Xu Hướng 9/2023 # Soạn Vào Phủ Chúa Trịnh Chi Tiết # Top 14 Xem Nhiều | Englishhouse.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Soạn Vào Phủ Chúa Trịnh Chi Tiết # Top 14 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Soạn Vào Phủ Chúa Trịnh Chi Tiết được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

I.

Hướng dẫn soạn Vào phủ chúa Trịnh phần tác giả, tác phẩm

Cũng như các bài soạn văn khác, bài soạn văn 11 Vào phủ chúa Trịnh cần có phần khái quát về tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả 

Nguồn: Internet

Lê Hữu Trác (1724 – 1791) ông quê ở trấn Hải Dương, là người làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng (nay là huyện Yên Mĩ, tỉnh Hưng Yên). Ông còn được người đời biết đến với một danh xưng nổi tiếng khác là Hải Thượng Lãn Ông. Ông là một danh y xuất sắc trong thời trung đại Việt Nam. Ông được nhân dân kính trọng vì tài năng y thuật và cả tấm lòng nhân hậu. 

Chính vì dành cả đời để cống hiến sức mình cho y học, Lê Hữu Trác đã để lại cho đời công trình nghiên cứu đồ sộ và giàu giá trị. Đó là Bộ “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” gồm 66 quyển. Tác phẩm của ông có thể xem là quyển “nhật kí” của cuộc đời ông vì ghi lại toàn bộ hành trình ông lặn lội khắp mọi miền quê để mang đức độ và y thuật của mình chữa bệnh cứu người. Tác phẩm có lẽ không chỉ đơn thuần ghi lại những bài thuốc, những câu chuyện hay các lần gặp gỡ của ông với nhân dân mà chất chứa cả những cảm xúc, nỗi niềm của một người hết lòng với người, với đời. Những câu chuyện, những dòng viết về cảm xúc của Lê Hữu Trác đã giúp cho tác phẩm trở thành một đóng góp giàu giá trị cho văn học Việt Nam.

2. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh

Nguồn: Internet

Trong bài soạn Vào phủ chúa Trịnh Ngữ văn 11 chắc chắn không thể thiếu những dòng viết về tác phẩm nói chung và đoạn trích nói riêng.

Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một đoạn trích nằm trong tập kí sự “Thượng kinh kí sự” (Kí sự đến kinh đô). Đây là tập kí sự được hoàn thành vào năm 1783, được xếp ở cuối của công trình “Hải Thượng y tông tâm lĩnh”. Tập kí sự được viết bằng chữ Hán và ghi lại những sự việc, những câu chuyện có thật và tương đối hoàn chỉnh.

Nội dung của tập kí sự nói về những điều tai nghe mắt thấy của Lê Hữu Trác khi nhận lệnh vào kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán khi ông đang sống cuộc sống thanh nhàn ở chốn Hương Sơn. Chuyến đi kéo dài khoảng 9 tháng 20 ngày. Trong hành trình ấy, tác phẩm Vào phủ chúa Trịnh đã giúp ông ghi lại quang cảnh kinh đô, đặc biệt là cuộc sống giàu sang, xa hoa của chúa Trịnh. Qua đó, tác phẩm đã bộc lộ rõ thái độ coi thường danh lợi của tác giả.

Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh nằm ở phần đầu của tác phẩm, kể về việc Lê Hữu Trác tới kinh đô, được dẫn vào phủ chúa để bắt mạch, kê đơn cho Trịnh Cán.

II. Hướng dẫn soạn Vào phủ chúa Trịnh chi tiết

Blog Kiến Guru sẽ hướng dẫn soạn văn Vào phủ chúa Trịnh qua hai phần chính: Cuộc sống trong phủ chúa Trịnh và nhận xét về Lê Hữu Trác qua đoạn trích.

1. Cuộc sống trong phủ chúa Trịnh a. Quang cảnh phủ chúa

Phủ chúa theo miêu tả của Lê Hữu Trác là một nơi được xây dựng uy nghi, mỹ lệ bởi kết cấu và cách bài trí của nó.

Về kết cấu, phủ chúa là nơi muốn vào được phải qua nhiều lần cửa với “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”, cửa nào cũng có vệ sĩ canh gác cẩn mật và hơn hết phải có thẻ thì mới có thể cân nhắc cho vào hay không.

Nguồn: Internet

Cách trang trí của phủ chúa cũng cho thấy có sự đầu tư cẩn trọng. Vườn phủ là nơi có “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Bên trong phủ toàn là “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy” với toàn những kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng còn đồ tiếp khách ăn uống toàn là “mâm vàng, chén bạc”. Đến nội cung của thế tử cũng phải trải qua năm sáu, lần trướng gấm và đồ nội thất cũng được đầu tư chẳng hề kém cạnh khu vực nào trong phủ.

b. Cung cách sinh hoạt

Cung cách sinh hoạt trong phủ là minh chứng rõ rệt cho quyền uy tối cao và nếp sống hưởng thụ cực kì xa hoa của chúa Trịnh và người thân trong gia đình. Trước hết, ai bước vào phủ sẽ có “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường” còn “người giữ cửa thì truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”. Không chỉ vậy, những lời nhắc đến chúa cũng đều thể hiện thái độ hết sức cung kính, chẳng hạn như: “Thánh thượng đang ngự ở đấy”, “chưa thể yết kiến”, “hầu mạch Đông Cung thế tử”, “hầu trà”,… Riêng chúa Trịnh thì luôn có “phi tần chầu trực”, thầy thuốc vào thăm bệnh cho thế tử cũng chỉ làm theo mệnh lệnh chúa thông qua quan Chánh đường mà không được thấy mặt chúa. 

Xem Thêm: 

Tóm Tắt vào phủ chúa Trịnh

Soạn Văn Tự Tình siêu hay

Soạn văn bài câu cá mùa thu nhanh nhất

2. Nhận xét về Lê Hữu Trác qua đoạn trích a. Là một thầy thuốc có tài năng y thuật

Tài năng ý thuật của Lê Hữu Trác được khẳng định vì có giỏi giang và dày dặn kinh nghiệm thì mới được chúa Trịnh – vốn là người vô cùng cẩn thận, triệu vào kinh để chữa cho thế tử. Lê Hữu Trác cũng hiểu rất rõ căn bệnh của thế tử và rất thẳng thắn, quyết đoán trong cách thuyết phục chúa Trịnh nghe theo những chẩn đoán của mình để chữa đúng bệnh cho thế tử. Mặc dù, ý kiến của ông trái lại với đa số các thầy thuốc khác.

b. Là một thầy thuốc có y đức

Vốn là một người xem thường danh lợi, thích nếp sống thanh đạm, mặc dù có quyền yêu cầu có một cuộc sống đủ đầy hơn về vật chất cho xứng với tài năng của mình nhưng Lê Hữu Trác không mảy may nghĩ đến việc vun vén cuộc sống xa hoa cho bản thân, dù chỉ một lần. Không chỉ vậy, ông còn bày tỏ thái độ không đồng tình với cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa. 

Hơn hết, chính lương tâm và phẩm chất trung thực của người thầy thuốc đã giúp tác giả đưa ra lựa chọn gạt sở thích sống ẩn dật, “lánh đục tìm trong” để làm tròn sứ mệnh của người thầy thuốc.

c. Là một tác giả văn học tài năng

Qua tác phẩm có thể thấy ở Lê Hữu Trác khi ở vai trò là một văn nhân cũng hết sức tài giỏi, khéo léo. Điều đó được thể hiện qua cách quan sát tỉ mỉ, kể hay tả đều sinh động và thu hút. Bên cạnh đó, tác giả cũng rất trau chuốt ngay cả với những chi tiết nhỏ và không quên bộc lộ dấu ấn cá nhân và đan xen suy nghĩ, tâm trạng riêng của bản thân.

Thông qua những gợi ý trên, việc soạn Vào phủ chúa Trịnh chắc chắn sẽ không có gì là nặng nề, đúng không các bạn? Tóm lại, với việc soạn Vào phủ chúa Trịnh Ngữ Văn 11 trước giờ học trên lớp, các bạn có thể hình dung được phần nào quyền lực to lớn và cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa. Cùng với đó là thái độ sống xem thường danh lợi của tác giả. Về nghệ thuật, văn bản đã cho thấy lối kể hấp dẫn, sự kết hợp khéo léo giữa văn xuôi và thơ, sự miêu tả tỉ mỉ và cụ thể và đặc biệt là chất thật của người, của việc.

Soạn Bài: Vào Phủ Chúa Trịnh

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả: Lê Hữu Trác (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả trong SGK Ngữ Văn 11 Tập 1).

2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Văn bản Vào phủ chúa Trịnh được trích trong tác phẩm Thượng kinh kí sự (Kí sự đến kinh đô) của tác giả Lê Hữu Trác. Đoạn trích nói về việc Lê Hữu Trác lên tới kinh đô, được dẫn vào phủ chúa để bắt mạch, kê đơn cho Trịnh Cấn.

* Thể loại: Văn bản được viết bằng thể kí sự – một thể loại văn học mới xuất hiện ở thế kỉ XVIII, ghi chép những câu chuyện, những sự việc có thực và tương đối hoàn chỉnh.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

* Quang cảnh trong phủ chúa Trịnh được miêu tả khá tỉ mỉ từ ngoài vào trong, từ bao quát đến cụ thể.

Phải đi qua mấy lần cửa, năm sáu lần trướng gấm

Được canh giữ rất nghiêm ngặt

Cảnh trí ở đây cũng khác lạ: cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, vườn hoa đầy sắc hương, những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau.

Trong phủ là những đại đồng, quyền bổng, gác tía, kiệu son, mâm vàng chén bạc

Nội cung thế tử có sập vàng, ghế rộng, nệm gấm, màn là, hương hoa ngào ngạt,…

* Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa:

Trong phủ có nhiều loại quan và người phục địch, người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan đi lại như mắc cửi.

Lời lẽ nhắc đến chúa và thế tử đều phải hết sức cung kính và lễ độ.

Chúa phải có phi tần chầu chực, tác giả cũng không được nhìn thấy mặt chúa, tất cả chỉ làm theo lệnh và thông qua quan chánh đường

Thế tử mặc dù chỉ mới là một đứa bé khoảng 5 – 6 tuổi, lúc nào cũng có tới 7 – 8 thầy thuốc túc trực bên cạnh và có người hầu cận 2 bên. Khi vào xem mạch lẫn khi lui ra, người thầy thuốc đều phải cúi lạy cung kính.

* Những quan sát, ghi nhận này nói lên cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống nơi phủ chúa:

Được thể hiện trực tiếp thông qua cách quan sát, những lời nhận xét và những lời bình giá của tác giả

Câu 2:

* Những chi tiết trong đoạn trích được cho là “đắt”, có tác dụng làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm là:

Chi tiết đối lập: thế tử – một đứa bé – ngồi chễm trệ trên sập vàng cho thầy thuốc – một cụ già – quỳ lạy. Để rồi “ngài” cười và ban cho một lời khen “rất trẻ con”: Ông này lạy khéo!

Khi đọc đến chi tiết này, chắc hẳn chúng ta đều đã biết được nguyên nhân gây ra căn bệnh của thế tử Cán. Một đứa trẻ có tuổi đời còn quá nhỏ nhưng lại bị kìm kẹp nơi thâm cung thiếu sinh khí tự nhiên để sống.

Ngoài ra, truyện cũng còn nhiều chi tiết khác rất độc đáo và sắc sảo để giúp người đọc thấy được cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa Trịnh.

Câu 3:

Cách chẩn đoán và chữa bệnh của Lê Hữu Trác cùng những diễn biến tâm tư của ông khi kê đơn cho ta thấy thái độ, tâm trạng và những suy nghĩ sâu sắc của nhà văn:

Câu 4:

Bút pháp kí sự của tác giả có điểm đặc sắc:

Sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế và sắc sảo, kết hợp với bút pháp tả cảnh sinh động

Nội dung ghi chép trung thực

Cách kể chuyện khôn khéo, lôi cuốn và hấp dẫn. Đặc biệt là những chi tiết nhỏ có tính chất tạo nên cái thần của cảnh và sự việc.

Giọng điệu thấp thoảng ý mỉa mai, hài hước.

Theo chúng tôi

trắc nghiệm tin học bài 10 lớp 12

Soạn Bài Vào Phủ Chúa Trịnh

Soạn bài Vào phủ Chúa Trịnh (Lê Hữu Trác) Tóm tắt

Vào sáng sớm tinh mơ ngày 1 tháng 2, tôi được lệnh triệu vào phủ chúa. Tôi nhanh chóng được điệu đi trên một cái cáng chạy như ngựa lồng. Tôi đi vào từ cửa sau, nhìn quanh tôi thấy cây cối um tùm, chim hót líu lo, muôn hoa đua thắm. Qua mấy lần cửa, các hành lang dài quanh co tôi được đưa tới một ngôi nhà thật lớn gọi là phòng trà. Đồ đạc trong phòng đều được sơn son thếp vàng. Lúc đó thánh thượng đang ngự phòng thuốc cùng các phi tần nên tôi không thể yết kiến. Tôi được thiết đãi bữa sáng mĩ vị với đồ dùng toàn bằng vàng, bạc. Ăn xong tôi được đưa đến yết kiến ở Đông Cung và khám bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Thế tử vì “ăn quá no, mặc quá ấm” mà sinh bệnh. Nửa sợ bị cuốn vào vòng danh lợi, nửa vì chịu ơn của nước. Cuối cùng, tôi dốc lòng kê đơn cho thế tử, rồi từ giã lên cáng trở về kinh Trung Kiền chờ thánh chỉ. Bạn bè ai ai trong cung cũng đến thăm hỏi.

Bố cục

– Phần 1 (từ đầu đến không có dịp): Quang cảnh trong phủ chúa Trịnh.

– Phần 2 (tiếp đến phòng chè ngồi): Thực trạng trong phủ chúa, hình ảnh Trịnh Cán ốm yếu.

– Phần 3 (còn lại): Tâm trạng, cảm nghĩ của Lê Hữu Trác

Câu 1 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

* Quang cảnh trong phủ Chúa

– Phải đi qua nhiều lần cửa, với những dãy hành lang dài quanh co nối nhau liên tiếp, ở mỗi cửa đều có lính canh gác, ai muốn vào phải có thẻ.

– Vườn hoa trong phủ Chúa cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa cỏ thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương

– Bên trong phủ là nhà Đại đường, Quyển bổng, Gác tía với kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy.

– Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là mâm vàng chén bạc

– Đến nội cung phải đi qua 5, 6 lần trướng gấm

– Phòng thắp nến, sập thếp vàng, ghế rồng sơn son, nệm gấm mà che

⇒ Quang cảnh ở phủ chúa cực kì tráng lệ lộng lẫy, không đâu sánh bằng

* Cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa

– Khi đi thì có tên đầy tớ chạy trước hét đường

– Trong phủ người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi

– Lời lẽ nhắc đến thế tử đều hết mực cung kính, lễ độ tránh phạm úy.

– Chúa Trịnh luôn cho phi tần chầu chực xung quanh. Tác giả không được thấy mặt Chúa

– Thế tử bệnh có 7, 8 người thầy thuốc túc trực, phục dịch

– Tác giả phải quỳ lạy 4 lần lúc đến và 4 lần lúc về

⇒ Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa với những lễ nghi, khuôn phép, cách nói năng, người hầu kẻ hạ cho thấy sự cao sang, quyền uy, cùng với cuộc sống hưởng thụ xa hoa đến cực điểm và sự lộng quyền của nhà chúa.

* Cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống trong phủ

– Lê Hữu Trác mặc dù khen cái đẹp, cái sang nơi phủ Chúa những tác giả tỏ vẻ dửng dưng trước những thứ vật chất xa hoa và không đồng tình với cuộc sống quá xa xỉ, thừa thãi, hưởng lạc nhưng thiếu khí trời và tự do như ở trong phủ Chúa

Câu 2 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Chi tiết được cho là đắt nhất

– “Một đứa bé độ 5, 6 tuổi ngồi chễm chệ trên sập vàng để cho thầy thuốc già cúi lạy bốn lần rồi cười và ban một lời khen “ông này lạy khéo”. Khi đi đi qua độ 5, 6 lần trướng gấm tối om như vậy là một khung cảnh vàng son nhưng tù hãm, thiếu sinh khí của thế tử. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt mấy người hầu cận đứng xúm xít.

– Qua chi tiết ấy cho thấy cuộc sống ăn chơi hưởng lạc trong phủ Chúa. Thế tử được mọi người chăm sóc, hầu cận đến phát bệnh. Không gian ngột ngạt, tù túng, thiếu sinh khí trong phủ Chúa.

Câu 3 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

– Cách chẩn đoán bệnh của Lê Hưu Trác cho thấy ông là một người thầy thuốc giỏi, giàu kinh nghiệm

– Ông là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ

– Đặc biệt ông còn có những phẩm chất cao quý: khinh thường danh lợi, quyền quý, yêu thích tự do và nếp sống thanh đạm, giản dị

Câu 4 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Bút pháp đặc sắc trong truyện

– Sự quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực những gì đã nhìn thấy

– Tả cảnh sinh động

– Kể diễn biến sự việc một cách khéo léo, lôi cuốn người đọc

Luyện tập (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)

So sánh hai đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” (Lê Hữu Trác) với “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” (Phạm Đình Hổ)

* Giống nhau: Đều phán ánh hiện thực cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh

* Khác nhau:

– Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – Phạm Đình Hổ

+ Phản ánh sự nhũng nhiễu của quan lại đối với nhân dân

+ Các sự kiện được kể một cách tản mạn, ghép nối

+ Thể hiện thái độ phê phán gay gắt của tác giả đối với Chúa và quan lại

– Vào phủ chúa Trịnh – Lê Hữu Trác

+ Ghi chép sự việc theo trình tự thời gian một cách tỉ mỉ và trung thực

+ Thể hiện thái độ phê phán một cách kín đáo

+ Thể hiện thái độ dửng dưng, coi thường vinh hóa phú quý và tấm lòng y đức của Lê Hữu Trác

Bài giảng: Vào phủ Chúa Trịnh – Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k4: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Soạn Văn Bài Vào Phủ Chúa Trịnh Lớp 11

Soạn văn bài vào phủ Chúa Trịnh lớp 11 – Bài số 1

I. TÌM HIỂU CHUNG

1. Tác giả

a) Cuộc đời:

Lê hữu trác là người làn Liên Xá, huyện Đường Hòa, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương.

Tên hiệu là Hải Thượng Lãn Ông ( nghĩa là ông già lười ở đất thượng Hồng ) Lười làm quan và biếng danh lợi

Gia đình ông có truyền thống học hành và thi cử đỗ đạt làm quan.

b) Sự nghiệp:

Ngoài tài chữa bệnh, ông còn là người soạn sách, truyền bá y học…

Bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 66 quyển biên soạn trong 60 năm được coi là tác phẩm y học xuất sắc nhất trong thời Trung đại.

2. Tác phẩm ” Thượng kinh ký sự: ( 1782)

Đây là quyển cuối cùng trong bộ Hải thượng y tông tâm lĩnh, đánh dấu về sự phát triển của văn học Văn xuôi tiếng Việt, thể ký)

Tác phẩm ghi nhận những điều mắt thấy tai nghe khi tác giả được mời vào kinh chữa bệnh cho thế tử Cán cho tới khi ông về lại Hương Sơn.

3. Vị trí đoạn trích:

Đoạn trích ghi lại thời điểm: sau khi ông vào kinh, đang tá túc ở tại nhà Quận Huy Hoàng Đình Bảo thì được mời vào phủ chía Trịnh xem bệnh cho thế tử Cán. Đây là lần đầu ông bước chân vào chốn này.

II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN:

1) Quang cảnh, cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa

a) Quang cảnh trong phủ chúa

+ Quang cảnh trong đây được miêu tả cực kỳ lộng lẫy, tráng lệ, không đâu có thể sánh bằng.

+ Cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm.

+ Những ” đại đường”, “Quyển bồng” với kiệu son võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng

+ Nội cung qua năm sáu lần trướng gấm, mà là, sập vàng, ghế rồng, đèn sáng lấp lánh, hương hoa ngào ngạt…

( màu sắc, đường nét, hương sắc của vườn cây, lầu son gác tía, mân vàng chén bạc, sơn hào hải vị…)

* Tác giả là con quan, đã từng nhiều lần vào tử cấm thành nhưng giờ đây vẫn ngỡ ngàng trước quang cảnh nơi phủ chúa…

b) Cung cách sinh hoạt

-Cách nói năng:

+ Trịnh Sâm thì dùng từ thánh chỉ(4 lần), thánh thượng(3 lần)

+Trịnh Cán thì:Thánh thể(1lần)

+ Các chức sắc trong phủ: Quan chánh đường, các vị lương y, của sáu cung ba viện, kẻ truyền tin đông đảo nhộn nhịp.

+ Phủ chúa ra vào phải có thẻ

+ Lương y khám bệnh cũng phải lạy bốn lạy, xin phép mới được cởi áo thế tử…

+ Xung quanh chúa là các cung tần phi nữ, trướng rủ màn che,

c) Thái độ của tác giả đối với cuộc sống nơi phủ chúa

+ Tác giả dửng dưng trước những quyến rũ về vật chất, cảnh sống xa hoa bởi vì nó được xây bằng xương bằng máu của nhân dân.

+ Tác giả không đồng tình với cuộc sống quá no đủ phè phỡn tiện nghi nhưng thiếu khí trời và cả không khí tự do.

Tóm lại:

Qua cách nói mỉa mai châm biếm của tác giả, chúng ta thấy được sự lộng quyền của nhà chúa đối với quyền tối thượng và cả nếp sống hưởng thụ cực kỳ xa hoa của chúa Trịnh cùng với gia đình, sự thật bù nhìn của tên vua Lê khi đó.

2) Thế tử Cán và thái độ con người Lê Hữu Trác:

a) Thế tử Cán:

nơi thế tử ngự là chốn thâm nghiêm tối tắm, bao quanh đó là các vật dụng gấm góc, lụa là vàng ngọc…

+ Người đông nhưng im lặng, thiếu sinh khí.

+ Không khí lạnh lẽo tù túng

+ Hình hài: tinh khí khô hết, mặt khô, rốn lồi to, gân xanh, chân tay gầy gò, …nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức…mạch bị tế sác…âm dương đều bị tổn hại.”

Những điều trên cho thấy cuộc sống vật chất đầy đủ giàu sang nhưng phẩm chất tinh thần, ý chí nghị lực lại trống rỗng. Đó cũng chính là hình ảnh suy yếu ruỗng của tập đoàn phong kiến Lê – trịnh vào những năm cuối TK XVIII.

b) Thái độ, con người Lê Hữu Trác:

+ Đó là một người thầy thuốc giỏi, có kiến thức sâu rộng và dạn dày kinh nghiệm…

+ Bên cạnh tài năng thì ông còn là thầy thuốc rất có lương tâm và đạo đức nghề nghiệp.

3) Nét đặc sắc trong bút pháp của tác giả:

+ Cách quan sát rất tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tảnh cảnh người sinh động, không bỏ sót một chi tiết nhỏ nào tạo nên cái thần của cảnh và việc.

+ Cách kể diễn biến câu chuyện và cả sự khéo léo, lôi cuốn người đọc.

+ Mang giá trị hiện thực sâu sắc

III. Kết luận:

Với lối viết theo thể ký, ghi chép lại những người thật việc thật, đoạn trích vào phủ chúa Trịnh đã giúp cho ta có được một tài liệu quý vào thời vua le Chúa Trịnh mà cho tới nay toàn bộ di tích hầu như đã biến mất.

Qua cách miêu tả người, tả cảnh rất khách quan, tác giả đã ngầm phê phán kín đáo về cảnh giàu sang xa hoa quyền uy ghê gớm của chúa Trịnh, đồng thời thể hiện được tâm hồn cao thượng, khát khao một cuộc sống tự do không cần màng tới danh lợi của vị danh y Hải Thượng Lãn Ông.

Soạn văn bài vào phủ Chúa Trịnh lớp 11 – Bài số 12

I. HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU VĂN BẢN

Câu 1: Quang cảnh trong phủ chúa được miêu tả như thế nào? Thái độ của tác già?

Trả lời:

a) Bậc danh y tuổi cao, tài lớn dã nhìn thấy và ghi lại quang cảnh ở phủ chúa Trịnh Sâm. Đó là cành cực kỳ xa hoa, tráng lệ và nổi lên quyển uy tột bậc cùa nhà chúa.

– Vào phủ chúa phải qua nhiều lần cửa và “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”… “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”.

– Trong khuôn viên phủ chúa “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”. Bài thơ ghi lại suy nghĩ và cảm nhận của tác giả để minh chứng cho cảnh sống xa hoa, uy quyền của phủ chúa:

Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt

Cả trời Nam sang nhất là đây!

+ Nội cung được miêu tả gồm những chiếu gấm, màn là, sập vàng, ghế rồng, đèn sáng lấp lánh, hương hoa ngào ngạt, cung nhân xúm xít, mặt phấn áo đỏ…

+ Ăn uống thì: “Mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn của ngon vật lạ”.

+ Về nghi thức: Lê Hữu Trác phải qua nhiều thù tục mới dược vào thăm bệnh cho thế tử. Nào là phải qua nhiều cừa, phải chờ đợi khi có lệnh mới được vào. “Muốn vào phải có thẻ”, vào đến nơi, người thầy thuốc Lê Hữu Trác phải “lạy bốn lạy”. Tất cả những chi tiết trên cho người đọc nhận thấy phủ chúa Trịnh thật lộng lẫy, sang trọng, uy nghiêm. Lời lẽ nhắn tới chúa Trịnh và thế từ đểu phải hết sức cung kính (thánh thượng, ngự, yết kiến, hầu mạch…). Chúa Trịnh luôn luôn có “phi tần chầu chực” xung quanh. Tác giả không thấy mặt chúa mà chi làm theo mệnh lệnh cùa chúa do quan Chánh dường truyền dạt lại. Xem bệnh xong chi được viết tờ khải dể dâng lên chúa. Nghiêm đến nỗi tác giả phải “Nín thở đứng chờ ở xa”.

– Đó là tài quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động giữa con người với cảnh vật. Thuật lại sự việc theo trình tự diễn ra một cách tự nhiên khiến ta có cảm giác, tác giả không hề thêm thắt, hư cấu mà cảnh vật, sự việc cứ hiện ra rõ mồn một. Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc. Đằng sau bức tranh và con người ấy chứa đựng, dồn nén bao tâm sự của tác giả.

b) Với tư cách cùa một người “… vốn con quan, sinh trường ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng dã từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thôi”. Bước chân tới đây, tác giả không bộc lộ trực tiếp thái độ. Song qua ngòi bút sắc sảo ghi lại những gì mắt thấy, tai nghe của tác giả, người đọc nhận ra thái độ của người cầm bút. Ôông sững sờ trước quang cảnh của phủ chúa “Khác gì ngư phủ dào nguyên thuở nào!” (một ngư phủ chèo thuyền theo dòng suối lạc vào động tiên). Việc được hưởng thụ giàu sang đang nàm trong tay nhưng rốt cuộc tác giả chẳng có thiết tha gì. Đây là đường vào nội cung thế tử “ở trong tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả”. Phải chăng thái độ gián tiếp của tác giả là tỏ ra không dồng tình với cuộc sống xa hoa, hưởng lạc thú quá mức của những người giữ trọng trách quốc gia? Cách tìm cuộc sống an nhàn nơi ấn dật rõ ràng là sự đối trọng gay gắt với cảnh sống của gia dinh chúa Trịnh Sâm và bọn quan lại dưới trướng. Thì ra tất cả những thứ sơn son thếp vàng, võng điều áo đỏ, sập vàng, gác tía, nhà cao cửa rộng, hương hoa thơm nức, đèn đuốc lấp lánh,… chỉ là phù phiếm, hình thức, che đậy những gì nhơ bẩn ỏ bên trong. Những thứ đó qua cái nhìn của một ông già áo vải, quê mùa, tự nó phơi bày tất cả. Điều đó giúp ta khẳng định Lê Hữu Trác không thiết tha gì với danh lợi, với quyền uy cao sang.

c) Đó là sự thành công khi miêu tả con người. Từ quan truyền chí đến quan Chánh đường, từ người lính khiêng võng, cầm lọng đến các quan ngự y, từ những cô hầu gái đến những phi tần, mĩ nữ đểu hiện lên rất rõ. Nhưng rõ nhất là thế tử Cán.

Câu 2: Chi tiết làm nổi bật giá trị hiện thực cùa tác phẩm?

Trả lời

– Lối vào chỗ ở của vị chúa nhỏ

“Đi trong tối om, qua năm, sáu lần trướng gấm”

– Nơi thế tử ngự; đạt sập vàng, cắm nến to trên giá đồng, bày ghế đồng sơn son thếp vàng, nệm gấm. Ngót nghét chục người đứng chầu chực sau tấm màn che ngang sân, cung nữ xúm xít. Đèn chiếu sáng làm nổi bật màu phấn và màu áo đỏ, hương hoa ngào ngạt.

– Chỉ có một ấu chúa, thực chất chỉ là cậu bé lên 5 tuổi mà vây quanh bao nhiêu là vật dụng gấm vóc, lụa là vàng ngọc. Tất cả, bao chặt lấy con người. Người thì đông nhưng tất cả đều im lặng khiến cho không khí trờ nên lạnh lẽo, băng giá. Bao trùm lên các mùi phấn son tuy ngào ngạt nhưng thiếu sinh khí. Một cậu bé bị quây tròn, bọc kín trong cái tổ kén vàng son.

+ Mặc áo đỏ, ngồi trên sập vàng

+ Biết khen người giữ phép tắc: “Ông này lạy khéo”

+ Cời áo thì: “Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, chân tay gầy gò… nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức… mạch lại tế,… âm dương đều bị tổn hại…”

– Thế tử Cán được miêu tả bằng con mắt nhìn của một vị lang y tài giỏi bắt mạch, chẩn đoán bệnh. Tác giả vừa tả, vừa nhận xét khách quan. Thế tử Cán được tái hiện lại thật đáng sợ: Tinh khí khô, mặt khô, toàn những đường nét của cơ thể đang chết. Hình ảnh thế từ Cán, chỉ qua vài nét miêu tả đã hiện rõ một cơ thể ốm yếu. Bấy nhiêu đã đủ rồi, nhưng chúng ta hãy đọc trong đơn thuốc của thế tử: “… sáu mạch tế, sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tì âm hư, vị hoả quá thịnh, không giữ được khí dương nên âm hoả đi càn. Vì vậy, bên ngoài thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù bên trong thì trống”. Phải chăng cuộc sống vật chất quá đầy đủ, quá mức giàu sang, phú quý nhưng tất cả nội lực bên trong là tinh thần, ý chí, nghị lực, phẩm chất thì trống rỗng. Ngôn ngữ của y học, hình hài tính khí vẫn là của con người nhưng từng câu, từng chữ có lúc tạo nên nhịp điệu đối xứng: “Màn che – trướng phủ”, với điệp ngữ “quá no… quá ấm”. Nhà khoa học kiêm nghệ sĩ đã chỉ đúng cội nguồn căn bệnh của Trịnh Cán là cả tập đoàn phong kiến của xã hội Đàng ngoài ốm yếu không gì cứu vãn nổi.

Cảu 3: Người thầy thuốc Lê Hữu Trác hiện lên như thế nào?

Trả lời:

– Khi khám bệnh cho thế tử Cán, thái dộ Lê Hữu Trác diễn biến rất phức tạp.

+ Một mặt tác giả chí ra căn bệnh cụ thể, nguyên nhân của nó, một mặt ngám phê phán: “Vì thế tử ờ trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ám nên tạng phù yếu đi”.

+ Ông rất hiểu căn bệnh cùa Trịnh Cán, đưa ra những cách chữa hợp lý, thuyết phục nhưng lại sợ chữa có hiệu quả ngay, chúa sẽ tin dùng, bị công danh trói buộc: “Nhưng sợ mình không ở lâu, nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được nữa”. Để tránh được, cứ cầm chừng, dùng thuốc vỏ thưởng vô phạt. Song làm thế lại trái với y đức, trái với lương tâm, phụ lòng ông cha. Tâm trạng ấy giằng co, xung đột. Đây là ý nghĩ đáng quý: “Cha ông mình đời đời chịu ơn của nước, ta phải dốc hết cả lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Cuối cùng phẩm chất, lương tâm trung thực cùa người thầy thuốc đã thắng. Lê Hữu Trác đã gạt sang một bên sở thích của riêng mình đê’ làm tròn trách nhiệm. Khi dã quyết, tác giả chẳng đưa ra lí lẽ để giải thích. Điều đó chứng tỏ tác giả là một thầy thuốc giỏi, có kiến thức sâu rộng, già dặn kinh nghiệm. Ống lấy việc trị bệnh cứu người làm mục đích chính, y dức ấy ai hơn.

– Quan sát tỉ mỉ.

+ Quang cảnh phù chúa.

+ Nơi thế tử Cán ở, cảnh vật dưới ngòi bút ký sự của tác già tự phơi bày.

– Ghi chép trung thực, giúp người đọc thấy được cánh ấy có sự bài trí của giàu sang, quyền chức.

+ Từ việc ngồi chờ ờ phòng trà đến bữa cơm sáng.

+ Từ việc xem bệnh cho thế tử Cán đến ghi đơn thuốc.

Tất cả không có một chút hư cấu, chi thấy hiện thực dời sống được bóc tách dần từng mảng. Người đọc không thể dừng lại ờ bất cứ chỗ nào. Cách ghi chép cũng như tài năng quan sát đã tạo được sự tinh tế, sắc sảo ở một vài chi tiết, gây ấn tượng khó quên.

+ Cách thế tử ngồi trên sập vàng chễm chệ, ban một lời khen khi một cụ già quỳ dưới đất lạy bốn lạy: “Ông này lạy khéo”.

+ Khi đi vào nơi thế tử để xem mạch, tác giả chú ý cả chi tiết bên trong cái màn là nơi “Thánh thượng đang ngự”(Chi chúa Trịnh Sâm). “Có mấy người cung nhãn đang đứng xúm xít. Đèn sáp chiếu sáng, làm nổi màu mặt phấn và màu áo dỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”. Chi tiết này khắng dịnh việc ăn chơi hưởng lạc của nhà chúa tự nó phơi bày ra mổn một.

Câu 4: Nét đặc sắc trong bút pháp kí sự?

Trả lời:

– Đoạn văn trích Vào phủ chúa Trịnh trích Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác vừa mang đậm giá trị hiện thực, vừa thể hiện phẩm chất của một thầy thuốc giàu tài năng mang bản lĩnh vô vi, thích sống gần gũi chan hoà với thiên nhiên, ghẻ lạnh với danh vọng, suốt đời chăm lo giữ gìn y đức của mình.

– Với tài năng quan sát sự vật, sự việc cùng với cách kể hấp dẫn. Lê Hữu Trác đã góp phần khẳng định vai trò, tác dụng của thể ký đối với hiện thực đời sống.

II. HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Bài tập: So sánh đoạn trích: Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác (Thượng kinh kí sự) với Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ (Vũ trung tuỳ bút)?

Trả lời:

Nhân việc được triệu về kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán, ghi lại quang cảnh và cuộc sống cực kì xa hoa của chúa Trịnh Sâm lúc bấy giờ

Kể lại những thú vui ham chơi của Trịnh Sâm: đi chơi ngắm cảnh đẹp, ngự ờ các li cung, xây dựng núi non. chậu hoa cảnh, vơ vét, chiếm đoạt của cải tiền bạc của nhân dân với nhũng tệ nạn nhũng nhiễu của bọn hoạn quan một cách thô bạo và trắng trợn.

Soạn văn bài vào phủ Chúa Trịnh lớp 11 – Bài số 3

I.TÌM HIỂU CHUNG

1.Tác giả

a) Cuộc đời:

+ Người làng Liên Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương

Gia đình có truyền thống hoc hành và thư cử đỗ đạt làm quan.

b) Sự nghiệp:

Ngoài tài chữa bệnh, ông còn là người soạn sách, truyền bá y học… Bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 66 quyển biên soạn trong 60 năm được coi là tác phẩm y học xuất sắc nhất trong thời Trung đại.

2. Tác phẩm ” Thượng kinh ký sự: ( 1782)

Là quyển cuối cùng trong bộ Hải thượng y tông tâm lĩnh, đánh dấu sự phát triển của văn học ( Văn xuôi tiếng Việt, thể ký)

Tác phẩm ghi nhận những điều mắt thấy tai nghe khi tác giả được mời vào kinh chữa bệnh cho Thế tử Cán cho tới khi ông về lại Hương Sơn..

3.Vị trí đoạn trích:

Đoạn trích ghi lại thời điểm: Sau khi ông vào kinh, đang tá túc tại nhà Quận Huy Hoàng Đình Bảo thì ông được mời vào phủ chúa Trịnh để xem bệnh cho Thế tử Cán. Đây là lần đầu tiên ông bước chân vào chốn thâm nghiêm này.

II.ĐỌC HIỂU VĂN BẢN:

1) Quang cảnh, cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa

a) Quang cảnh trong phủ chúa

Cực kỳ lộng lẫy, tráng lệ, không đâu sánh bằng:

– Cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm

– Những ” đại đường”, “Quyển bồng” với kiệu son võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng

– Nội cung qua năm sáu lần trướng gấm với những trướng gấm, màn là, sập vàng, ghế rồng, đèn sáng lấp lánh, hương hoa ngào ngạt…

(màu sắc, đường nét, hương sắc của vườn cây, lầu son gác tía, mân vàng chén bạc, sơn hào hải vị…)

* Tác giả là con quan, đã từng nhiều lần vào tử cấm thành mà vẫn ngỡ ngàng trước quang cảnh nơi phủ chúa…

b) Cung cách sinh hoạt

– Cách nói năng:

+ Trịnh Sâm thì dùng từ thánh chỉ(4 lần), thánh thượng(3 lần)

+Trịnh Cán thì:Thánh thể (1lần)

+ Các chức sắc trong phủ: Quan chánh đường, các vị lương y, của sáu cung ba viện, kẻ truyền tinđông đảo nhộn nhịp.

+ Phủ chúa ra vào phải có thẻ; lương y khám bệnh cũng phải lạy bốn lạy, xin phép mới được cởi áo thế tử…

+ Xung quanh chúa là các cung tần phi nữ, trướng rủ màn che,

c) Thái độ của tác giả đối với cuộc sống nơi phủ chúa

Tác giả dửng dưng trước những những quyến rũ vật chất,cảnh sống xa hoa bởi nó được xây bằng xương máu của nhân dân…

+ Không đồng tình với cuộc sống quá no đủ phè phỡn tiện nghi nhưng thiếu khí trời và không khíi tự do…

Tóm lại:

Qua cách nói mỉa mai châm biếm của tác giả, ta thấy: Sự lộng quyền của nhà chúa với quyền uy tối thượng và nếp sống hưởng thụ cực kỳ xa hoa của chúa Trịnh cùng gia đình; sự thật bù nhìn của vua Lê khi ấy…

2) Thế tử Cán và thái độ con người Lê Hữu Trác:

a) Thế tử Cán:

Nơi thế tử ngự là nơi thâm nghiêm tối tăm ; bao quanh là vật dụng gấm vóc, lụa là vàng ngọc…

+ Người đông nhưng im lặng, thiếu sinh khí.

+ Không khí lạnh lẽo tù túng

+ Hình hài: tinh khí khô hết, mặt khô, rốn lồi to, gân xanh, chântay gầy gò, …nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức…mạch bị tế sác…âm dương đều bị tổn hại.”

Cuộc sống vật chất đầy đủ giàu sang nhưng phẩm chất tinh thần, ý chí nghị lực trống rỗng.Đó cũng chính là hình ảnh suy yếu muc6 ruỗng của tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh Những năm cuối TK XVIII.

b) Thái độ, con người Lê Hữu Trác:

+Tác giả là một thầy thuốc giỏi, có kiến thức sâu rộng và dạn dày kinh nghiệm…

+ Bên cạnh tài năng, ông còn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ…

3) Nét đặc sắc trong bút pháp của tác giả:

+ Cách quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh tả người sinh động, không bỏ sót chi tiết nhỏ nào tạo nên cái thần của cảnh và việc.

+ Cách kể diễn biến câu chuyện và sự việc khéo léo,lôi cuốn người đọc. Giá trị hiện thực sâu sắc

III. Kết luận:

* Với lối viết theo thể ký, ghi chép lại những người thật việc thật, đoạn trích Vào phủ chúa trịnh giúp cho ta có được một tài liệu quý vào thời vua Lê chúa,Trịnh mà cho tới nay toàn bộ di tích này hầu như đã biến mất.

* Qua cách miêu tả người tả cảnh rất khách quan, tác giả đã ngẩm phê phán kín đáo cảnh giàu sang xa hoa quyền uy ghê gớm của chúa Trịnh đồng thời thể hiện tâm hồn cao thượng, khát khao cuộc sống tự do không màng danh lợi của vị danh y Hải Thượng Lãn Ông.

Soạn văn bài vào phủ Chúa Trịnh lớp 11 – Bài số 4

1. Vài nét về tác giả Lê Hữu Trác

– Lê Hữu Trác tên hiệu là hải thượng lãn ông, xuất thân trong một gia đình có truyền thống học hành thi đậu cao, ông cũng là một thầy thuốc giỏi.

2. Tác phẩm.

– Đây là quyển cuối cùng trong bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh.

3. Quang cảnh, cách thức sinh hoạt trong phủ chúa.

– Quang cảnh:

+ Khung cảnh trong phủ chúa nhộn nhịp xa hoa, với những tiếng chim hót những cánh hoa, những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau, cảnh vật xung quanh phủ chúa thật xa hoa lộng lẫy, nó mang một vẻ đẹp tran hoàng những cảnh vật ngoài xã hội lại đối lập với cảnh vật trong phủ chúa, bên trong đồ vật trong phủ chúa thì được to son thiếc vàng làm tôn lên vẻ đẹp lộng lẫy,hét sức xa hoa, không khí ở phủ chúa thật ngột ngạt, nó khiến cho tác giả bị xiết chặt vào cái sung túc nhưng lại dựa trên sự đau khổ của nhân dân lao động, những khung cảnh đó làm cho tác giả ngột ngạt ông như đang bước vào một thế giới hoàn toàn khác, ông cảm thấy khó thở và căm phẫn trước sự sa hoa của bọn bạo chúa.

– Cung cách sinh hoạt:

+ Trong phủ chúa Trịnh chỉ có những kinh thánh và những lời cầu khẩn dạ thưa của vua quan và đầy tớ, chúa trịnh là một người sống rất xa hóa trong cách sinh hoạt của hắn luôn có những phi tần luôn trầu trực, và thúc trực quanh hắn, thế tử thì luôn có đến bẩy tám người thầy thuốc tục trực…. một cuộc sống xa hoa ở phủ chúa đã bộc lộ ra một chế độ ăn chơi xa đọa không lo cho cuộc sống của nhân dân.

Người đọc khi đọc xong dường như đều có cảm xúc khi thấy một khung cảnh xa hoa nơi phủ chúa và cả những phong thái sinh hoạt xa hoa, sự xa hoa ở phủ chúa là sự cực khổ của nhân dân, mỗi sự cực khổ của nhân dân là một phần xa hoa sung túc ở phủ chúa, bóc lột sức lao động của nhân dân vào việc ăn chơi trác táng.. một chế độ thật đáng lên án sâu sắc.

+ Cảnh xa hoa tráng lệ ở phủ chúa trịnh khác hẳn và đối lập với cuộc sống đời thường bên ngoài mỗi chúng ta, nhân dân lúc ấy giờ đang lâm vào nạn đói, sưu thuế tăng cao nộp vào cho triều đình để ăn chơi, mỗi cuộc chơi của phủ chúa là những giọt mồ hôi công sức và cả máu của người dân. Nơi đây bọn chúng biến thành nơi để xa hoa chơi, những con người ở đây đều biến chất lúc nào cũng chỉ thích ăn chơi rồi bỏ mặc cuộc sống đói khổ của nhân dân ngoài xã hội, người dân đói lăn lóc ra nhưng bên trong này thì ăn chơi chát tang thật đáng lên án cái bọn hại dân bán nước này.

Nghi lễ ở phủ chúa thể hiện một khuôn phép một lối sống của một bậc quyền sang có chúc có quyền và nó đã phản ánh một chế độ độc tài thối nát. Nhưng nghi thức rườm rà, thủ tục làm cho khác ngoài đời nơi đây trở thành nơi ăn chơi nhảy múa của bọn hôn quân bạo chúa. Nó tạo nên một không khí bị ép chặt ngột ngạt, chúng muốn biến nơi đây thành thiên dường để trác tang.

Cái nhìn của tác giả và ngôn ngữ được tác giả thể hiện: những ngôn ngữ mỉa mai, giọng điệu đầy chất châm biếm khi đối diện với khung cảnh đó tác giả dường như choáng ngợp trước quang cảnh nguy nga lộng lẫy ở phủ chúa, đối diện với cuộc sống của nhân dân, không có cơm ăn áo mặc, nhân dân rơi vào lầm than nghèo đói… Lê Hữu Trác là một nhà nho coi thường danh lợi, ông đã lấy cái cá nhân cái cao cả để phản anh một chế độ thối nát xa hoa ăn chơi hưởng lạc.

Người thầy thuốc nhìn thầy cảnh vật ở phủ chúa không phải vì tiền bạc của cải mà chữa bệnh cho thế tử ông đã gạt bỏ đi những định kiến cá nhân để làm tròn trách nhiệm của một vị thầy thuốc, lấy chữa trị cứu người làm nền tảng…qua đó chúng ta cũng đánh giá được phẩm chất cao quý của người thầy thuốc, đã cứu chữa để giúp tính mạng của con người…

Thái độ kê đơn thuốc của tác giả: căn bệnh của thái tử là căn bệnh của người giàu nhưng vì lương y của một vị thày thuốc mà ông đã cứu giúp, ông đã bỏ đi cái hiềm khích cá nhân để cứu sống mạng người, ông không chỉ là một người thầy thuốc giỏi mà ông còn là một người có tấm lòng bao dung nhân hậu.

6. Đặc sắc nghệ thuật được tác giả sử dụng trong bài.

Nghệ thuật: tác giả đã dùng vốn hiểu biết và tài năng của mình để ghi chép lại toàn bộ cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, ghi lại những hình ảnh, sự vật đặc biệt quan trọng để qua đó tố cáo chế độ độc tài thối nát, lối kể chuyện sâu sắc của tác giả đã làm cho người đọc hứng thú với diễn biến câu chuyện. Cả bài là một cuộc sống xa hoa tác giả dã rất thành công trong việc ghi dấu ân đặc biệt bởi những chi tiết rất đặc sắc để lột tả được một cuộc sống xa hoa của phủ chúa, những quan cách và những thủ tục rườm già, mang nặng quyền thế.

Những chi tiết được tác giả miêu tả rất hiện thực qua đó phản ánh một lớp người một tầng lớp thoái chất, phê phán một chế độ tàn ác.

Vũ Hường tổng hợp

Soạn Bài Vào Phủ Chúa Trịnh (Siêu Ngắn)

Soạn bài Vào phủ Chúa Trịnh Tóm tắt

“Vào phủ Chúa Trịnh” thuộc “Thượng Kinh kí sự”, là tác phẩm kí sự của Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông). Đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh” kể lại chuyến vào phủ Chúa để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán của chính tác giả. Qua chuyến đi đó, tác giả đã vẽ lại một bức tranh chân thực và sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời bộc lộ thái độ coi thường danh lợi của bản thân.

Bố cục

– Phần 1 (từ đầu đến “phiền một nỗi là không có dịp”): Khung cảnh xa hoa, quyền quý nơi phủ Chúa hiện lên qua hành trình của Lê Hữu Trác.

– Phần 2 (đoạn còn lại): Lê Hữu Trác bắt mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử.

Câu 1 (trang 9 SGK): Quang cảnh trong phủ chúa được miêu tả như thế nào? Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa ra sao? Những quan sát, ghi nhận này nói lên cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống nơi phủ chúa như thế nào?

– Quang cảnh trong phủ Chúa: xa hoa, tráng lệ.

+ Trong phủ có đủ những loại cây lạ lùng, những hòn đá kì lạ, cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm.

+ Trong phủ rộng, có nhiều dãy nhà lớn, đường đi phức tạp: điếm “Hậu mã quân túc trực”, nhà “Đại đường”, “Quyển bồng”, “Gác tía” hay “phòng trà”.

+ Đồ đạc, cách bài trí trong phủ Chúa đều sang trọng, xa hoa:

→ sơn son thếp vàng, làm bằng vàng, toàn những đồ bài trí nhân gian chưa từng thấy;

→ đồ dùng ăn uống: mâm vàng, chén bạc, những của ngon vật lạ;

→ nơi ở của thế tử cũng bày trí toàn trướng gấm, sập thếp vàng, giá đồng, ghế rồng sơn son thếp vàng, nệm gấm.

– Cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa: nhiều lễ nghi, uy nghiêm, ai nấy cũng cẩn trọng, Chúa và thế tử chính là trời, được trọng vọng, kính sợ.

+ Người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi, ai muốn ra vào cung phải có thẻ.

+ Thị vệ nghiêm cẩn, thận trọng với những người ra vào phủ Chúa.

+ Nhiều phi tần, giai nhân chầu chực quanh thánh thượng.

+ Trước thế tử, ai cũng phải co ro, khúm núm, lạy rồi thưa.

– Những quan sát, ghi nhận này của Lê Hữu Trác thể hiện cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống nơi phủ chúa: Đó là sự choáng ngợp, xa lạ của tác giả trước vẻ xa hoa, quyền quý không một nơi nào trên nhân gian có được.

Câu 2 (trang 9 SGK): Phân tích những chi tiết trong đoạn trích mà anh (chị) cho là “đắt”, có tác dụng làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm.

+ Chi tiết về nơi ở của thế tử: Tối om, không có cửa ngõ, nằm bên trong năm, sáu lần trướng gấm, bày biện hoa nến, người hậu hạ đứng xúm xít.

⇒ Nơi ở của thế tử xa hoa, sang trọng nhưng thực chất như một chiếc bình được đậy kín. Đây là cuộc sống được phong bế, ủ bọc quá mức.

+ Chi tiết về căn bệnh của thế tử: ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm, tạng phủ yếu đi, tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân xanh, tay chân gầy gò.

⇒ Căn bệnh của thế tử chính là sản phẩm, là hệ quả của cuộc sống quá đủ đầy, dư thừa, xa hoa nơi phủ Chúa.

Câu 3 (trang 9 SGK): Cách chẩn đoán và chữa bệnh của Lê Hữu Trác cũng những diễn biến tâm tư của ông khi kê đơn cho ta hiểu gì về người thầy thuốc này?

+ Cách chẩn đoán: Lê Hữu Trác nhận ra ngay nguyên do dẫn đến căn bệnh của thế tử, phương thuốc của ông đưa ra cũng cốt giữ lại thể chất bẩm sinh đã bị héo rũ đi.

+ Diễn biến tâm tư khi kê đơn: phân vân có nên dùng phương thuốc hòa hoãn hay không, cuối cùng Lê Hữu Trác đã chọn cách dốc hết cả lòng thành, lòng trung để chữa bệnh.

⇒ Lê Hữu Trác là con người không màng đến danh lợi, quyền quý, có lòng trung nghĩa.

⇒ Ông khiêm tốn dù rất có danh tiếng.

⇒ Ông còn là vị lương y chân chính, tài giỏi, chuyên chú chữa bệnh cứu người, sẵn sàng chịu trách nhiệm với đơn thuốc của mình kê.

Câu 4 (trang 9 SGK): Theo anh (chị), bút pháp kí sự của tác giả có gì đặc sắc? Phân tích những nét đặc sắc đó.

+ Đậm đặc yếu tố miêu tả:

→ Tác giả miêu tả chi tiết, tường tận những điều trông thấy ở phủ Chúa: giúp khắc họa một bức tranh về cuộc sống nơi đây, gián tiếp thể hiện cách nhìn, thái độ choáng ngợp, “dị ứng” của ông.

+ Giọng văn mang sắc thái trung hòa, không bày tỏ cảm xúc trực tiếp:

→ Không áp đặt bằng những câu từ bình thán ⇒ Tạo nên sự khách quan trong việc miêu tả, đồng thời thể hiện thái độ dửng dưng trước quyền quý, vật chất.

Luyện tập

Câu 1: So sánh đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh với một tác phẩm (hoặc đoạn trích) kí khác của văn học trung đại Việt Nam mà anh (chị) đã đọc và nêu nhận xét về nét đặc sắc của đoạn trích này.

Vào phủ chúa Trịnh Truyện Hồng Bàng Thị (trích Lĩnh Nam Chích Quái)

Tác giả kể lại chuyến hành trình vào phủ Chúa để chữa bệnh cho thế thử của chính mình, qua đó khắc họa cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa đồng thời bày tỏ thái độ xem thường danh lợi, quyền quý.

Truyện lý giải nguồn gốc của người Bách Việt (nghĩa là người Việt ta ngày nay) thông qua câu chuyện của Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhưng với cách kể rất khác so với truyền thuyết dân gian.

Nét đặc sắc của truyện Hồng Bàng thị:

→ Tác giả đã biến một truyền thuyết hư cấu của dân gian thành một câu chuyện có căn cớ lịch sử. Nhân vật Lạc Long Quân và Âu Cơ được gán cho xuất thân rõ ràng hơn.

→ Câu chuyện này đã khẳng định nguồn gốc cao quý của người Việt, ca ngợi ý thức, sự đoàn kết dân tộc.

Ý nghĩa bài học

Đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh mang giá trị hiện thực sâu sắc. Bằng tài quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực, sắc sảo, tác giả đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời bộc lộ thái độ coi thường danh lợi của mình.

Bài giảng: Vào phủ Chúa Trịnh – Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k4: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Soạn Bài Vào Phủ Chúa Trịnh (Lê Hữu Trác

– Quan sát bên trong: bày những đồ sang trọng, tiện nghi: kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng rồi những đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là “mâm vàng, chén bạc”. Trong nội cung thế tử cũng vậy: Phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm, màn che ngang sân, “xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”.

– Người ngoài không được phép thấy mặt chúa. Những mệnh lệnh của chúa đểu được phán bảo qua quan Chánh đường hoặc người truyền mệnh. Thầy thuốc xem bệnh xong phải viết tờ khải để quan Chánh đường dâng lên chúa. Nội cung trang nghiêm đến nỗi vị thầy thuốc cũng phải “nín thở” khi đứng chờ ở xa và “khúm núm” khi đến trước sập để xem mạch cho thế tử.

– Thế tử ốm và lúc nào cũng có đến bảy, tám thầy thuốc phục dịch. Thế tử tuy nhỏ tuổi nhưng khi vào thăm bệnh, người thầy thuốc đểu phải cúi lạy cung kính, lễ phép. Muốn làm gì cho thế tử cũng phải xin phép ngay cả việc cởi y phục để xem bệnh.

c. Cách nhìn của tác giả:

– Tác giả không bộc lộ thát độ một cách gián tiếp thông qua việc chọn chi tiết để kể và tả, đôi lúc xen vào lời nhận xét khách quan:

+ Ông nhận xét cảnh xa hoa, lộng lẫy tấp nập ở phủ chúa “khác hẳn người thường” đến mức không tưởng tượng nổi, “khác nào ngư phủ đào nguyên thưa nào”.

+ Được mời ăn cơm: tác giả nhận xét “toàn của ngon vật lạ”

Câu 2. Phân tích những chi tiết trong đoạn trích mà anh (chị) cho là “đắt”, có tác dụng làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm.

– Trong đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh có nhiều chi tiết nghệ thuật đặc sắc, vừa là chi tiết đắt giá vừa thể hiện nổi bật nội dung hiện thực của tác phẩm. Đó là những chi tiết đối lập như: thế tử – mội đứa bé – ngồi chễm chệ trên sập vàng cho thầy thuốc – một cụ già – quỳ lạy. Để rồi “ngài” cười và ban một lời khen “rất trẻ con”: “Ông này lạy khéo!”. Hoặc ở một chi tiết khác khi tác giả đi vào nơi ở của thế tử để xem mạch: “Đột nhiên thấy ông ta (quan Chánh đường) mở một chỗ trong màn gấm rồi bước vào. Ở trong tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả. Đi qua độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy…”.

– Bên cạnh đó còn rất nhiều chi tiết hay khác như: chi tiết miêu tả nơi “Thánh thượng đang ngự” (“có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít. Đèn sáp chiếu sáng làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”), rồi chi tiết miêu tả những dụng cụ dùng để ăn uống, những món ăn khi quan Chánh đường mời thầy thuốc dùng bữa sáng,..

Câu 3. Cách chẩn đoán và chữa bệnh của Lê Hữu Trác cùng những diễn biến tâm tư của ông khi kê đơn cho ta hiểu gì về người thầy thuốc này?

Cách chẩn đoán và chữ bệnh của Lê Hữu Trác cùng những diễn biến tâm tư của ông khi kê đơn cho ta hiểu nhiều điều về người thầy thuốc có phẩm chất đáng quý:

– Đứng trước cảnh xa hoa lộng lẫy, tấp nập người hầu kẻ hạ nơi phủ chúa, tác giả nhận xét: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa khác hẳn người thường”. Trước cảnh ấy, tác giả đã vịnh một bài thơ tả hết cái sang trọng, vương giả nơi phủ chúa. Trong đó có câu: “Cả trời Nam sang nhất là đây!”.

– Khi được mời ăn cơm sáng, tác giả đã khéo léo bày tỏ nhận xét: “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.

– Nói về bệnh trạng của thế tử, tác giả nhận xét: “Vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”.

– Tác giả dửng dưng trước những quyến rũ vật chất, đồng thời có những biểu hiện chứng tỏ thái độ không đồng tình với cuộc sống tuy quá no đủ và tiện nghi nhưng lại thiếu khí trời và không khí tự do.

– Không chữa khỏi ngay cho thế tử vì sợ bị chúa giữ lại, lúc ấy sẽ bị trói buộc bởi danh lợi. Nhưng nó lại làm ông day dứt vì đó là hành động trái với y đức. Hai ý nghĩ giằng co làm ông khó xử. Cuối cùng ông chọn lương tâm, phẩm giá của người thầy thuốc.

+ Tác giả là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm, có kiến thức sâu và rộng.

+ Bên cạnh tài năng, ông còn là một người thầy giàu y đức.

+ Trên cả những điều đó là một thái độ coi thường danh lợi, yêu thích nếp sống tự do, thanh đạm ở quê nhà. Quan điểm này tất nhiên cũng gián tiếp cho thấy, tác giả không đồng tình với lối sống xa hoa của những người nắm giữ trọng trách quốc gia.

Câu 4. Theo anh (chị), bút pháp kí sự của tác giả có gì đặc sắc? Phân tích những nét đặc sắc đó.

Bút pháp kí sự đặc sắc trong nghệ thuật viết kí sự của nhà văn được bộc lộ ở những điểm sau:

– Sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế và sắc sảo; bút pháp tả cảnh sinh động.

– Nội dung ghi chép trung thực.

– Kể diễn biến sự việc khéo léo, lôi cuốn, hấp dẫn, đặc biệt là những chi tiết nhỏ có tính chất tạo nên cái thần của cảnh và việc.

– Giọng điệu châm biếm, phê phán một cách nhẹ nhàng, kín đáo.

– Kết hợp tự sự, miêu tả và biểu cảm tạo sức hút, tăng giá trị hiện thực, gây ấn tượng sâu sắc về cảnh và người nơi phủ chúa.

So sánh đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh với một tác phẩm (hoặc đoạn trích) kí khác của văn học trung đại Việt Nam mà anh (chị) đã đọc và nêu nhận xét về nét đặc sắc của đoạn trích này?

– Điểm chung: kể về người thật, việc thật, đề cao giá trị hiện thực và thái độ của nhà văn trước hiện thực ấy.

– Điểm riêng: Tuy nhiên mỗi tuỳ bút lại có sự khác nhau trong cách bộc lộ thái độ của nhà văn trước hiện thực (trực tiếp hay gián tiếp, rõ ràng hay kín đáo,…); khác nhau trong việc lựa chọn các chi tiết nghệ thuật, cũng như cách thể hiện nghệ thuật.

– So sánh Thượng kinh kí sự với Vũ trung tuy bút của Phạm Đình Hổ (một tác phẩm cùng thời) hoặc với Nhật kí ĐặngThuỳ Trâm (một tác phẩm kí thời hiện đại)

Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Vào Phủ Chúa Trịnh Chi Tiết trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!