thì giờ đây họ – những người dân chài đang “chạy đua cùng mặt trời”. Không còn là sự nốì tiếp của nhịp sống thiên nhiên, con người mà quan hệ của thiên nhiên, con người là quan hệ song song, đua tranh. Chạy đua với mặt trời cũng là chạy đua với thời gian. Con người đang giữ lấy từng giây, từng phút, đang vượt lên trên cả thời gian để tạo của cải cho cuộc sống mới, để xây dựng và cống hiến. Những con người lao động đã về đến bến khi bình minh vừa ló dạng:
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Cảnh biển một ngày mới được mở rộng đến muôn dặm và ngập tràn ánh sáng. Hình ảnh nhân hoá “mặt trời đội biến” đi lên mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn, ánh sáng của mặt trời không chỉ mang đên màu của cảnh vật mà còn mang “màu mới” cho cuộc sống mà những người lao động đang từng ngày, từng giờ cống hiến. Sức tưởng tượng của bút pháp lãng mạn khiến bờ bãi thuyền về trong dòng thơ cuối rực rỡ huy hoàng trong ánh sáng:
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Mắt của ngàn vạn con cá phơi trên bờ biển như cùng hướng về một phía phản chiếu tia sáng bình minh rực sáng muôn dặm dài xa như bờ biển đất nước.
Soạn Bài Lớp 9: Đoàn Thuyền Đánh Cá
Soạn bài lớp 9: Đoàn thuyền đánh cá do Huy Cận sáng tác được VnDoc sưu tầm và chọn lọc giới thiệu tới các bạn học sinh tham khảo giúp học tốt môn Ngữ Văn lớp 9 hiểu rõ hơn vẻ đẹp kì vĩ tráng lệ của thiên nhiên mà còn luyện phân tích những hình ảnh thơ vừa cổ điển vừa mới mẻ trong bài thơ.
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ Huy Cận
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN1. Nhà thơ Huy Cận đã từng gọi bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (1958) của mình là “khúc tráng ca”. Quả đúng như vậy, bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi vẻ đẹp khoẻ khoắn của con người lao động trong sự hài hoà với vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên kì vĩ. Không còn thấy dấu vết của một “nỗi buồn thế hệ” cô đơn, li tán đã từng dằng dặc, triền miên trong thơ ông hồi trước Cách mạng tháng Tám, mà tràn đầy sức sống của niềm vui lao động:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa, Sóng đã cài then, đêm sập cửa. Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi, Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn màu sáng Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Đó là sự khác nhau của hai nguồn sống, ở hai giai đoạn sống của một tâm hồn. Đoàn thuyền đánh cá là hình ảnh của cuộc sống mới, cuộc sống mà người ta tìm thấy niềm tin vui bất diệt trong lao động.
2. Bài thơ miêu tả trọn vẹn một đêm lao động trên biển của đoàn thuyền đánh cá. Hai khổ thơ đầu là cảnh ra khơi. Khung cảnh thiên nhiên dẫu chỉ phác hoạ ít nét mà vẫn cho ta cảm nhận được vẻ chắc nịch, thấm đậm không khí khẩn trương của một buổi xuất bến ra khơi. Hai câu thơ đầu gợi tả sự vận động của thời gian, mặt trời xuống biển, từng đợt sóng gợn những nét ngang luân chuyển qua lại như then cửa và mặt trời xuống đến đâu, cánh cửa đêm như được kéo xuống đến đó. Khi những ánh sáng mặt trời tắt hẳn cũng là lúc “sóng đã cài then”, “đêm sập cửa”. Đúng thời điểm ấy, trong không gian của một đêm đã bắt đầu ấy, thênh thênh vút lên, bừng sáng tiếng hát của ngư dân. Không phải ánh sáng toát lên từ cánh buồm trắng trong một buổi mai như ở Quê hương của Tế Hanh:
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Mà là ánh sáng của thanh âm, của khúc hát lãng mạn cất lên từ lòng tin, từ tình yêu lao động, của sắc cá bạc đan dệt thành. Những vần trắc trong khổ thơ đầu (lửa, cửa, khơi, khơi) hoà điệu cùng khúc hát, rất có giá trị trong việc gợi tả vẻ thoáng đạt, sáng láng ấy. Một cách tự nhiên, những vần thơ mở đầu hút người đọc vào không khí lao động của ngư dân lúc nào không hay.
3. Bốn khổ thơ tiếp theo là cảnh lao động trên biển đêm. Những khổ thơ này tập trung nhiều hình ảnh tráng lệ, vẻ tráng lệ đã được gợi ra từ đầu bài thơ với hình ảnh “Mặt trời… như hòn lửa”. Đến đây, cảnh đánh cá đêm trên biển được miêu tả hết sức sinh động. Đó là những động từ mạnh mẽ (lái gió, lướt, dàn đan, quẫy, kéo xoăn tay,…), là những hình ảnh gợi tả cái kì vĩ, lớn lao (mây cao, biển bằng, dặm xa, bụng biển, thế trận, vây giăng, đêm thở), là những sắc màu lộng lẫy, rực rỡ như trẩy hội, và cả những nét thơ mộng, bay bổng (buồm trăng, lấp lánh đuốc đen hồng, trăng vàng choé, sao lùa, vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông, nắng hồng,…). Vẻ đẹp của biển trời hoà quyện với vẻ đẹp của con người lao động dệt lên bức tranh tráng lệ, rạo rực sức sống, rạng rỡ vẻ đẹp giàu say lòng người. Có lẽ không ở đâu nữa vẻ đẹp và cái nguồn sống bất tận diệu kì của biển Đông lại đẹp hơn ở những câu thơ này:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé, Cá song lấp lánh đuốc đen hồng, Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé, Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Chỉ một hình ảnh “Đêm thở” mà ta như thấy cả màn đêm phập phồng, thấy cả gió, cả sóng nước. Theo nhịp thở của vũ trụ, ngàn con sóng dồn đuổi ánh lên những đợt vàng sáng lấp lánh của vẩy cá phản chiếu ánh trăng, của ánh trăng, của sao… Thật huyền diệu!
4. Cá đã đầy khoang, lấp loá trong ánh rạng đông cũng là lúc đoàn thuyền kết thúc một đêm lao động. Buồm lại căng lên đón ánh nắng sớm. Khổ thơ cuối là cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:
Câu hát căng buồm với gió khơi, Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời. Mặt trời đội biển nhô màu mới, Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Lại một sự hoà quyện tuyệt vời giữa thiên nhiên và con người. Vẻ đẹp của bài thơ bừng lên trong ánh sáng huy hoàng, ánh sáng của mặt trời, ánh sáng của sức lao động đã thành thành quả, của niềm vui lao động chân chính.
5. Nhìn lại toàn bộ bức tranh mà tác giả đã miêu tả trong bài thơ, ta càng thấy rõ hình ảnh con người vừa làm chủ tự nhiên(Ra đậu dặm xa dò bụng biển; Dàn đan thế trận lưới vây giăng), vừa phô vẻ đẹp hoà quyện cùng thiên nhiên (Câu hát căng buồm cùng gió khơi; Thuyền ta lái gió với buồm trăng, Lướt giữa mây cao với biển bằng; Câu hát căng buồm với gió khơi, Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời). Trong sự hài hoà ấy, vũ trụ cũng được cảm nhận cùng với sự vận động theo nhịp sống của con người: Ta hát bài ca gọi cá vào, gõ thuyền đã có nhịp trăng cao. Đúng như nhà thơ Huy Cận đã bày tỏ:
“Khung cảnh trên biển khi mặt trời tắt không nặng nề tăm tối mà mang vẻ đẹp của thiên nhiên tạo vật trong quy luật vận động tự nhiên của nó. Ở đây, tôi đã miêu tả khung cảnh tạo vật với cảm hứng vũ trụ. Nếu trước cách mạng, vũ trụ ca còn buồn thì bây giờ vui, trước là tách biệt, xa cách với cuộc đời thì hôm nay, lại gần gũi với con người. Bài thơ của tôi là cuộc chạy đua giữa con người và thiên nhiên, và con người đã chiến thắng. Tôi coi đây là một khúc tráng ca, ca ngợi con người trong lao động với tinh thần làm chủ, với niềm vui.”
II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG“Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận được xem là một khúc tráng ca, một bài ca lao động, dạt dào cảm hứng về thiên nhiên và đất nước, con người trước cuộc sống mới.
Vì vậy, khi đọc cần chú ý thể hiện chất giọng khoẻ khoắn, sảng khoái, làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của con người lao động làm chủ thiên nhiên và vũ trụ.
Theo chúng tôi
Bài Thơ: Đoàn Thuyền Đánh Cá (Huy Cận
Đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận sáng tác năm 1958, trong chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Hòn Gai. Bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ và niềm vui, niềm tin trước cuộc sống mới trong những năm đầu xây dựng đất nước.
Bài thơ là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng: cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của bài thơ.
Đoàn thuyền ra khơi được miêu tả trong một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp:
Mặt trời xuống biển như ngọn lửa.Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Nghệ thuật so sánh và nhân hoá được sử dụng thật độc đáo. Mặt trời được ví như hòn lửa đang lặn dần vào lòng biển. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm xuống mau khép lại ánh sáng như đóng sập cánh cửa khổng lồ mà những lượn sóng là chiếc then cài. Ngày đã khép lại, vũ trụ như đang bước vào trạng thái thư giãn sau một ngày lao động thì chính lúc ấy một ngày lao động mới của người dân đánh cá lại bắt đầu:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Khi vị chủ nhân thứ nhất của thiên nhiên là mặt trời đi ngủ thì vị chủ nhân thứ hai – những người dân chài của cuộc sống mới lại mở cửa đêm để ra biển đánh cá. Công việc của những người dân chài diễn ra như một nhịp sống đều đặn trở thành quen thuộc, nền nếp. Nếu như sức sống của thiên nhiên như ngưng lại thì sự có mặt của đoàn thuyền như nối tiếp nhịp sống đó. Dù đã cài then, sập cửa nhưng biển không chìm trong lạnh lẽo hoang vu mà trái lại biển đang là chứng nhân cho sự làm việc hăng say, không nghỉ của những người lao động:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Câu thơ xuất hiện ba sự vật khác biệt là câu hát, căng buồm và gió khơi nhưng lại được gắn kết, hoà quyện với nhau. Tiếng hát khoẻ khoắn của cả tập thể hoà với tiếng gió thổi căng buồm đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Câu hát là niềm tin, sự phấn chấn của người lao động. Sự kết hợp của nhịp điệu gấp gáp khẩn trương ở hai câu đầu với cái thanh thoát, đĩnh đạc của nhịp thơ hai câu sau đã vẽ nên bức tranh hào hùng về cảnh đoàn thuyền ra khơi. Khổ thơ còn là sự kết hợp của những liên tưởng táo bạo với những phép tu từ so sánh, nhân hoá đặc sắc đã giúp tác giả thể hiện khúc ca ra khơi hào hùng của người dân chài.
Không chỉ hát khi ra khơi mà những con người lao động luôn cất tiếng hát hoà cùng với công việc của mình. Tiếng hát là mong ước, là niềm tin thu hoạch:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,Cá thu biển Đông như đoàn thoi.
Từ con cá bạc báo biển lặng, biển hiện lên trong đêm như một khung cửi lớn và đẹp. Cá thu từng đoàn rẽ nước toả sáng, di chuyển như những con thoi. Sự liên tưởng từ khung cửi dệt đến khung cửa biển là sự liên tưởng độc đáo, là kết qủa của sự quan sát thực tế. Qua sự liên tưởng ấy, trong cảm xúc vũ trụ của Huy Cận biển không còn xa lạ mà trở nên gần gũi. Trong lời hát của người ngư dân, biển thật giàu có:
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Nguyên liệu biển dồi dào, chỉ cần một tiếng gọi để thu cá vào lưới. Khổ thơ mang âm hưởng của dòng cảm hứng vũ trụ với sự lãng mạn của tâm hồn đã làm nên những khúc ca hoành tráng của người lao động.
Trên cái nền tráng lệ của thiên nhiên là sức mạnh của cánh buồm, sức mạnh của con người làm chủ biển cả:
Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằng,
Thuyền có lái, có buồm nhưng lái bằng gió, buồm là buồm trăng. Đoàn thuyền lướt đi trong dêm không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức mạnh của câu hát hoà cùng sức mạnh của gió, cộng hưởng sức mạnh của trăng. Bởi thế mà thuyền như lướt đi, như bay lên. Con thuyền đánh cá còn nhỏ bé qua cảm hứng vũ trụ đã trở nên kì vĩ, khổng lồ, sánh ngang tầm với vũ trụ. Và trên con thuyền ấy, người như dần hiện lên trong tư thế làm chủ:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Đã qua rồi thời con người còn nhỏ bé, đơn độc trước sức mạnh bí ẩn của biển cả. Mang trong mình khí thế của người làm chủ, biển như hẹp lại để con người ra đậu dặm xa, dàn đan thế trận và dò bụng biển để con người tìm tòi, khám phá. Họ đàng hoàng ra những nơi xa để bắt thiên nhiên phục vụ. Họ – những dân chài mang theo cả sức trẻ, sức khoẻ, mang theo cả sự tìm tòi, khám phá để tung phá thế giới bí hiểm của thiên nhiên. Việc đánh bắt ấy như một trận chiến mà mỗi người lao dộng như một chiến sĩ.
Hát khi ra khơi, hát cho cuộc hành trình và những người lao động còn hát để ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.
Các loài cá được kể tên: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song đã nói lên sự phong phú, giàu có của biển. Không chỉ, giàu mà biển còn rất đẹp:
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Dưới ánh trăng, cá song quẫy mặt nước. Thân cá có khoang màu hồng lấp lánh như ánh sáng chuyển động dưới làn nước biển. Đoạn thơ mang nhiều màu sắc, ánh sáng: ánh sáng đen hồng, lấp lánh của cá song, ánh sáng vàng choé của trăng vỡ trên mặt nước. Những gam sắc ánh sáng hoà cùng bóng tối của màn đêm tạo ra bức tranh sơn mài lóng lánh sắc màu, biển lại như thấy hơi thở:
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Hình ảnh nhân hoá thật độc đáo. Đêm vẫn thư giãn và thuỷ triều lên xuống tạo ra hơi thở của đêm. Những đốm sao bạt ngàn in trên mật nước, trôi dạt trên đầu những ngọn sóng chiều đập vào bãi cát được ví như: lùa nước Hạ Long. Sao với nước cũng xuất hiện và tồn tại trong nhịp thở của đêm. Nối những miền không gian lại với nhau, thiên nhiên như bức tranh sơn mài tráng lệ và kì ảo. Đặc biệt, nhà thơ gọi cá bằng em. Một cách gọi trìu mến, cá không còn là dối tượng đánh bắt mà trở nên thân gần đáng mến.
Tiếng hát theo những người dân chài trong suốt cả cuộc hành trình và giờ đây tiếng hát cất lên là để gọi cá vào lưới:
Ta hát bài ca gọi cá vào,Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Người dân gọi cá bằng tiếng hát và trăng tạo ra nhịp gõ. Động tác lao động bình thường: gõ nhịp vào mạn thuyền để dồn cá, qua lăng kính cảm xúc bỗng trở nên đẹp đẽ lạ thường. Trăng lên cao dần từng lúc, trăng tan vào nước biển, vỏ vào mạn thuyền làm nhịp hay con thuyền đang lướt dập dềnh, bồng bềnh giữa biển khơi như chạm vỡ ánh trăng tạo thành nhịp. Công việc đánh bắt cá tư nặng nhọc bỗng trở nên thi vị, lãng mạn. Từ sự giàu đẹp của biển là những suy ngẫm về lòng biển bao dung:
Biển cho ta cá như lòng mẹNuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Nhà thơ Huy Cận đã thật tài tình khi so sánh lòng biển với lòng mẹ. Lòng biển mênh mông, rộng rãi đầy cá như tấm lòng mẹ bao dung, độ lượng. Chính lòng biển là lòng mẹ đã nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Câu thơ là khúc tâm tình thiết tha với biển thân yêu, là lời cảm ơn biển, biển vừa bao la mà lại trĩu nặng yêu thương.
Suốt dọc cả bài thơ là tiếng hát, sau những tiếng hát ca ngợi, những tiếng hát lao động hăng say là tiếng hát niềm vui thu hoạch:
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Đây là chi tiết cụ thể duy nhất về hình ảnh con người hiện ra trong sớm mai trên biển. Hình ảnh những người dân chài như có hình, có khối đó là hình ảnh khoẻ mạnh, đẹp đẽ của con người trong sự làm chủ. Kéo xoăn tay – kéo mạnh, kéo bằng tất cả sức lực, khiến cho các cơ bắp nổi lên cuồn cuộn. Hình ảnh thơ như tạc bức tượng đồng về người ngư dân:
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông,Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Câu thơ vừa thực mà vừa có nghĩa ẩn dụ. Không chỉ tả màu của vẩy, sắc của đuôi cá trong sớm mai mà còn gợi nghĩ đến bạc, vàng – những tài sản quý giá lấy lên từ biển cả. Bởi không chỉ nhận ánh sáng phản chiếu từ tràng sao. Vẩy bạc đuôi vàng tự phát sáng loé rạng đông tạo nên ngày mới, làm cuộc sống đổi thay. Đó cũng chính là mục đích của người lao động, là hướng đi của nhân dân ta trong những năm đó.
Thống nhất với cảm hứng và bút pháp lãng mạn, khổ cuối của bài thơ là bức tranh hoành tráng với âm thanh, hình ảnh tràn đầy sức mạnh của con người, đoàn thuyền và ngập tràn ánh sáng:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi,Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Câu hát cùng gió khơi đưa thuyền đi, nay vẫn câu hát ấy căng buồm đưa thuyền về. Nhưng giờ đây không chỉ còn là sức mạnh của gió mà sức mạnh niềm vui con người như được nhân lên vì thuyền đầy cá. Nếu như ở khổ thơ đầu, sau khi màn đêm bao trùm trên biển thì con người mở cửa đêm ra khơi đánh cá thì giờ đây họ – những người dân chài đang chạy đua cùng mặt trời. Không còn là sự nối tiếp của nhịp sống thiên nhiên, con người mà quan hệ của thiên nhiên, con người là quan hệ song song, đua tranh. Chạy đua với mặt trời cũng là chạy đua với thời gian. Con người đang giữ lấy từng giây, từng phút, đang vượt lên trên cả thời gian để tạo của cải cho cuộc sống mới, để xây dựng và cống hiến. Những con người lao động đã về đến bến khi bình minh vừa ló dạng: Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Cảnh biển một ngày mới được mở rộng đến muôn dặm và ngập tràn ánh sáng. Hình ảnh nhân hoá mặt trời đội biển đi lên mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn. Ánh sáng của mặt trời không chỉ mang đến màu của cảnh vật mà còn mang màu mới cho cuộc sống mà những người lao động đang từng ngày, từng giờ cống hiến. Sức tưởng tượng của bút pháp lãng mạn khiến bờ bãi thuyền về trong dòng thơ cuối rực rỡ huy hoàng trong ánh sáng:
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Mắt của ngàn vạn con cá phơi trên bờ biển như cùng hướng về một phía phản chiếu tia sáng bình minh rực sáng muôn dặm dài xa như bờ biển đất nước. Đây là hình ảnh đẹp lung linh, kì ảo, thể hiện thành quả tốt đẹp của người ngư dân sau một đêm lao động vất vả.
Ngợi ca vẻ đẹp hùng tráng và thơ mộng của biển khơi, ngợi ca cuộc sống tưng bừng niềm vui xây dựng, bài thơ thực sự là tiếng hát cất lên từ hồn thơ Huy Cận để dâng tặng cuộc đời. Mang trong mình cả phong vị cổ điển nhưng lại rất hiện đại ở những liên tưởng bất ngờ, cả cảm hứng vũ trụ hoà cùng luồng cảm hứng lãng mạn, bài thơ mở ra một viễn cảnh thật huy hoàng và tràn đầy niềm tin vào một tương lai nhất định nở hoa.
Tổng hợp các bài viết thuộc chủ đề Cách Học Thuộc Nhanh Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá xem nhiều nhất, được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!