Xu Hướng 12/2023 # Soạn Văn Lớp 11 Bài Tràng Giang Ngắn Gọn Hay Nhất # Top 17 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Soạn Văn Lớp 11 Bài Tràng Giang Ngắn Gọn Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Soạn văn lớp 11 bài Tràng Giang ngắn gọn hay nhất : Câu 2 (trang 30 SGK Ngữ văn 11 tập 2) Nêu cảm nghĩ về âm điệu chung của toàn bài thơ. Câu 3 (trang 30 SGK Ngữ văn 11 tập 2) Vì sao nói bức tranh thiên nhiên trong bài thơ in đậm màu sắc cổ điển mà vẫn gần gũi, thân thuộc? Câu 4 (trang 30 SGK Ngữ văn 11 tập 2) Tình yêu thiên nhiên ở đây có thấm đượm lòng yêu nước thầm kín không? Vì sao?

Câu 1 (trang 30 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Anh (chị) hiểu thế nào về câu thơ đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài? Đề từ đó có mối liên hệ gì với bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của tác giả trong bài thơ?

Câu 2 (trang 30 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Nêu cảm nghĩ về âm điệu chung của toàn bài thơ.

Câu 3 (trang 30 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Vì sao nói bức tranh thiên nhiên trong bài thơ in đậm màu sắc cổ điển mà vẫn gần gũi, thân thuộc?

Câu 4 (trang 30 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Tình yêu thiên nhiên ở đây có thấm đượm lòng yêu nước thầm kín không? Vì sao?

Câu 5 (trang 30 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Phân tích những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ (thể thơ thất ngôn, thủ pháp tương phản, các từ láy, các biện pháp tu từ,…)

Sách giải soạn văn lớp 11 bài Tràng Giang

Lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài

– Bâng khuâng: thể hiện được nỗi lòng của nhà thơ, thấy mênh mông, vô định, khó tả nổi cảm xúc trước không gian rộng lớn

– Trời rộng, được nhân hóa “nhớ sông dài” cũng chính là ẩn dụ nỗi nhớ của nhà thơ

– Tràng Giang thể hiện, triển khai tập trung cảm hứng ở câu đề từ

– Âm điệu chung của bài thơ: buồn, bâng khuâng, man mác da diết, sầu lặng.

+ Cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến, trầm buồn trước mênh mông sóng nước, cuộc đời

– Nhịp thơ ¾ tạo âm điệu đều đều, trầm buồn như sóng biển trên sông

Sự luân phiên BB/ TT/ BB- TT/ BB/ TT có nhiều biến điệu trong khi sử dụng nhiều từ láy nguyên với sự lặp lại đều đặn tạo âm hưởng trôi chảy triền miên cùng nỗi buồn vô tận trong cảnh và hồn người.

Bài thơ tạo nên bức tranh thiên nhiên cổ kính, hoang sơ:

+ Không gian: mênh mông, bao la, rộng mở

+ Cảnh vật hiu quạnh,hoang vắng, đơn lẻ, hiu hắt buồn

+ Cổ kính, trang nghiêm, đậm chất Đường Thi

Các hình ảnh cổ: thuyền, nước, nắng, sông dài, trời rộng, bóng chiều, khói hoàng hôn…

+ Tràng Giang vẫn chưa nét mới, nét hấp dẫn của thơ hiện đại: âm thanh tự nhiên, âm thanh cuộc sống bình dị, mộc mạc được đưa vào thơ

– Sự hòa quyện, đan cài giữa chất cổ điển, sự gần gũi, thân thuộc tạo cho bài thơ vẻ đẹp độc đáo, đơn sơ mà tinh tế, cổ điển mà hiện đại

Huy Cận thể hiện nỗi buồn trong cảnh nước nhà mất chủ quyền, vì thế ông bơ vơ trước thiên nhiên hoang vắng, niềm tha thiết với tự nhiên, cảnh vật cũng theo đó nhuốm buồn

– Niềm tha thiết với thiên nhiên, tạo vật cũng là niềm thiết tha với quê hương, đất nước

Thực tế, ở phương diện nào đó Tràng giang là bài thơ thể hiện tình yêu đất nước, non sông

– Nỗi buồn trước cảnh mất nước được hòa quyện trong cảnh vật của tự nhiên,

Thông qua việc miêu tả cảnh vật, ông gián tiếp thể hiện tấm lòng yêu nước và nỗi buồn của mình

Tràng Giang có nhiều đặc sắc về nghệ thuật:

– Thể thơ thất ngôn trang nghiêm, cổ kính, với cách ngắt nhịp quen thuộc tạo nên sự hài hòa

– Thủ pháp tương phản được sử dụng triệt để: hữu hạn/ vô hạn; nhỏ bé/ lớn lao, không/ có…

– Sử dụng đa dạng các kiểu từ láy: láy âm (Tràng Giang, đìu hiu, chót vót…) láy hoàn toàn (điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn…)

– Linh hoạt các biện pháp tu từ: hữu hạn/ vô hạn, nhỏ bé/ lớn, không/ có…

Câu hỏi Phần Luyện Tập bài Tràng Giang lớp 11 tập 2 trang 30

Câu 1 (trang 30 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Cách cảm nhận về không gian và thời gian trong bài thơ này có gì đáng chú ý?

Câu 2 (trang 30 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Vì sao câu thơ cuối Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà lại làm cho người đọc liên tưởng đến hai câu thơ trong bài Lầu Hoàng Hạc của Thôi Hiệu?

Sách giải soạn văn lớp 11 bài Phần Luyện Tập Trả lời câu 1 soạn văn bài Phần Luyện Tập trang 30

Tràng Giang khắc họa không gian rộng lớn của sóng, nước, sông chảy về vô tận

+ Không gian được mở rộng theo nhiều chiều, lan tỏa sang đôi bờ

+ Chiều thứ ba của không gian vũ trụ mở với bầu trời sâu chót vót

+ Cả ba chiều của không gian nỗi buồn, nỗi cô đơn như không có giới hạn

– Nhà thơ mang nặng nỗi sầu nhân thế và nỗi cô đơn của chính mình.

+ Tràng Giang của trời đất, của tâm tưởng nhà thơ không những xuôi theo dòng nước còn xuôi từ hiện tại về quá khứ

– Nhà thơ trở về hiện tại để tìm điểm tựa tinh thần ở quê hương, đất nước.

– Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật ở Tràng Giang góp phần vào việc thể hiện sâu sắc, tình cảm và tư tưởng của tác giả.

Trả lời câu 2 soạn văn bài Phần Luyện Tập trang 30

Trong câu thơ ” Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” của Huy Cận gợi nhớ tới câu thơ trong bài Hoàng Hạc Lâu bởi:

+ Cả hai tác giả đều viết về khói sóng buổi hoàng hôn, cùng với nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng lạ có sự khác biệt tiêu biểu cho thơ cũ, thơ cổ điển, thơ mới, thơ hiện đại

+ Thơ cũ, tả cảnh ngụ tình, gợi tâm trạng. Thơ mới, thơ của cái tôi với nỗi sầu nhân thế, cái sầu nội tâm không cần mượn tới ngoại cảnh vẫn có thể thể hiện được những cung bậc cảm xúc đa chiều.

Tags: soạn văn lớp 11, soạn văn lớp 11 tập 2, giải ngữ văn lớp 11 tập 2, soạn văn lớp 11 bài Tràng Giang ngắn gọn , soạn văn lớp 11 bài Tràng Giang siêu ngắn

Soạn Bài Tràng Giang Lớp 11 Ngắn Gọn

Hướng dẫn các bạn soạn bài Tràng Giang của Huy Cận trong chương trình sách giáo khoa Văn lớp 11 ngắn gọn đơn giản

Tràng Giang là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Huy Cận

Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, quê ở Hà Tĩnh. Ông tham gia rất nhiều trong chính quyền cách mạng, giữ nhiều trọng trách khác nhau. Ông là một trong những tác giả xuất sắc của phong trào thơ mới. thơ Huy Cận rất triết lí, giàu chất suy tưởng và hàm súc. Tràng Giang là một trong những bài hay nhất của Huy Cận. bài thơ được viết để nêu lên sự mênh mang của sông nước sông Hồng. chúng ta cùng đi tìm hiểu bài này.

Câu 1: anh chị hiểu thế nào về câu thơ đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài? Đề từ đó có mối liên hệ gì với bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của tác giả trong bài thơ? Câu đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài thể hiện sự bang khuâng của tác giả trước cảnh sông nước sông Hồng. đồng thời thể hiện nỗi nhớ của tác giả, hình ảnh ẩn dụ, thể hiện nỗi nhớ dài như dòng sông. Đề từ đó có mối liên hệ chặt chẽ với bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của tác giả trong bài thơ.

Câu 2: nêu cảm về âm điệu chung của toàn bài thơ.Âm điệu chung của bài thơ là âm điệu buồn man mác, bâng khuâng, lặng lẽ sâu lắng da diết, sầu lặng. xuyên suốt bài thơ là âm điệu buồn – đều đều, dịu dàng như sông nước ở trên sông, vừa đồng thời thể hiện âm điệu trong lòng thi nhân khi đứng trước cảnh Tràng Giang lúc chiều xuống. Nhịp thơ của bài là 3 – 4 tạo ra âm điệu đều đều. Âm điệu tựa như dập dềnh trên sông và sóng biển. Sự luân phiên BB/ TT/ BB – TT/ BB/ TT trong suốt bài thơ, có sử dụng từ láy và có sự lặp âm, nhịp điệu đều đều.

Câu 3: vì sao nói bức tranh thiên nhiên trong bài thơ đậm màu sắc cổ điển mà vẫn gần gũi, thân thuộc? Nói bức tranh thiên nhiên trong bài thơ đậm màu sắc cổ điển mà vẫn gần gũi, thân thuộc vì tác giả thể hiện rõ không gian và thời gian trong bài thơ vô cùng chi tiết. không gian rất bao la, rộng lớn, còn thời gian thì hiu quạnh. Bên cạnh sự cổ kính trang trọng thì tác giả đưa các hình ảnh con sông, bến nước rất gần gũi với con người vào trong bài thơ.

Câu 4: tình yêu thiên nhiên ở đây thấm được tìm yêu nước thầm kín không? Vì sai?Tình yêu thiên nhiên ở đây thấm được tìm yêu nước thầm kín. Vì bài thơ thể hiện sự đau thương, buồn bã khi đất nước mất chủ quyền như nỗi buồn của tác giả trước cảnh sông nước bao la rộng lớn. Bài thơ thể hiện tình yêu nước mãnh liệt, sự khao khát hòa bình tự do, độc lập và hoàn toàn thắng lợi của một nhà văn yêu nước.

Câu 5: phân tích đặc sắc nghệ thuật của bài thơ( thể thơ thất ngôn, thủ pháp tương phản, các từ láy, các biện pháp tu từ,…)– Thể thơ thất ngôn sang tạo, trang nghiêm – Thủ pháp tương phản được sử dụng đúng đắn – Các từ láy được sử dụng như từ láy âm, từ láy hoàn toàn – Các biện pháp tu từ như ẩn dụ, nhân hóa, so sánh,….

Soạn Văn 11 Ngắn Nhất Bài: Tràng Giang

Câu 1: Anh (chị) hiểu thế nào về câu thơ đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài? Đề từ đó có mối liên hệ gì với bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của tác giả trong bài thơ?

Câu 2: Nêu cảm nghĩ về âm điệu chung của toàn bài thơ.

Câu 3: Vì sao nói bức tranh thiên nhiên trong bài thơ đậm màu sắc cổ điển mà vẫn gần gũi, thân thuộc?

Câu 4: Tình yêu thiên nhiên ở đây có thấm đượm lòng yêu nước thầm kín không? Vì sao?

Câu 5: Phân tích những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ.

Luyện tập

Câu 1: Cách cảm nhận không gian và thời gian của bài thơ có gì đáng chú ý?

Câu 2: Vì sao câu thơ cuối “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” lại làm cho người đọc liên tưởng đến hai câu thơ trong bài “Lầu Hoàng Hạc” của Thôi Hiệu?

Câu 2: Nhà thơ Huy Cận đã từng viết: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.”

Em hãy làm rõ điều này thông qua việc phân tích tác phẩm “Tràng giang” của Huy Cận

Câu 3: Bức tranh tâm trạng trong bài thơ “Tràng giang”

Câu 1: Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”:

“bâng khuâng” thể hiện được nỗi niềm của nhà thơ là cảm giác buồn sầu trước dòng sông rộng lớn. “

Trời rộng” được nhân hóa nhớ sông dài hay chính là ẩn dụ cho nỗi nhớ của nhà thơ

Mối lên hệ với bức tranh thiên nhiên và tâm trạng nhà thơ:

Định hướng cảm xúc chủ đạo của bài thơ nỗi buồn sầu lan tỏa, nhẹ nhàng mà sâu lắng.

Tạo nên vẻ đẹp hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại của chàng thanh niên thời thơ mới.

Câu 2: Cảm nghĩ về âm điệu chung của toàn bài thơ:

Âm điệu buồn lặng lẽ, bâng khuâng, man mác da diết, sầu lặng – đều đều, dập dềnh như sông nước

Nhịp thơ 2/2/3 tạo ra âm điệu đều đều, tựa như dập dềnh trên sông và sóng biển

Thanh điệu có sự hoán vị bằng trắc đều đặn, cấu trúc đăng đối giữa các câu thơ tạo ra cảm giác mênh mông của dòng sông,cùng với đó là vị buồn man mác.

Câu 3: Bức tranh thiên nhiên:

Không gian : mênh mông, bao la, rộng lớn. Thể hiện qua các từ ngữ “trời rộng”, “sông dài”.

Cảnh vật hiu quạnh, hoang vắng, đơn lẻ, hiu hắt buồn.

Hình ảnh mang đậm sắc màu cổ điển

Câu 4: Tình yêu thiên nhiên ở đây có thấm đượm lòng yêu nước thầm kín, bởi vì:

” Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Những hình ảnh ước lệ, cổ điển như: mây, chim tạo nên một bức tranh chiều tà đẹp, hùng vĩ và vô cùng thơ mộng.

Nhưng câu thơ mang đến cho người đọc những cảm giác thân thuộc, gần gũi để rồi từ những cảnh quê ấy mà nói đến tình yêu và nỗi nhớ quê trong hai câu thơ sau.

Huy Cận không cần đến thiên nhiên, tạo vật mà nó tìm ẩn và bộc phát tự nhiên.

Câu 5: Nghệ thuật đặc sắc của bài thơ:

Kết hợp hài hòa những thi liệu mang nét cổ điển của văn học cổ điện với văn học hiện đại.

Nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm.

Cách ngắt nhịp 2/2/3 tạo nên những âm điệu buồn, man mác thể hiện rõ nét tâm trạng bâng khuâng của nhà thơ.

Thể thơ thất ngôn: tạo nên không khí trầm mặc, cổ kính của thơ đường.

Luyện tập

Câu 1: Cách cảm nhận không gian và thời gian của bài thơ:

Cảm nhận không gian:

Mang cảm hứng vũ trụ (qua câu đề từ) mang cảm giác bao la, rộng lớn.

Không gian ba chiều xuất hiện trong thơ (khổ 2)

Không gian buồn, hiu hắt, con sông không bóng người (Khổ 3)

Không gian vừa hùng vĩ, vừa cô đơn (khổ cuối)

Cảm nhận thời gian:

Vào buổi chiều tà

Thời gian vừa cụ thể, vừa gợi cảm lại thể hiện đúng tâm trạng buồn hiu hắt tác giả.

Câu 2: Câu thơ cuối “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” lại làm cho người đọc liên tưởng đến hai câu thơ trong bài “Lầu Hoàng Hạc” của Thôi Hiệu vì Huy Cận có mượn ý thơ của Thôi Hiệu:

Trong thơ Thôi Hiệu: có khói và sóng là những hình ảnh thiên nhiên thì mới gợi lên nỗi nhớ nhà

Trong thơ Xuân Diệu: những hình ảnh thiên nhiên đó luôn thường trực và tự nhiên bộc phát cho nên nỗi nhớ của Huy Cận da diết và sâu lắng hơn

Bài viết tham khảo

Từ năm 1930, văn học Việt Nam bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ với sự xuất hiện của làn sóng thơ mới cùng những cá tính sáng tác độc đáo. Các nhà thơ say sưa thể hiện cái tôi cá nhân và không còn bị gò bó trong khuôn sáo cũ kĩ của văn thơ trung đại. Nếu Xuân Diệu luôn mang trong mình nỗi ám ảnh về thời gian thì người bạn tri kỉ của ông, Huy Cận lại luôn chìm đắm trong cảm thức về không gian vũ trụ. Huy Cận tỏ ra rất nhạy cảm với không gian rộng lớn và thời gian vĩnh hằng. Những điều ấy được thể hiện rõ nét trong “Tràng giang”, một trong những bài thơ xuất sắc nhất của ông.

Vào khoảng những năm 1939, Huy Cận theo học tại một trường ở Hà Nội. Ông có thói quen đạp xe dọc đê vào mỗi buổi chiều thứ bảy để hóng gió và ngắm cảnh sông Hồng. Bài “Tràng giang” ra đời trong một buổi chiều như thế. Đứng ở bãi Chèm, nhìn cảnh sông nước mênh mông, nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu lo, thương cảm về đất nước về kiếp người cuộn tràn trong tâm trí nhà thơ. Ngay hôm ấy ông đã cho ra đời một bài thơ lục bát, lấy tiêu đề là “Chiều trên sông”. Sau này, Huy Cận đổi tên thành “Tràng giang” và viết lại theo thể thất ngôn tự do, in trong tập Lửa thiêng.

Nhan đề “Tràng giang” là từ Hán – Việt gợi lên sắc thái trang trọng và cổ kính. Điệp vần “ang” tạo ấn tượng về một dòng sông rộng lớn, mênh mang, vô tận. Chỉ qua nhan đề, tác giả không chỉ gợi được chiều dài mà còn cả chiều rộng và chiều sâu của dòng sông.

Câu thơ đề từ mở ra một không gian rộng lớn mang tầm vũ trụ: có chiều rộng bát ngát của bầu trời, chiều dài vô tận của dòng chảy, chiều cao giữa trời và nước. Chính giữa không gian rợn ngợp như thế làm con người ta cảm thấy cô đơn, nhỏ nhoi, nhung nhớ một điều gì đó xa xôi

Khổ thơ thứ nhất là nét bút chấm phá vẽ lên bức tranh sông nước rộng mênh mang nhưng buồn vắng. “Sóng và thuyền” không có gì đáng buồn nhưng chính cụm từ “buồn điệp điệp” đã làm cho cảnh trở nên mênh mông và xa vắng. Từ “điệp điệp” từ xưa đến nay thường dùng để hình dung, miêu tả những hình ảnh thiên nhiên như sóng, núi giờ đây được Huy Cận dùng để nói về nỗi buồn. Điều này làm cho nỗi buồn không còn vô hình mà trở nên hữu hình, cụ thể. Đó là nỗi buồn dai dẳng, triền miên, thường trực trong tâm trí. Câu thơ đã bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đứng trước cảnh trời rộng sông dài. Câu thơ mang âm hưởng cổ kính của thơ Đường với nghệ thuật đối từ, đối ý: sóng – thuyền; điệp điệp – song song. Tuy vậy, xét đến cùng, sức mạnh của hai câu thơ đầu tiên không phải ở nghệ thuật miêu tả mà ở nghệ thuật khơi gợi – khơi gợi được cả cảm xúc và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang) và thời gian (điệp điệp).

Đến khổ thơ thứ hai, dường như nỗi buồn vắng, đìu hiu càng lan tỏa và thấm sâu. Đến hai câu thơ này, không gian như được mở rộng ra cả ba chiều. Từ “cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời, nó thuần tuý tả cảnh; còn từ “sâu” vừa tả cảnh vừa tả tình và hàm súc hơn. Huy Cận đã giải thích về cụm từ “sâu chót vót” như thế này: “Từng vạt nắng từ trên cao rơi xuống tạo nên một khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tôi dùng chữ “sâu” chứ không dùng chữ “cao”, bởi vì “cao chót vót” thì thường quá. Ở đây không gian được mở ra ba chiều….tạo nên một vũ trụ rộng lớn và thể hiện một nỗi buồn tưởng như vô tận”.(Về bài thơ “Tràng giang” – Huy Cận)

Trong mạch cảm xúc gợi ra từ hai khổ đầu ấy, sang đến khổ 3, nỗi buồn càng được khắc sâu hơn. Trên khung cảnh vắng lặng một cách tuyệt đối ấy chỉ có. Ở câu thơ thứ nhất, ta thấy xuất hiện 1 hình ảnh rất quen thuộc, đó là hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Ta thấy trong ca dao, dân ca, và thơ trung đại hình ảnh cánh bèo cũng hay được sử dụng khi nói về thân phận người phụ nữ: “Thân em như lá bèo trôi”, “Nghĩ mình mặt nước cánh bèo/ Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân”,…

Hình ảnh ẩn dụ những cánh bèo không biết trôi dạt về đâu và những bờ xanh bãi vàng nối tiếp nhau lặng lẽ gợi cho người đọc liên tưởng đến thân phận nhỏ bé của con người trong xã hội. Cùng với hình ảnh cành củi khô lạc mấy dòng ở khổ một, nó cho thấy sự hoang mang của Huy Cận trong việc tìm ra con đường đi cho mình. Đứng trước cảnh vũ trụ cao rộng và hoang vắng ấy con người càng rợn ngợp trong nỗi cô đơn triền miên.

Toàn cảnh sông dài, trời rộng mà tuyệt nhiên không có bóng dáng con người. Ngay đến những vật để nối đôi bờ như cầu, như đò cũng chẳng có (“Không một chuyến đò”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”), mà chỉ có thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên. Không có cầu, là không có sự trao đổi, không tìm thấy dù chỉ một chút niềm thân mật của tình người. Ta thấy, nhân vật trữ tình ở đây không chỉ cô đơn khi đứng trước thiên nhiên rợn ngợp, mà còn cô đơn trong chính xã hội mà ở đó, con người chán nản vì mất đi chủ quyền, tự giam hãm bản thân mà không có sự giao lưu, chia sẻ với nhau.Vì thế, nỗi buồn của bài thơ không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế

Sang đến khổ thơ thứ tư. Trong văn chương Việt Nam cánh chim là một thi tứ quen thuộc để miêu tả buổi chiều. Nhưng trong “Tràng giang”, dường như cánh chim ấy có phần nhỏ bé và cô đơn hơn bởi nhà thơ đã đặt nó trong một không gian rộng lớn và bao la của vũ trụ. Cánh chim nhỏ là biểu hiện của sự sống và khát vọng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nó vẫn không làm cho không gian vơi đi niềm quạnh vắng. Cánh chim nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la.

“Dợn dợn” là từ láy vô cùng sáng tạo, gợi cảm giác về một nỗi buồn miên man, vô hạn. Nếu ở “Hoàng Hạc lâu”, Thôi Hiệu cần mượn khói sóng để bộc lộ nỗi nhớ quê hương thì ở đây, Huy Cận “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Có thể thấy, nỗi nhớ dường như trở nên thường trực và cháy bỏng hơn.

Như vậy, đi suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn của bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà thơ mới trong những năm thời thuộc Pháp. Về nội dung, bài thơ đem đến người đọc bức tranh thiên nhiên sông nước gần gũi quen thuộc nhưng vắng lặng và bức tranh tâm trạng mang trĩu nặng nỗi sầu. Cùng với đó là niềm khát khao giao cảm với cuộc đời, lòng yêu nước tuy thầm kín nhưng không kém phần thiết tha của nhà thơ. Về nghệ thuật, bài thơ đặc sắc ở chỗ nó có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và hiện đại. Cổ kính, trang nghiêm, đậm chất Đường thi nhưng “Tràng giang” vẫn là bài thơ mang nét hiện đại khi sử dụng những hình ảnh gần gũi, tầm thường để qua đó bộc lộ cảm xúc, nỗi niềm của nhân vật trữ tình. Đây cũng là nét độc đáo điển hình trong phong cách thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.

Câu 2: Nhà thơ Huy Cận đã từng viết: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.”

Em hãy làm rõ điều này thông qua việc phân tích tác phẩm “Tràng giang” của Huy Cận.

Bài viết tham khảo

Thơ Huy Cận sau Cách mạng Tháng Tám là một hồn thơ dạt dào nhựa sống thời đại, nó mang dấu ấn từ truyền thống dân tộc đến những tầng sâu văn hóa của đời sống con người Việt chúng tôi nhìn về bản thân thời trẻ, Huy Cận từng viết: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.” Và nỗi sầu của Huy Cận đã được nhà thơ thể hiện vô cùng tha thiết thông qua tác phẩm “Tràng giang”.

Nói về cảm hứng viết nên bài thơ “Tràng giang”, Huy Cận chia sẻ rằng vào khoảng những năm 1939, Huy Cận theo học tại một trường ở Hà Nội. Ông có thói quen đạp xe dọc đê vào mỗi buổi chiều thứ bảy để hóng gió và ngắm cảnh sông Hồng. Bài “Tràng giang” ra đời trong một buổi chiều như thế. Đứng ở bãi Chèm, nhìn cảnh sông nước mênh mông, nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu lo, thương cảm về đất nước về kiếp người cuộn tràn trong tâm trí nhà thơ. Ngay hôm ấy ông đã cho ra đời một bài thơ lục bát, lấy tiêu đề là “Chiều trên sông”. Sau này, Huy Cận đổi tên thành “Tràng giang” và viết lại theo thể thất ngôn tự do, in trong tập Lửa thiêng.

Câu thơ đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã dẫn dắt ta vào bài thơ, cũng là dẫn dắt vào nỗi buồn mênh mang theo chiều không gian rộng lớn của dòng sông.

Khổ thơ thứ nhất là nét bút chấm phá vẽ lên bức tranh sông nước rộng mênh mang nhưng buồn vắng “Sóng và thuyền” không có gì đáng buồn nhưng chính cụm từ “buồn điệp điệp” đã làm cho cảnh trở nên mênh mông và xa vắng. Từ “điệp điệp” từ xưa đến nay thường dùng để hình dung, miêu tả những hình ảnh thiên nhiên như sóng, núi giờ đây được Huy Cận dùng để nói về nỗi buồn. Điều này làm cho nỗi buồn không còn vô hình mà trở nên hữu hình, cụ thể. Đó là nỗi buồn dai dẳng, triền miên, thường trực trong tâm trí. Câu thơ đã bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đứng trước cảnh trời rộng sông dài. Câu thơ mang âm hưởng cổ kính của thơ Đường với nghệ thuật đối từ, đối ý: sóng – thuyền; điệp điệp – song song. Tuy vậy, xét đến cùng, sức mạnh của hai câu thơ đầu tiên không phải ở nghệ thuật miêu tả mà ở nghệ thuật khơi gợi – khơi gợi được cả cảm xúc và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang) và thời gian (điệp điệp).

Nếu như các phép đối ý, đối xứng cùng với các thi liệu, hình ảnh quen thuộc như con thuyền, sóng nước làm cho khổ thơ phảng phất hương vị cổ điển của Đường thi thì việc xuất hiện hình ảnh một cành củi khô nhỏ nhoi, tầm thường ở câu thứ tư đã thổi vào làn gió mới, khẳng định rằng đây là một bài thơ Mới. Bởi ở văn thơ trung đại, khi sáng tác, người ta chỉ tập trung nói đến những hình ảnh trang nhã, đẹp đẽ như tùng, cúc, trúc, mai, trăng, gió… chứ không đề cập tới những hình ảnh dân dã, tầm thường như cành củi khô. Sự đối lập giữa cành củi khô và dòng sông làm người đọc liên tưởng đến thân phận con người trong xã hội đương thời. Có thể thấy nỗi buồn của Huy Cận ở đây không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà đó là nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên không tìm ra lối thoát cho đời mình. Đồng thời, chỉ thông qua khổ thơ thứ nhất, chúng ta cũng đã thấy được phần nào nét cổ điển cũng như hiện đại trong thơ Huy Cận.

Đến khổ thơ thứ hai, dường như nỗi buồn vắng, đìu hiu càng lan tỏa và thấm sâu.

Hơn nữa, cặp từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” càng gợi lên sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn của không gian vũ trụ. Câu “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” xưa nay vẫn tồn tại hai cách hiểu xuất phát từ cách hiểu từ “đâu” (có và không có tiếng chợ chiều). Tuy vậy, dẫu hiểu theo cách nào thì hình ảnh chợ chiều đã vãn trong câu thơ cũng gợi thêm một nét buồn vắng, thê lương cho cảnh sắc.

Đến hai câu thơ này, không gian như được mở rộng ra cả ba chiều. Từ “cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời, nó thuần tuý tả cảnh; còn từ “sâu” vừa tả cảnh vừa tả tình và hàm súc hơn. Huy Cận đã giải thích về cụm từ “sâu chót vót” như thế này: “Từng vạt nắng từ trên cao rơi xuống tạo nên một khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tôi dùng chữ “sâu” chứ không dùng chữ “cao”, bởi vì “cao chót vót” thì thường quá. Ở đây không gian được mở ra ba chiều….tạo nên một vũ trụ rộng lớn và thể hiện một nỗi buồn tưởng như vô tận” (Về bài thơ “Tràng giang” – Huy Cận)

Tính từ “chót vót” tô đậm thêm cảm giác mênh mông của vũ trụ. Đứng trước khung cảnh ấy con người dường như nhỏ bé và cảm thấy cô liêu. Hai câu thơ thể hiện cuộc sống quạnh quẽ trong xã hội đương thời mà mỗi người là một ốc đảo hoang vắng cô liêu.

Trong mạch cảm xúc gợi ra từ hai khổ đầu ấy, sang đến khổ 3, nỗi buồn càng được khắc sâu hơn. Trên khung cảnh vắng lặng một cách tuyệt đối ấy chỉ có:

Ở câu thơ thứ nhất, ta thấy xuất hiện 1 hình ảnh rất quen thuộc, đó là hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Ta thấy trong ca dao, dân ca, và thơ trung đại hình ảnh cánh bèo cũng hay được sử dụng khi nói về thân phận người phụ nữ: “Thân em như lá bèo trôi”, “Nghĩ mình mặt nước cánh bèo/ Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân”,…

Hình ảnh ẩn dụ những cánh bèo không biết trôi dạt về đâu và những bờ xanh bãi vàng nối tiếp nhau lặng lẽ gợi cho người đọc liên tưởng đến thân phận nhỏ bé của con người trong xã hội. Cùng với hình ảnh cành củi khô lạc mấy dòng ở khổ một, nó cho thấy sự hoang mang của Huy Cận trong việc tìm ra con đường đi cho mình.

Đứng trước cảnh vũ trụ cao rộng và hoang vắng ấy con người càng rợn ngợp trong nỗi cô đơn triền miên.

Toàn cảnh sông dài, trời rộng mà tuyệt nhiên không có bóng dáng con người. Ngay đến những vật để nối đôi bờ như cầu, như đò cũng chẳng có (“Không một chuyến đò”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”), mà chỉ có thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên. Không có cầu, là không có sự trao đổi, không tìm thấy dù chỉ một chút niềm thân mật của tình người. Ta thấy, nhân vật trữ tình ở đây không chỉ cô đơn khi đứng trước thiên nhiên rợn ngợp, mà còn cô đơn trong chính xã hội mà ở đó, con người chán nản vì mất đi chủ quyền, tự giam hãm bản thân mà không có sự giao lưu, chia sẻ với nhau.Vì thế, nỗi buồn của bài thơ không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế.

Sang đến khổ thơ thứ tư, nỗi nhớ quê hương của nhà thơ hiện lên trong cảnh thiên nhiên rợn ngợp. Từ “buồn điệp điệp”, “sầu trăm ngả” ở những khổ thơ trên, đến đây nỗi sầu thi sĩ đã dâng lên trùng trùng, “lớp lớp” tràn ngập cả bầu trời. Huy Cận đã mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường để rồi từ đó sáng tạo nên ý thơ của mình. Hình ảnh ước lệ, cổ điển: mây, chim… vẽ lên bức tranh chiều tà đẹp tráng lệ và thơ mộng. “Mây” nhiều, vô số tầng bậc, chữ “đùn” tạo cảm giác áng mây chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Và, trên cảnh mây trời, sông nước buồn vắng nhưng đẹp đẽ, hùng vĩ ấy, đột nhiên xuất hiện con chim “nghiêng cánh” bay như hút lấy nắng hoàng hôn cùng “bóng chiều”, tạo cảm giác như chỉ cần bóng chim khẽ chao nghiêng là cả bóng chiều sẽ sa xuống vậy.

Trong văn chương Việt Nam cánh chim là một thi tứ quen thuộc để miêu tả buổi chiều. Nhưng trong “Tràng giang”, dường như cánh chim ấy có phần nhỏ bé và cô đơn hơn bởi nhà thơ đã đặt nó trong một không gian rộng lớn và bao la của vũ trụ. Cánh chim nhỏ là biểu hiện của sự sống và khát vọng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nó vẫn không làm cho không gian vơi đi niềm quạnh vắng. Cánh chim nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la. “Dợn dợn” là từ láy vô cùng sáng tạo, gợi cảm giác về một nỗi buồn miên man, vô hạn. Nếu ở “Hoàng Hạc lâu”, Thôi Hiệu cần mượn khói sóng để bộc lộ nỗi nhớ quê hương thì ở đây, Huy Cận “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Có thể thấy, nỗi nhớ dường như trở nên thường trực và cháy bỏng hơn.

Cùng là những nhà thơ của phong trào Thơ Mới, nhưng nếu Vội vàng của Xuân Diệu là một thi giới mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn thì “Tràng giang” của Huy Cận lại được các nhà phê bình đánh giá là hồn thơ thuộc về nỗi sầu nhân thế cố hữu, phảng phất âm vị thơ cổ điển. Nỗi sầu ấy tràn ngập trong thơ Huy Cận đến mức, sau này nhìn lại, Huy Cận đã nhìn nhận phong cách của bản thân giai đoạn Trước Cách mạng Tháng Tám rằng: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.”

Câu 3: Bức tranh tâm trạng trong bài thơ “Tràng giang”

Bài viết tham khảo

Từ năm 1930, văn học Việt Nam bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ với sự xuất hiện của làn sóng thơ mới cùng những cá tính sáng tác độc đáo. Các nhà thơ say sưa thể hiện cái tôi cá nhân và không còn bị gò bó trong khuôn sáo cũ kĩ của văn thơ trung đại. Nếu Xuân Diệu luôn mang trong mình nỗi ám ảnh về thời gian thì người bạn tri kỉ của ông, Huy Cận lại luôn chìm đắm trong cảm thức về không gian vũ trụ. Huy Cận tỏ ra rất nhạy cảm với không gian rộng lớn và thời gian vĩnh hằng. Những điều ấy được thể hiện rõ nét trong “Tràng giang”, một trong những bài thơ xuất sắc nhất của ông.

Vào khoảng những năm 1939, Huy Cận theo học tại một trường ở Hà Nội. Ông có thói quen đạp xe dọc đê vào mỗi buổi chiều thứ bảy để hóng gió và ngắm cảnh sông Hồng. Bài “Tràng giang” ra đời trong một buổi chiều như thế. Đứng ở bãi Chèm, nhìn cảnh sông nước mênh mông, nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu lo, thương cảm về đất nước về kiếp người cuộn tràn trong tâm trí nhà thơ. Ngay hôm ấy ông đã cho ra đời một bài thơ lục bát, lấy tiêu đề là “Chiều trên sông”. Sau này, Huy Cận đổi tên thành “Tràng giang” và viết lại theo thể thất ngôn tự do, in trong tập Lửa thiêng.

Có thể thấy rằng chính lời đề từ tuy nằm ngoài bài thơ, nhưng lại đúc kết nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả đó chính là ‘Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Có thể coi cảm xúc trong câu thơ này là nguồn thi hứng để thi sĩ sáng tác nên bài thơ “Tràng giang” bất hủ. Dường như nó cũng đã khiến cho không chỉ “cái tôi trữ tình” nặng trĩu nhớ nhung, mà đất trời sông núi cũng tràn ngập bâng khuâng, nhung nhớ. Có lẽ cái độc đáo của câu thơ này chính là sự giao thoa của cả hai nghĩa ấy. Nhà thơ tài năng Huy Cận đã triển khai cảm hứng nêu ở câu thơ để từ một cách hoàn hảo trong suốt thi phẩm của mình.

Nếu như những câu thơ trên mở ra với hình ảnh những lớp sóng tiếp nối nhau điệp điệp thì ở câu dưới nó lại được đặc tả qua hình ảnh con thuyên xuôi mái theo những luồng nước song song rong ruổi về mãi cuối trời. “Sóng và thuyền” không có gì đáng buồn nhưng chính cụm từ “buồn điệp điệp” đã làm cho cảnh trở nên mênh mông và xa vắng. Từ “điệp điệp” từ xưa đến nay thường dùng để hình dung, miêu tả những hình ảnh thiên nhiên như sóng, núi giờ đây được Huy Cận dùng để nói về nỗi buồn. Điều này làm cho nỗi buồn không còn vô hình mà trở nên hữu hình, cụ thể. Đó là nỗi buồn dai dẳng, triền miên, thường trực trong tâm trí. Câu thơ đã bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đứng trước cảnh trời rộng sông dài.

Sự đối lập giữa cành củi khô và dòng sông làm người đọc liên tưởng đến thân phận con người trong xã hội đương thời. Có thể thấy nỗi buồn của Huy Cận ở đây không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà đó là nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên không tìm ra lối thoát cho đời mình.

Và rồi cho đến khổ thơ thứ hai, bức tranh tràng giang có thêm cảnh, thêm người nhưng nỗi buồn không vơi mà như càng thấm sâu vào cảnh vật. Huy Cận dường như cũng đã tập trung tất cả hình ảnh, nhạc điệu để làm nổi bật lên nỗi buồn thấm thía của con người trước sông dài trời rộng. Có thể thấy rằng nỗi buồn được gợi lên từ mặt nước mênh mông, đôi bờ hoang vắng, từ một cồn nhỏ lơ thơ heo hút, dăm bụi cây phơ phất trong gió lạnh đìu hiu.

Hơn nữa, cặp từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” càng gợi lên sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn của không gian vũ trụ. Từ làng xa vẳng lại tiếng chợ chiều đang vãn, tuy có hơi hướng con người nhưng âm thanh mong manh mơ hồ như từ cõi nào vọng lại làm dấy lên trong lòng lữ khách nỗi khát khao được gặp gỡ và chia sẻ tâm tình.

Có lẽ nỗi buồn đã và đang lan toả ra hết chiều cao, chiều rộng của bến bãi, mặt nước, bầu trời. Ở đây, người đọc bắt gặp những cảm nhận hết sức tinh tế, kì diệu của nhà thơ đó là cách cảm nhận về độ cao, độ sâu đến rợn ngợp của bầu trời và khoảng cách vô tận giữa trời và nước. Cách dùng từ “sâu chót vót” tạo nên ấn tượng sông thêm dài, trời thêm rộng và bến sông vốn đã vắng vẻ lại càng cô liêu hơn, quạnh quẽ hơn.

Cảnh vật vẫn hết sức quạnh vắng. Toàn cảnh sông nước trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng của con người: “không một chuyến đò” và cũng không có lấy một nhịp cầu nối giữa đôi bờ tạo nên sự gần gũi giữa con người với con người mà chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên xa vắng hoang vu. Vì vậy, nỗi buồn của bài thơ này không chỉ là nỗi buồn trước trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn về nhân thế, về cuộc đời.

Sang đến khổ thơ thứ tư, từ “buồn điệp điệp”, “sầu trăm ngả” ở những khổ thơ trên, đến đây nỗi sầu thi sĩ đã dâng lên trùng trùng, “lớp lớp” tràn ngập cả bầu trời. Trong văn chương Việt Nam cánh chim là một thi tứ quen thuộc để miêu tả buổi chiều. Nhưng trong “Tràng giang”, dường như cánh chim ấy có phần nhỏ bé và cô đơn hơn bởi nhà thơ đã đặt nó trong một không gian rộng lớn và bao la của vũ trụ. Cánh chim nhỏ là biểu hiện của sự sống và khát vọng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nó vẫn không làm cho không gian vơi đi niềm quạnh vắng. Cánh chim nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la. “Dợn dợn” là từ láy vô cùng sáng tạo, gợi cảm giác về một nỗi buồn miên man, vô hạn. Nếu ở “Hoàng Hạc lâu”, Thôi Hiệu cần mượn khói sóng để bộc lộ nỗi nhớ quê hương thì ở đây, Huy Cận “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Có thể thấy, nỗi nhớ dường như trở nên thường trực và cháy bỏng hơn.

Như vậy, đi suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn của bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà thơ mới trong những năm thời thuộc Pháp. Về nội dung, bài thơ đem đến người đọc bức tranh thiên nhiên sông nước gần gũi quen thuộc nhưng vắng lặng và bức tranh tâm trạng mang trĩu nặng nỗi sầu. Cùng với đó là niềm khát khao giao cảm với cuộc đời, lòng yêu nước tuy thầm kín nhưng không kém phần thiết tha của nhà thơ. Về nghệ thuật, bài thơ đặc sắc ở chỗ nó có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và hiện đại. Cổ kính, trang nghiêm, đậm chất Đường thi nhưng “Tràng giang” vẫn là bài thơ mang nét hiện đại khi sử dụng những hình ảnh gần gũi, tầm thường để qua đó bộc lộ cảm xúc, nỗi niềm của nhân vật trữ tình. Đây cũng là nét độc đáo điển hình trong phong cách thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.

Câu 1: Qua câu thơ đề từ ta thấy được nỗi niềm của nhà thơ là cảm giác buồn sầu trước dòng sông rộng lớn, đồng thời cảm nhận được nỗi nhớ da diết của tác giả.

Mối lên hệ với bức tranh thiên nhiên và tâm trạng nhà thơ là nỗi buồn sầu lan tỏa, nhẹ nhàng mà sâu lắng đồng thời tạo nên vẻ đẹp hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại.

Câu 2: Âm điệu chung của bài thơ là âm điệu buồn lặng lẽ, bâng khuâng, man mác da diết, sầu lặng. Nổi bật trong suốt bài thơ là âm điệu buồn – đều đều, dập dềnh như sông nước ở trên sông chủ yếu là nhịp thơ 2/2/3 và thanh điệu có sự hoán vị bằng trắc đều đặn, cấu trúc đăng đối giữa các câu thơ.

Câu 3: Bức tranh thiên nhiên không gian mênh mong, cảnh vật hiu quạnh hình ảnh mang đậm sắc màu cổ điển. Tuy nhiên, bức tranh Tràng Giang vẫn gần gũi, thân thuộc vì: cành củi khô, tiếng làng xa vãn chợ chiều. Hình ảnh, âm thanh giản dị, gần gũi, thanh đạm của cuộc sống, con người Việt Nam.

Câu 4: Tình yêu thiên nhiên ở đây có thấm đượm lòng yêu nước thầm kín qua bốn câu thơ cuối với những hình ảnh bức tranh chiều tà đẹp, hùng vĩ và vô cùng thơ mộng mang đến cho người đọc những cảm giác thân thuộc, gần gũi để rồi từ những cảnh quê. Huy Cận không cần đến thiên nhiên, tạo vật mà nó tìm ẩn và bộc phát tự nhiên chính vì thế nên nỗi nhớ quê càng da diết, sâu sắc hơn. Và cứ như thế nỗi buồn sâu lắng, nỗi nhớ quê da diết cứ chầm chậm chảy trên bề mặt khổ thơ cuối.

Câu 5: Bài thơ được tái hiện với nghệ thuật đặc sắc qua sự kết hợp hài hòa những thi liệu mang nét cổ điển với hiện đại, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm, nghệ thuật đối, cách ngắt nhịp 2/2/3 và thể thơ thất ngôntạo nên không khí trầm mặc, cổ kính của thơ đường.

Luyện tập

Câu 1: Cách cảm nhận không gian: Mang cảm hứng vũ trụ, cảm giác bao la, rộng lớn với không gian 3 chiều, không gian buồn hiu hắt, con sông không bóng người và vừa hùng vĩ, vừa cô đơn.

Cảm nhận thời gian: Thời gian ở đây là buổi chiều tà, cảm nhận thời gian vừa cụ thể, vừa gợi cảm lại thể hiện đúng tâm trạng buồn hiu hắt tác giả.

Câu 2: Rõ ràng Huy Cận có mượn ý thơ của Thôi Hiệu, tuy nhiên trong thơ Thôi Hiệu phải có khói và sóng là những hình ảnh thiên nhiên thì mới gợi lên nỗi nhớ nhà. Trong khi đó, trong thơ Xuân Diệu những hình ảnh thiên nhiên đó luôn thường trực và tự nhiên bộc phát cho nên nỗi nhớ của Huy Cận da diết và sâu lắng hơn.

Bài viết tham khảo

Từ năm 1930, văn học Việt Nam bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ với sự xuất hiện của làn sóng thơ mới cùng những cá tính sáng tác độc đáo. Các nhà thơ say sưa thể hiện cái tôi cá nhân và không còn bị gò bó trong khuôn sáo cũ kĩ của văn thơ trung đại. Nếu Xuân Diệu luôn mang trong mình nỗi ám ảnh về thời gian thì người bạn tri kỉ của ông, Huy Cận lại luôn chìm đắm trong cảm thức về không gian vũ trụ. Huy Cận tỏ ra rất nhạy cảm với không gian rộng lớn và thời gian vĩnh hằng. Những điều ấy được thể hiện rõ nét trong “Tràng giang”, một trong những bài thơ xuất sắc nhất của ông.

Vào khoảng những năm 1939, Huy Cận theo học tại một trường ở Hà Nội. Ông có thói quen đạp xe dọc đê vào mỗi buổi chiều thứ bảy để hóng gió và ngắm cảnh sông Hồng. Bài “Tràng giang” ra đời trong một buổi chiều như thế. Đứng ở bãi Chèm, nhìn cảnh sông nước mênh mông, nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu lo, thương cảm về đất nước về kiếp người cuộn tràn trong tâm trí nhà thơ. Ngay hôm ấy ông đã cho ra đời một bài thơ lục bát, lấy tiêu đề là “Chiều trên sông”. Sau này, Huy Cận đổi tên thành “Tràng giang” và viết lại theo thể thất ngôn tự do, in trong tập Lửa thiêng.

Nhan đề “Tràng giang” là từ Hán – Việt gợi lên sắc thái trang trọng và cổ kính. Điệp vần “ang” tạo ấn tượng về một dòng sông rộng lớn, mênh mang, vô tận. Chỉ qua nhan đề, tác giả không chỉ gợi được chiều dài mà còn cả chiều rộng và chiều sâu của dòng sông.

Câu thơ đề từ mở ra một không gian rộng lớn mang tầm vũ trụ: có chiều rộng bát ngát của bầu trời, chiều dài vô tận của dòng chảy, chiều cao giữa trời và nước. Chính giữa không gian rợn ngợp như thế làm con người ta cảm thấy cô đơn, nhỏ nhoi, nhung nhớ một điều gì đó xa xôi

Khổ thơ thứ nhất là nét bút chấm phá vẽ lên bức tranh sông nước rộng mênh mang nhưng buồn vắng. “Sóng và thuyền” không có gì đáng buồn nhưng chính cụm từ “buồn điệp điệp” đã làm cho cảnh trở nên mênh mông và xa vắng. Từ “điệp điệp” từ xưa đến nay thường dùng để hình dung, miêu tả những hình ảnh thiên nhiên như sóng, núi giờ đây được Huy Cận dùng để nói về nỗi buồn. Điều này làm cho nỗi buồn không còn vô hình mà trở nên hữu hình, cụ thể. Đó là nỗi buồn dai dẳng, triền miên, thường trực trong tâm trí. Câu thơ đã bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đứng trước cảnh trời rộng sông dài. Câu thơ mang âm hưởng cổ kính của thơ Đường với nghệ thuật đối từ, đối ý: sóng – thuyền; điệp điệp – song song. Tuy vậy, xét đến cùng, sức mạnh của hai câu thơ đầu tiên không phải ở nghệ thuật miêu tả mà ở nghệ thuật khơi gợi – khơi gợi được cả cảm xúc và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang) và thời gian (điệp điệp).

Đến khổ thơ thứ hai, dường như nỗi buồn vắng, đìu hiu càng lan tỏa và thấm sâu. Đến hai câu thơ này, không gian như được mở rộng ra cả ba chiều. Từ “cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời, nó thuần tuý tả cảnh; còn từ “sâu” vừa tả cảnh vừa tả tình và hàm súc hơn. Huy Cận đã giải thích về cụm từ “sâu chót vót” như thế này: “Từng vạt nắng từ trên cao rơi xuống tạo nên một khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tôi dùng chữ “sâu” chứ không dùng chữ “cao”, bởi vì “cao chót vót” thì thường quá. Ở đây không gian được mở ra ba chiều….tạo nên một vũ trụ rộng lớn và thể hiện một nỗi buồn tưởng như vô tận”.(Về bài thơ “Tràng giang” – Huy Cận)

Trong mạch cảm xúc gợi ra từ hai khổ đầu ấy, sang đến khổ 3, nỗi buồn càng được khắc sâu hơn. Trên khung cảnh vắng lặng một cách tuyệt đối ấy chỉ có. Ở câu thơ thứ nhất, ta thấy xuất hiện 1 hình ảnh rất quen thuộc, đó là hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Ta thấy trong ca dao, dân ca, và thơ trung đại hình ảnh cánh bèo cũng hay được sử dụng khi nói về thân phận người phụ nữ: “Thân em như lá bèo trôi”, “Nghĩ mình mặt nước cánh bèo/ Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân”,…

Hình ảnh ẩn dụ những cánh bèo không biết trôi dạt về đâu và những bờ xanh bãi vàng nối tiếp nhau lặng lẽ gợi cho người đọc liên tưởng đến thân phận nhỏ bé của con người trong xã hội. Cùng với hình ảnh cành củi khô lạc mấy dòng ở khổ một, nó cho thấy sự hoang mang của Huy Cận trong việc tìm ra con đường đi cho mình. Đứng trước cảnh vũ trụ cao rộng và hoang vắng ấy con người càng rợn ngợp trong nỗi cô đơn triền miên.

Toàn cảnh sông dài, trời rộng mà tuyệt nhiên không có bóng dáng con người. Ngay đến những vật để nối đôi bờ như cầu, như đò cũng chẳng có (“Không một chuyến đò”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”), mà chỉ có thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên. Không có cầu, là không có sự trao đổi, không tìm thấy dù chỉ một chút niềm thân mật của tình người. Ta thấy, nhân vật trữ tình ở đây không chỉ cô đơn khi đứng trước thiên nhiên rợn ngợp, mà còn cô đơn trong chính xã hội mà ở đó, con người chán nản vì mất đi chủ quyền, tự giam hãm bản thân mà không có sự giao lưu, chia sẻ với nhau.Vì thế, nỗi buồn của bài thơ không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế

Sang đến khổ thơ thứ tư. Trong văn chương Việt Nam cánh chim là một thi tứ quen thuộc để miêu tả buổi chiều. Nhưng trong “Tràng giang”, dường như cánh chim ấy có phần nhỏ bé và cô đơn hơn bởi nhà thơ đã đặt nó trong một không gian rộng lớn và bao la của vũ trụ. Cánh chim nhỏ là biểu hiện của sự sống và khát vọng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nó vẫn không làm cho không gian vơi đi niềm quạnh vắng. Cánh chim nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la.

“Dợn dợn” là từ láy vô cùng sáng tạo, gợi cảm giác về một nỗi buồn miên man, vô hạn. Nếu ở “Hoàng Hạc lâu”, Thôi Hiệu cần mượn khói sóng để bộc lộ nỗi nhớ quê hương thì ở đây, Huy Cận “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Có thể thấy, nỗi nhớ dường như trở nên thường trực và cháy bỏng hơn.

Như vậy, đi suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn của bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà thơ mới trong những năm thời thuộc Pháp. Về nội dung, bài thơ đem đến người đọc bức tranh thiên nhiên sông nước gần gũi quen thuộc nhưng vắng lặng và bức tranh tâm trạng mang trĩu nặng nỗi sầu. Cùng với đó là niềm khát khao giao cảm với cuộc đời, lòng yêu nước tuy thầm kín nhưng không kém phần thiết tha của nhà thơ. Về nghệ thuật, bài thơ đặc sắc ở chỗ nó có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và hiện đại. Cổ kính, trang nghiêm, đậm chất Đường thi nhưng “Tràng giang” vẫn là bài thơ mang nét hiện đại khi sử dụng những hình ảnh gần gũi, tầm thường để qua đó bộc lộ cảm xúc, nỗi niềm của nhân vật trữ tình. Đây cũng là nét độc đáo điển hình trong phong cách thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.

Câu 2: Nhà thơ Huy Cận đã từng viết: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.”

Em hãy làm rõ điều này thông qua việc phân tích tác phẩm “Tràng giang” của Huy Cận.

Bài viết tham khảo

Thơ Huy Cận sau Cách mạng Tháng Tám là một hồn thơ dạt dào nhựa sống thời đại, nó mang dấu ấn từ truyền thống dân tộc đến những tầng sâu văn hóa của đời sống con người Việt chúng tôi nhìn về bản thân thời trẻ, Huy Cận từng viết: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.” Và nỗi sầu của Huy Cận đã được nhà thơ thể hiện vô cùng tha thiết thông qua tác phẩm “Tràng giang”.

Nói về cảm hứng viết nên bài thơ “Tràng giang”, Huy Cận chia sẻ rằng vào khoảng những năm 1939, Huy Cận theo học tại một trường ở Hà Nội. Ông có thói quen đạp xe dọc đê vào mỗi buổi chiều thứ bảy để hóng gió và ngắm cảnh sông Hồng. Bài “Tràng giang” ra đời trong một buổi chiều như thế. Đứng ở bãi Chèm, nhìn cảnh sông nước mênh mông, nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu lo, thương cảm về đất nước về kiếp người cuộn tràn trong tâm trí nhà thơ. Ngay hôm ấy ông đã cho ra đời một bài thơ lục bát, lấy tiêu đề là “Chiều trên sông”. Sau này, Huy Cận đổi tên thành “Tràng giang” và viết lại theo thể thất ngôn tự do, in trong tập Lửa thiêng.

Câu thơ đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã dẫn dắt ta vào bài thơ, cũng là dẫn dắt vào nỗi buồn mênh mang theo chiều không gian rộng lớn của dòng sông.

Khổ thơ thứ nhất là nét bút chấm phá vẽ lên bức tranh sông nước rộng mênh mang nhưng buồn vắng “Sóng và thuyền” không có gì đáng buồn nhưng chính cụm từ “buồn điệp điệp” đã làm cho cảnh trở nên mênh mông và xa vắng. Từ “điệp điệp” từ xưa đến nay thường dùng để hình dung, miêu tả những hình ảnh thiên nhiên như sóng, núi giờ đây được Huy Cận dùng để nói về nỗi buồn. Điều này làm cho nỗi buồn không còn vô hình mà trở nên hữu hình, cụ thể. Đó là nỗi buồn dai dẳng, triền miên, thường trực trong tâm trí. Câu thơ đã bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đứng trước cảnh trời rộng sông dài. Câu thơ mang âm hưởng cổ kính của thơ Đường với nghệ thuật đối từ, đối ý: sóng – thuyền; điệp điệp – song song. Tuy vậy, xét đến cùng, sức mạnh của hai câu thơ đầu tiên không phải ở nghệ thuật miêu tả mà ở nghệ thuật khơi gợi – khơi gợi được cả cảm xúc và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang) và thời gian (điệp điệp).

Nếu như các phép đối ý, đối xứng cùng với các thi liệu, hình ảnh quen thuộc như con thuyền, sóng nước làm cho khổ thơ phảng phất hương vị cổ điển của Đường thi thì việc xuất hiện hình ảnh một cành củi khô nhỏ nhoi, tầm thường ở câu thứ tư đã thổi vào làn gió mới, khẳng định rằng đây là một bài thơ Mới. Bởi ở văn thơ trung đại, khi sáng tác, người ta chỉ tập trung nói đến những hình ảnh trang nhã, đẹp đẽ như tùng, cúc, trúc, mai, trăng, gió… chứ không đề cập tới những hình ảnh dân dã, tầm thường như cành củi khô. Sự đối lập giữa cành củi khô và dòng sông làm người đọc liên tưởng đến thân phận con người trong xã hội đương thời. Có thể thấy nỗi buồn của Huy Cận ở đây không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà đó là nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên không tìm ra lối thoát cho đời mình. Đồng thời, chỉ thông qua khổ thơ thứ nhất, chúng ta cũng đã thấy được phần nào nét cổ điển cũng như hiện đại trong thơ Huy Cận.

Đến khổ thơ thứ hai, dường như nỗi buồn vắng, đìu hiu càng lan tỏa và thấm sâu.

Hơn nữa, cặp từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” càng gợi lên sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn của không gian vũ trụ. Câu “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” xưa nay vẫn tồn tại hai cách hiểu xuất phát từ cách hiểu từ “đâu” (có và không có tiếng chợ chiều). Tuy vậy, dẫu hiểu theo cách nào thì hình ảnh chợ chiều đã vãn trong câu thơ cũng gợi thêm một nét buồn vắng, thê lương cho cảnh sắc.

Đến hai câu thơ này, không gian như được mở rộng ra cả ba chiều. Từ “cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời, nó thuần tuý tả cảnh; còn từ “sâu” vừa tả cảnh vừa tả tình và hàm súc hơn. Huy Cận đã giải thích về cụm từ “sâu chót vót” như thế này: “Từng vạt nắng từ trên cao rơi xuống tạo nên một khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tôi dùng chữ “sâu” chứ không dùng chữ “cao”, bởi vì “cao chót vót” thì thường quá. Ở đây không gian được mở ra ba chiều….tạo nên một vũ trụ rộng lớn và thể hiện một nỗi buồn tưởng như vô tận” (Về bài thơ “Tràng giang” – Huy Cận)

Tính từ “chót vót” tô đậm thêm cảm giác mênh mông của vũ trụ. Đứng trước khung cảnh ấy con người dường như nhỏ bé và cảm thấy cô liêu. Hai câu thơ thể hiện cuộc sống quạnh quẽ trong xã hội đương thời mà mỗi người là một ốc đảo hoang vắng cô liêu.

Trong mạch cảm xúc gợi ra từ hai khổ đầu ấy, sang đến khổ 3, nỗi buồn càng được khắc sâu hơn. Trên khung cảnh vắng lặng một cách tuyệt đối ấy chỉ có:

Ở câu thơ thứ nhất, ta thấy xuất hiện 1 hình ảnh rất quen thuộc, đó là hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Ta thấy trong ca dao, dân ca, và thơ trung đại hình ảnh cánh bèo cũng hay được sử dụng khi nói về thân phận người phụ nữ: “Thân em như lá bèo trôi”, “Nghĩ mình mặt nước cánh bèo/ Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân”,…

Hình ảnh ẩn dụ những cánh bèo không biết trôi dạt về đâu và những bờ xanh bãi vàng nối tiếp nhau lặng lẽ gợi cho người đọc liên tưởng đến thân phận nhỏ bé của con người trong xã hội. Cùng với hình ảnh cành củi khô lạc mấy dòng ở khổ một, nó cho thấy sự hoang mang của Huy Cận trong việc tìm ra con đường đi cho mình.

Đứng trước cảnh vũ trụ cao rộng và hoang vắng ấy con người càng rợn ngợp trong nỗi cô đơn triền miên.

Toàn cảnh sông dài, trời rộng mà tuyệt nhiên không có bóng dáng con người. Ngay đến những vật để nối đôi bờ như cầu, như đò cũng chẳng có (“Không một chuyến đò”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”), mà chỉ có thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên. Không có cầu, là không có sự trao đổi, không tìm thấy dù chỉ một chút niềm thân mật của tình người. Ta thấy, nhân vật trữ tình ở đây không chỉ cô đơn khi đứng trước thiên nhiên rợn ngợp, mà còn cô đơn trong chính xã hội mà ở đó, con người chán nản vì mất đi chủ quyền, tự giam hãm bản thân mà không có sự giao lưu, chia sẻ với nhau.Vì thế, nỗi buồn của bài thơ không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế.

Sang đến khổ thơ thứ tư, nỗi nhớ quê hương của nhà thơ hiện lên trong cảnh thiên nhiên rợn ngợp. Từ “buồn điệp điệp”, “sầu trăm ngả” ở những khổ thơ trên, đến đây nỗi sầu thi sĩ đã dâng lên trùng trùng, “lớp lớp” tràn ngập cả bầu trời. Huy Cận đã mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường để rồi từ đó sáng tạo nên ý thơ của mình. Hình ảnh ước lệ, cổ điển: mây, chim… vẽ lên bức tranh chiều tà đẹp tráng lệ và thơ mộng. “Mây” nhiều, vô số tầng bậc, chữ “đùn” tạo cảm giác áng mây chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Và, trên cảnh mây trời, sông nước buồn vắng nhưng đẹp đẽ, hùng vĩ ấy, đột nhiên xuất hiện con chim “nghiêng cánh” bay như hút lấy nắng hoàng hôn cùng “bóng chiều”, tạo cảm giác như chỉ cần bóng chim khẽ chao nghiêng là cả bóng chiều sẽ sa xuống vậy.

Trong văn chương Việt Nam cánh chim là một thi tứ quen thuộc để miêu tả buổi chiều. Nhưng trong “Tràng giang”, dường như cánh chim ấy có phần nhỏ bé và cô đơn hơn bởi nhà thơ đã đặt nó trong một không gian rộng lớn và bao la của vũ trụ. Cánh chim nhỏ là biểu hiện của sự sống và khát vọng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nó vẫn không làm cho không gian vơi đi niềm quạnh vắng. Cánh chim nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la. “Dợn dợn” là từ láy vô cùng sáng tạo, gợi cảm giác về một nỗi buồn miên man, vô hạn. Nếu ở “Hoàng Hạc lâu”, Thôi Hiệu cần mượn khói sóng để bộc lộ nỗi nhớ quê hương thì ở đây, Huy Cận “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Có thể thấy, nỗi nhớ dường như trở nên thường trực và cháy bỏng hơn.

Cùng là những nhà thơ của phong trào Thơ Mới, nhưng nếu Vội vàng của Xuân Diệu là một thi giới mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn thì “Tràng giang” của Huy Cận lại được các nhà phê bình đánh giá là hồn thơ thuộc về nỗi sầu nhân thế cố hữu, phảng phất âm vị thơ cổ điển. Nỗi sầu ấy tràn ngập trong thơ Huy Cận đến mức, sau này nhìn lại, Huy Cận đã nhìn nhận phong cách của bản thân giai đoạn Trước Cách mạng Tháng Tám rằng: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.”

Câu 3: Bức tranh tâm trạng trong bài thơ “Tràng giang”

Bài viết tham khảo

Từ năm 1930, văn học Việt Nam bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ với sự xuất hiện của làn sóng thơ mới cùng những cá tính sáng tác độc đáo. Các nhà thơ say sưa thể hiện cái tôi cá nhân và không còn bị gò bó trong khuôn sáo cũ kĩ của văn thơ trung đại. Nếu Xuân Diệu luôn mang trong mình nỗi ám ảnh về thời gian thì người bạn tri kỉ của ông, Huy Cận lại luôn chìm đắm trong cảm thức về không gian vũ trụ. Huy Cận tỏ ra rất nhạy cảm với không gian rộng lớn và thời gian vĩnh hằng. Những điều ấy được thể hiện rõ nét trong “Tràng giang”, một trong những bài thơ xuất sắc nhất của ông.

Vào khoảng những năm 1939, Huy Cận theo học tại một trường ở Hà Nội. Ông có thói quen đạp xe dọc đê vào mỗi buổi chiều thứ bảy để hóng gió và ngắm cảnh sông Hồng. Bài “Tràng giang” ra đời trong một buổi chiều như thế. Đứng ở bãi Chèm, nhìn cảnh sông nước mênh mông, nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu lo, thương cảm về đất nước về kiếp người cuộn tràn trong tâm trí nhà thơ. Ngay hôm ấy ông đã cho ra đời một bài thơ lục bát, lấy tiêu đề là “Chiều trên sông”. Sau này, Huy Cận đổi tên thành “Tràng giang” và viết lại theo thể thất ngôn tự do, in trong tập Lửa thiêng.

Có thể thấy rằng chính lời đề từ tuy nằm ngoài bài thơ, nhưng lại đúc kết nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả đó chính là ‘Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Có thể coi cảm xúc trong câu thơ này là nguồn thi hứng để thi sĩ sáng tác nên bài thơ “Tràng giang” bất hủ. Dường như nó cũng đã khiến cho không chỉ “cái tôi trữ tình” nặng trĩu nhớ nhung, mà đất trời sông núi cũng tràn ngập bâng khuâng, nhung nhớ. Có lẽ cái độc đáo của câu thơ này chính là sự giao thoa của cả hai nghĩa ấy. Nhà thơ tài năng Huy Cận đã triển khai cảm hứng nêu ở câu thơ để từ một cách hoàn hảo trong suốt thi phẩm của mình.

Nếu như những câu thơ trên mở ra với hình ảnh những lớp sóng tiếp nối nhau điệp điệp thì ở câu dưới nó lại được đặc tả qua hình ảnh con thuyên xuôi mái theo những luồng nước song song rong ruổi về mãi cuối trời. “Sóng và thuyền” không có gì đáng buồn nhưng chính cụm từ “buồn điệp điệp” đã làm cho cảnh trở nên mênh mông và xa vắng. Từ “điệp điệp” từ xưa đến nay thường dùng để hình dung, miêu tả những hình ảnh thiên nhiên như sóng, núi giờ đây được Huy Cận dùng để nói về nỗi buồn. Điều này làm cho nỗi buồn không còn vô hình mà trở nên hữu hình, cụ thể. Đó là nỗi buồn dai dẳng, triền miên, thường trực trong tâm trí. Câu thơ đã bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đứng trước cảnh trời rộng sông dài.

Sự đối lập giữa cành củi khô và dòng sông làm người đọc liên tưởng đến thân phận con người trong xã hội đương thời. Có thể thấy nỗi buồn của Huy Cận ở đây không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà đó là nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên không tìm ra lối thoát cho đời mình.

Và rồi cho đến khổ thơ thứ hai, bức tranh tràng giang có thêm cảnh, thêm người nhưng nỗi buồn không vơi mà như càng thấm sâu vào cảnh vật. Huy Cận dường như cũng đã tập trung tất cả hình ảnh, nhạc điệu để làm nổi bật lên nỗi buồn thấm thía của con người trước sông dài trời rộng. Có thể thấy rằng nỗi buồn được gợi lên từ mặt nước mênh mông, đôi bờ hoang vắng, từ một cồn nhỏ lơ thơ heo hút, dăm bụi cây phơ phất trong gió lạnh đìu hiu.

Hơn nữa, cặp từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” càng gợi lên sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn của không gian vũ trụ. Từ làng xa vẳng lại tiếng chợ chiều đang vãn, tuy có hơi hướng con người nhưng âm thanh mong manh mơ hồ như từ cõi nào vọng lại làm dấy lên trong lòng lữ khách nỗi khát khao được gặp gỡ và chia sẻ tâm tình.

Có lẽ nỗi buồn đã và đang lan toả ra hết chiều cao, chiều rộng của bến bãi, mặt nước, bầu trời. Ở đây, người đọc bắt gặp những cảm nhận hết sức tinh tế, kì diệu của nhà thơ đó là cách cảm nhận về độ cao, độ sâu đến rợn ngợp của bầu trời và khoảng cách vô tận giữa trời và nước. Cách dùng từ “sâu chót vót” tạo nên ấn tượng sông thêm dài, trời thêm rộng và bến sông vốn đã vắng vẻ lại càng cô liêu hơn, quạnh quẽ hơn.

Cảnh vật vẫn hết sức quạnh vắng. Toàn cảnh sông nước trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng của con người: “không một chuyến đò” và cũng không có lấy một nhịp cầu nối giữa đôi bờ tạo nên sự gần gũi giữa con người với con người mà chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên xa vắng hoang vu. Vì vậy, nỗi buồn của bài thơ này không chỉ là nỗi buồn trước trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn về nhân thế, về cuộc đời.

Sang đến khổ thơ thứ tư, từ “buồn điệp điệp”, “sầu trăm ngả” ở những khổ thơ trên, đến đây nỗi sầu thi sĩ đã dâng lên trùng trùng, “lớp lớp” tràn ngập cả bầu trời. Trong văn chương Việt Nam cánh chim là một thi tứ quen thuộc để miêu tả buổi chiều. Nhưng trong “Tràng giang”, dường như cánh chim ấy có phần nhỏ bé và cô đơn hơn bởi nhà thơ đã đặt nó trong một không gian rộng lớn và bao la của vũ trụ. Cánh chim nhỏ là biểu hiện của sự sống và khát vọng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nó vẫn không làm cho không gian vơi đi niềm quạnh vắng. Cánh chim nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la. “Dợn dợn” là từ láy vô cùng sáng tạo, gợi cảm giác về một nỗi buồn miên man, vô hạn. Nếu ở “Hoàng Hạc lâu”, Thôi Hiệu cần mượn khói sóng để bộc lộ nỗi nhớ quê hương thì ở đây, Huy Cận “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Có thể thấy, nỗi nhớ dường như trở nên thường trực và cháy bỏng hơn.

Như vậy, đi suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn của bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà thơ mới trong những năm thời thuộc Pháp. Về nội dung, bài thơ đem đến người đọc bức tranh thiên nhiên sông nước gần gũi quen thuộc nhưng vắng lặng và bức tranh tâm trạng mang trĩu nặng nỗi sầu. Cùng với đó là niềm khát khao giao cảm với cuộc đời, lòng yêu nước tuy thầm kín nhưng không kém phần thiết tha của nhà thơ. Về nghệ thuật, bài thơ đặc sắc ở chỗ nó có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và hiện đại. Cổ kính, trang nghiêm, đậm chất Đường thi nhưng “Tràng giang” vẫn là bài thơ mang nét hiện đại khi sử dụng những hình ảnh gần gũi, tầm thường để qua đó bộc lộ cảm xúc, nỗi niềm của nhân vật trữ tình. Đây cũng là nét độc đáo điển hình trong phong cách thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.

Câu 1: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”

Câu 2: Âm điệu chung của toàn bài thơ:

– Chủ yếu là nhịp thơ 2/2/3

– Thanh điệu có sự hoán vị bằng trắc đều đặn, cấu trúc đăng đối giữa các câu thơ

Câu 3: Sự đối lập giữa bao la, mênh mông của đất trời với vạn vật nhỏ nhoi tạo nên cảm giác con người lạc lõng, cô đơn nên bài thơ mang đậm màu sắc cổ điển.

“Cành củi khô, tiếng làng xa vãn chợ chiều” là hình ảnh, âm thanh giản dị, gần gũi, thanh đạm của cuộc sống, con người Việt Nam

Câu 4: Những hình ảnh ước lệ, cổ điển như: mây, chim tạo nên một bức tranh chiều tà đẹp, hùng vĩ và vô cùng thơ mộng. Bóng chiều vốn vô hình nhưng ở đây lại được miêu tả như hữu hình. Chỉ bằng hai câu thơ đầu nhà thơ đã mang đến cho người đọc những cảm giác thân thuộc, gần gũi để rồi từ những cảnh quê ấy mà nói đến tình yêu và nỗi nhớ quê.

Câu 5: Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ thể hiện qua thể thơ, cách ngắt nhịp, nghệ thuật đối, từ láy, bút phát tả cảnh,…

Nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình

Hệ thống từ láy

Cách ngắt nhịp 2/2/3 và thể thơ thất ngôn

Luyện tập

Câu 1: Cách cảm nhận không gian và thời gian của bài thơ đáng chú ý là

– Không gian được cảm nhận qua cả 4 khổ thơ mang cảm hứng vũ trụ, không gian ba chiều, buồn hiu hắt và cũng vừa hùng vĩ, vừa cô đơn

– Thời gian: buổi chiều tà vừa cụ thể, vừa gợi cảm

Câu 2: Câu thơ cuối “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” lại làm cho người đọc liên tưởng đến hai câu thơ trong bài “Lầu Hoàng Hạc” của Thôi Hiệu:

– Thôi Hiệu: khói và sóng là những hình ảnh thiên nhiên thì mới gợi lên nỗi nhớ nhà

– Xuân Diệu: những hình ảnh thiên nhiên đó luôn thường trực và tự nhiên bộc phát

Dàn ý tham khảo 1. Mở bài

Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận đã khắc họa thành công hai vẻ đẹp: cổ điển và hiện đại.

2. Thân bài

– Trước hết, ta thấy vẻ đẹp cổ điển và hiện đại được hiện lên qua hoàn cảnh sáng tác và nhan đề bài thơ.

* Linh hồn của nó là một nỗi buồn đìu hiu, mênh mang, cô đơn bao trùm.

* Nhan đề “Tràng giang” xuất phát từ sự biến đổi lại từ “trường giang”, hai âm Hán – Việt và vần “ang” đi liền với nhau làm cho con sông trong thơ bỗng trở nên dài rộng hơn, mệnh mang, rợn ngợp hơn trong tâm tưởng người đọc.

* Lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.

– Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài thơ còn được gợi từ đề tài, cảm hứng sáng tác và chất liệu thi ca.

– Thể loại và bút pháp cũng là một điểm đặc biệt Huy Cận đã vận dụng để thể hiện vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài thơ.

* “Tràng giang” mang đậm phong vị cổ điển với cách ngắt nhịp, gieo vần, bút pháp đối lập, bút pháp tả cảnh ngụ tình, mang tính chất gợi hơn là tả.

* “Tràng giang” lại cũng rất mới qua xu hướng giãi bày trực tiếp “cái tôi cá nhân” qua vận dụng thể thơ bảy chữ (buồn diệp điệp, sầu trăm ngả, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà…), qua những từ ngữ sáng tạo mang dấu ấn xúc cảm cá nhân của tác giả (sâu chót vót, niềm thân mật, dợn dợn…).

3. Kết bài

Khẳng định bài thơ “Tràng giang” là kết tinh, là thành công tiêu biểu cho sự kết hợp hài hòa giữa nét cổ điển và lãng mạn

Câu 2: Nhà thơ Huy Cận đã từng viết: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.”

Dàn ý tham khảo 1. Mở bài

Giới thiệu về Huy Cận và tác phẩm “Tràng giang”

2. Thân bài

– Cảm hứng sáng tác bài thơ

– Khổ thơ thứ nhất là nét bút chấm phá vẽ lên bức tranh sông nước rộng mênh mang nhưng buồn vắng:

* Cụm từ “buồn điệp điệp” đã làm cho cảnh trở nên mênh mông và xa vắng.

* Câu thơ mang âm hưởng cổ kính của thơ Đường với nghệ thuật đối từ, đối ý: sóng – thuyền; điệp điệp – song song.

* Xuất hiện hình ảnh một cành củi khô nhỏ nhoi, tầm thường

* Nỗi buồn của Huy Cận ở đây không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà đó là nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên không tìm ra lối thoát cho đời mình

– Đến khổ thơ thứ hai, dường như nỗi buồn vắng, đìu hiu càng lan tỏa và thấm sâu:

* Cặp từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” càng gợi lên sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn của không gian vũ trụ

* Không gian như được mở rộng ra cả ba chiều

* Cuộc sống quạnh quẽ trong xã hội đương thời mà mỗi người là một ốc đảo hoang vắng cô liêu.

– Khổ thứ thứ ba, nỗi buồn càng được khắc sâu hơn.

* Hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh

* Toàn cảnh sông dài, trời rộng mà tuyệt nhiên không có bóng dáng con người

* Nỗi buồn của bài thơ không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế.

– Sang đến khổ thơ thứ tư, nỗi nhớ quê hương của nhà thơ hiện lên trong cảnh thiên nhiên rợn ngợp:

* Hình ảnh ước lệ, cổ điển: mây, chim… vẽ lên bức tranh chiều tà đẹp tráng lệ và thơ mộng.

* Nếu ở “Hoàng Hạc lâu”, Thôi Hiệu cần mượn khói sóng để bộc lộ nỗi nhớ quê hương thì ở đây, Huy Cận “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

3. Kết bài

Khẳng định nỗi sầu nhân thế cố hữu trong thơ Huy Cận trước Cách mạng Tháng Tám.

Câu 3: Bức tranh tâm trạng trong bài thơ “Tràng giang”

Dàn ý tham khảo 1. Mở bài:

Giới thiệu bài thơ “Tràng giang”

2. Thân bài:

– Khổ 1:

– Khổ 2:

* Hai câu thơ đầu: nỗi buồn được gợi lên từ mặt nước mênh mông, đôi bờ hoang vắng, từ một cồn nhỏ lơ thơ heo hút, dăm bụi cây phơ phất trong gió lạnh đìu hiu; âm thanh mong manh mơ hồ như từ cõi nào vọng lại làm dấy lên trong lòng lữ khách nỗi khát khao được gặp gỡ và chia sẻ tâm tình.

* Hai câu thơ cuối: nỗi buồn đã và đang lan toả ra hết chiều cao, chiều rộng của bến bãi, mặt nước, bầu trời.

3. Kết bài:

Khẳng định giá trị của bài thơ Tràng giang.

Soạn Bài Tràng Giang Ngắn Gọn Nhất

Tài liệu hướng dẫn soạn bài của Huy Cận ngay sau đây sẽ tóm tắt những kiến thức cơ bản nhất về tác giả và bài thơ Tràng giang. Thông qua việc trả lời các câu hỏi đọc hiểu cuối bài, các em sẽ dễ dàng cảm nhận được nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, nỗi sầu nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với cuộc đời và tình cảm đối với quê hương đất nước của tác giả.

Cùng tham khảo ngay…

Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm I. Tác giả

1. Cuộc đời

– Huy Cận (1919 – 2005) tên thật là Cù Huy Cận, quê xã Đức An, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

– Thuở nhỏ, ông theo học quốc ngữ.

– Năm 1928 ông vào Huế theo đuổi nghiệp đèn sách và đậu tú tài vào năm 1939. Sau đó ông ra Hà Nội theo học trường Cao Đẳng Nông Lâm.

– Huy Cận tham gia Mặt trận Việt Minh, tháng 7 năm 1945, ông dự Quốc dân Đại hội tại Tân Trào và được bầu vào ủy ban Dân tộc Giải phóng Toàn quốc.

– Cách mạng thành công, ông lần lượt được cử giữ chức vụ Thứ trưởng của các bộ: Bộ Canh nông, Bộ Nội vụ, Bộ Kinh tế, Bộ Văn hoá. Sự nghiệp sáng tạo thi ca của Huy Cận thật bền bỉ.

– Năm 1996, Huy Cận được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.

2. Sự nghiệp sáng tác

– Sinh thời Huy Cận cho in hơn 20 tập thơ và ông là nhà Thơ mới hiếm hoi vẫn còn sáng tác ở thế kỉ XXI. Tập thơ nổi tiếng nhất của ông là Lửa thiêng (sáng tác trong khoảng 1937-1940).

– Sau Cách mạng tháng tám, ông sáng tác các tập thơ: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Hạt lại gieo (1984), Ta về với biển (1997)…

– Thơ ông được dịch nhiều ra tiếng nước ngoài (Tập thơ Nước triều đông, Thông điệp từ vùng sao và từ mặt đất).

3. Phong cách nghệ thuật

– Thơ Huy Cận có sự kết hợp hài hòa giữa thơ ca truyền thống của dân tộc với thơ Đường và thơ hiện đại của Pháp.

– Thơ Huy Cận giàu chất triết lí và suy ngẫm sâu sắc về vũ trụ, cuộc đời.

– Ngôn ngữ thơ ông dung dị, không nhiều “chất Tây” như ở Xuân Diệu mà đằm thắm trữ tình, tha thiết.

– Cùng với Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Huy Cận là một trong năm nhà thơ tiêu biểu nhất thế kỉ XX của Việt Nam. Không giống với nhiều nhà thơ khác, sự nghiệp sáng tác và hoạt động cách mạng của Huy Cận luôn gắn bó chặt chẽ. ở Huy Cận, nhà thơ đồng nghĩa với chiến sĩ; hiểu theo hai cách, thơ ông phục vụ sự nghiệp đấu tranh cách mạng và xây dựng Tổ quốc trong suốt gần cả thế kỉ hào hùng của dân tộc và thơ ông tiên phong trong phong trào đi tìm cái đẹp ẩn đằng sau cái đẹp qua sự giải phóng ngôn từ một cách kì diệu nhất.

II. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh xuất xứ

– Tràng giang được in trong tập Lửa thiêng (1940), tập thơ đầu tiên và đồng thời là tập thơ xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác thơ của Huy Cận.

– Bối cảnh sáng tác Tràng giang là khung cảnh sông nước vùng Chèm, Vẽ. Nguyên mẫu của Tràng giang chính là sông Hồng. Mùa thu năm 1939, khi nhà thơ đứng ở bờ nam sông Hồng và bến Chèm, nhìn cảnh sông nước mênh mông mà tức cảnh sinh tình và Tràng Giang được ra đời từ đó.

– Bài thơ Tràng giang thuộc mảng sáng tác đi tìm cái đẹp của Huy Cận. Cùng với Ngậm ngùi, Tràng giang là một trong hai bài thơ hay nhất của , tập thơ đầu tiên của Huy Cận ra đời vào năm 1940. Ngay từ lúc xuất hiện, Lửa thiêng đã được đón đọc say sưa trên khắp đất nước. Nội dung chủ yếu của tập thơ là nỗi cô đơn, trống vắng và buồn nhớ. Tất cả chìm trong bầu lãng mạn, ít khi rõ căn nguyên nhưng lại rất người, rất đời.

2. Nội dung chính

– Bài thơ khắc họa khung cảnh mênh mông, vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên. Thông qua đó, nhà thơ đã bộc lộ nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, niềm khao khát hòa nhập với cuộc đời, lòng yêu nước thầm kín mà sâu sắc

3. Bố cục

– Khổ 1: Khung cảnh sông nước mênh mông, bất tận.

– Khổ 2: Cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều.

– Khổ 3: Cảnh bèo trôi, bờ xanh hoang vắng.

– Khổ 4: Tâm sự nhớ quê và nỗi niềm mong tìm chỗ nương tựa của nhà thơ.

Soạn bài Tràng Giang chi tiết

Hướng dẫn trả lời câu hỏi đọc hiểu soạn bài Tràng giang trang 30 SGK Ngữ văn 11 tập 2.

Đọc – hiểu văn bản

1 – Trang 30 SGK

Anh (chị) hiểu thế nào về câu thơ đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài? Đề từ đó có mối liên hệ gì với bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của tác giả trong bài thơ?

Trả lời:

” Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài“

– Cảnh: trời rộng, sông dài: không gian mênh mông, rộng lớn, mang tầm vũ trụ. Biện pháp nghệ thuật ẩn dụ cho thấy nỗi nhớ của nhà thơ.

– “Bâng khuâng”, “nhớ” là tâm trạng buồn, cô đơn giữa “trời rộng”, “sông dài”. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ chính là nỗi buồn, tâm trạng khắc khoải trước vũ trụ bao la bát ngát.

Đối diện với cái vô cùng, vô tận của không gian và cái vô thủy, vô chung của thời gian, con người cảm nhận một cách thấm thía nỗi cô đơn, sự nhỏ nhoi của chính mình, thấy mình bơ vơ, lạc lõng. Đó là nỗi niềm của cái tôi nhà thơ. Lời đề từ vừa tô đậm thêm cảm giác “Tràng giang”, vừa thâu tóm cảm xúc chủ đạo, vừa gợi ra nét nhạc chủ âm cho cả bài thơ.

Lời đề từ ngắn nhưng đã thể hiện được một phần quan trọng hồn cốt của tác phẩm, nói cụ thể hơn, đây chính là nỗi buồn (bâng khuâng là có những cảm xúc ngỡ ngàng, luyến tiếc, nhớ thương đan xen nhau) trước cảnh vũ trụ bao la, bát ngát (trời rộng, sông dài). Có thể nói, Tràng giang đã triển khai một cách tập trung cảm hứng nêu ở câu thơ đề từ.

2 – Trang 30 SGK

Nêu cảm nghĩ về âm điệu chung của toàn bài thơ.

Trả lời:

Âm điệu chung của bài thơ:

– Bài thơ mang một âm điệu buồn, bâng khuâng, man mác da diết, sầu nặng, nỗi buồn thấm vào từng câu, từng chữ ” Suối buồn thương cứ tự trong thâm tâm chảy ra lai láng” (Hoài Thanh).

– Nhịp thơ 3 – 4 tạo nên một âm điệu đều đều, chậm, bình lặng, gợi nỗi buồn sầu mênh mang.

– Âm điệu giống như, dập dềnh trên sông và trên biển.

– Việc sử dụng nhiều từ láy hoàn toàn với sự lặp lại đều đặn tạo âm hưởng trôi chảy triền miên cùng nỗi buồn vô tận trong cảnh vật và hồn người.

Bài thơ tạo một không khí vừa cổ điển, vừa hiện đại. Huy Cận không miêu tả cảnh vật theo một trình tự nhất định. Dường như tác giả không có ý định khắc họa một bức tranh đầy đủ về thiên nhiên mà tất cả chỉ nhằm tô đậm ấn tượng về một nỗi buồn đìu hiu, xa vắng trải dài vô tận theo không gian và thời gian. Mỗi khổ thơ thực chất là sự triển khai khác nhau của nỗi buồn.

3 – Trang 30 SGK

Vì sao nói bức tranh thiên nhiên trong bài thơ in đậm màu sắc cổ điển mà vẫn gần gũi, thân thuộc?

Trả lời:

Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ mang đậm màu sắc cổ điển mà vẫn gần gũi, thân thuộc được thể hiện nhiều nhất ở khổ thơ đầu tiên:

– Ba câu thơ đầu mang đậm màu sắc cổ điển:

+ Hình ảnh “sóng gợn” và “con thuyền xuôi mái” mang vẻ đẹp tĩnh lặng, nhẹ nhàng thường thấy trong thơ cổ. Bức tranh thiên nhiên hoang sơ, rộng lớn và nhuốm màu tâm trạng.

– Câu thơ thứ 4 mang vẻ đẹp hiện đại:

+ Hình ảnh ” củi một cành khô “: mộc mạc, bình dị gần gũi, ít gặp trong thơ cổ.

+ Hình ảnh thiên nhiên ước lệ tượng trưng thường dùng trong thơ cổ

+ Giọng điệu, âm hưởng có chút gì đó mang âm hưởng cổ kính, trang nghiêm, đậm chất Đường thi

4 – Trang 30 SGK

Tình yêu thiên nhiên ở đây có thấm đượm lòng yêu nước thầm kín không? Vì sao?

Trả lời:

Tình yêu thiên nhiên của tác giả vẫn luôn chứa đựng và ấp ủ một lòng yêu nước da diết, thầm kín.

– Thiên nhiên trong bài thơ là những hình ảnh quen thuộc của cảnh sắc quê hương đất nước: sóng gợn, thuyền xuôi mái, cành củi khô, bèo dạt, bờ xanh, bãi vàng, mây núi, cánh chim…

– Thế nhưng buồn mà không bi quan, chán nản và thông qua bài thơ ta nhận thấy lắng sâu một tình yêu quê hương tha thiết, nồng nàn của nhà thơ.

5 – Trang 30 SGK

Phân tích đặc sắc nghệ thuật của bài thơ (thể thơ thất ngôn, thủ pháp tương phản, các từ láy, các biện pháp tu từ,…)

Trả lời:

Tràng giang có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật:

– Bài thơ có sự kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố cổ điển và hiện đại.

– Thể thơ thất ngôn trang nghiêm, cổ kính, với cách ngắt nhịp quen thuộc tạo nên sự cân đối, hài hòa

– Ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc

– Sử dụng thủ pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng

– Sử dụng nhiều từ Hán – Việt tạo nên vẻ trang trọng cổ kính của bài thơ

– Các biện pháp tu từ: nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, điệp ngữ, đối

– Sử dụng thành công các loại từ láy: láy âm ( Tràng giang, đìu hiu, chót vót, …), láy hoàn toàn ( điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn,…)

Soạn bài Tràng giang phần Luyện tập

1 – Trang 30 SGK

Cách cảm nhận về không gian và thời gian trong bài thơ này có gì đáng chú ý?

Trả lời:

Cách cảm nhận không gian, thời gian trong bài thơ có những điểm đáng chú ý như:

– Không gian: mênh mông, rộng lớn, mang tầm vũ trụ: trời rộng, sông dài.

+ Hình ảnh con thuyền cứ khuất dần rồi xa mờ hẳn, nước đành chia ” Sầu trăm ngả ” không gian giờ đã được mở rộng ra đến trăm ngả, vô tận mênh mang không có lấy một điểm tựa nào,…

+ Hai câu thơ cuối của khổ 2 đã mở ra một không gian ba chiều: chiều sâu, xa và cao. Từ chiều dọc không gian mở ra chiều ngang, lan tỏa đôi bờ. Chiều thứ ba của không gian vũ trụ mở ra bầu trời sâu chót vót.

+ Không gian luôn mang một màu buồn man mác, trôi xa, vẫn hắt hiu, vẫn xa vắng lạ lùng

– Giữa không gian mênh mông, buồn như vậy thì thời gian cũng như được kéo dài ra, trải dài hơn.

2* – Trang 30 SGK

Vì sao câu thơ cuối ” Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” lại làm cho người đọc liên tưởng đến hai câu thơ trong bài Lầu Hoàng Hạc của Thôi Hiệu?

Trả lời:

Câu thơ cuối đặc diễn tả tâm trạng của thi nhân: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Câu thơ mang một âm hưởng của Đường thi nhưng có sự sáng tạo.

Bài ” Hoàng Hạc Lâu ” của Thôi Hiệu đã kết thúc bằng hai câu thơ:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu”

Cả hai tác giả đều dùng hình ảnh ” khói sóng trong hoàng hôn ” để diễn tả nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, da diết của mình. Tuy nhiên, khác với Thôi Hiệu, Huy Cận chẳng cần đến khói sóng mà câu thơ bỗng òa lên nức nở. Nỗi nhớ nhà nhớ quê như hòa với tình yêu sông núi. Đó là tâm trạng chung của mỗi người dân mất nước. Tác giả không cần mượn tới ngoại cảnh mà vẫn tự biểu hiện với những cung bậc cảm xúc thiết tha, vẫn thể hiện rõ nội tâm, nỗi lòng của mình.

Soạn bài Tràng giang nâng cao

1 – Trang 50 SGK

Anh (chị) có cảm nhận như thế nào về âm điệu chung của toàn bài thơ? Âm điệu ấy đã góp phần thể hiện tâm trạng gì của tác giả trước thiên nhiên?

Trả lời:

Bài thơ được bao trùm bởi âm điệu buồn lặng lẽ, bâng khuâng, man mác da diết, sầu lặng. Qua âm điệu đó, ta dễ dàng nhận ra nỗi sầu rất đặc trưng của thơ Huy Cận cùng một kiểu cảm nhận có màu sắc bi quan về cuộc đời.

Âm điệu tựa như dập dềnh trên sông và sóng biển. Thanh điệu có sự hoán vị bằng trắc đều đặn, cấu trúc đăng đối giữa các câu thơ (buồn điệp điệp – nước song song; thuyền về – nước lại, nắng xuống – chiều lên) tạo ra cảm giác mênh mông của dòng sông, cùng với đó là vị buồn man mác của hồn thơ Huy Cận.

2 – Trang 50 SGK

Hãy nêu cảm nhận của anh (chị) về bức tranh thiên nhiên được thể hiện trong bài thơ. Câu đề từ: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” có mối liên hệ gì đối với hình ảnh tạo vật thiên nhiên và tâm trạng của tác giả được thể hiện trong bài?

Trả lời:

* Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên:

– Phong cảnh thiên nhiên thật đẹp, hùng vĩ nhưng lại có nét đìu hiu, quạnh quẽ và được phác hoạ một cách đơn sơ, rất gần với cách miêu tả thiên nhiên trong các bài thơ cổ điển.

– Thiên nhiên không chỉ rộng lớn, bát ngát, quạnh hiu mà còn có vẻ đẹp riêng thật tráng lệ. Ta có thể thấy điều này qua những câu thơ : ” Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, / Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa“. Mùa thu, những đám mây trắng đùn lên ở phía chân trời; khi có ánh dương phản chiếu vào, những đám mây đó lấp lánh như những núi bạc.

– Thiên nhiên trong bài thơ này không được miêu tả một cách rậm rạp, dường như tác giả chỉ phác ra một số nét đơn sơ, chủ yếu ghi lấy hồn cốt của tạo vật.

3 – Trang 50 SGK

Hãy phát biểu nhận xét về hình thức tổ chức câu thơ và việc sử dụng lời thơ trong các cặp câu sau:

– Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song. – Nắng xuống, trời lên sâu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Trả lời:

– Cả hai cặp thơ trên về hình thức tổ chức câu thơ cũng như sử dụng lời thơ đều có sự vận dụng và phát huy một cách sáng tạo những yếu tố cổ điển Đường thi để thể hiện tâm trạng của cái tôi mới.

– Cách thức tổ chức câu thơ tuân theo phép đối ngẫu phổ biến của thơ Đường. Chứng đều là những cặp câu đối nhau. Tuy nhiên, dạng thức mẫu mực của đối, theo quan niệm cổ điển, là phải đối nhau triệt để: đối câu, đối ý, đối chữ, đối âm. Ở đây, Huy Cận chỉ mượn nguyên tắc tương xứng của đối, chứ không đẩy lên thành đối chọi. Vì thế, câu thơ tạo ra vẻ cân xứng trang trọng, mở ra được nhiều chiều kích vô biên của không gian, mà không gây cảm giác gò bó, nệ cổ. Nghĩa là, một nét thi pháp cổ điển Đường thi đã được cách tân để phù hợp với tâm lí hiện đại.

– Cách sử dụng lời thơ: có những ngôn từ được dùng theo lối thơ Đường, cụ thể là học theo lối dùng từ láy, theo lối song song của Đỗ Phủ ở bài Đăng cao.

4 – Trang 50 SGK

Hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng” và hình ảnh “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa” gợi cho anh (chị) những cảm nghĩ gì?

Trả lời:

Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc:

“Củi một càng khô lạc mấy dòng”.

Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nỗi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. “Một” gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, “cành khô” gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, “lạc” mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên “mấy dòng” nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạt đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

“Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”

Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng “cánh chim” và “bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển. Tác giả muốn thể hiện nỗi cô đơn, bất lực và sự yếu ớt của con người trước cuộc sống. Cánh chim vốn đã nhỏ như lại càng nhỏ hơn khi được đặt trong tương quan với núi mây nặng nề và bóng chiều u ám. Cánh chim như một bóng dáng lẻ loi đơn độc của sự sống không thể nào xuyên thủng được bức thành sầu dày đặc.

5 – Trang 50 SGK

Tại sao có thể nói tình yêu thiên nhiên ở đây cũng chứa đựng lòng yêu nước thầm kín?

Trả lời:

Tình yêu thiên nhiên ở đây cũng chứa đựng lòng yêu nước thầm kín:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Những hình ảnh ước lệ, cổ điển như: mây, chim tạo nên một bức tranh chiều tà đẹp, hùng vĩ và vô cùng thơ mộng. Bóng chiều vốn vô hình nhưng ở đây lại được miêu tả như hữu hình. Chỉ bằng hai câu thơ đầu nhà thơ đã mang đến cho người đọc những cảm giác thân thuộc, gần gũi để rồi từ những cảnh quê ấy mà nói đến tình yêu và nỗi nhớ quê trong hai câu thơ sau.

Tâm trạng của tác giả “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, Huy Cận không cần đến thiên nhiên, tạo vật mà nó tiềm ẩn và bộc phát tự nhiên chính vì thế nên nỗi nhớ quê càng da diết, sâu sắc hơn. Và cứ như thế nỗi buồn sâu lắng, nỗi nhớ quê da diết cứ chầm chậm chảy trên bề mặt khổ thơ cuối.

Tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ là nỗi buồn non nước thể hiện lòng yêu quê hương đất nước thầm kín của một lớp thanh niên của chế độ cũ. Cảm hứng xuyên suốt Tràng giang là nỗi buồn miên man vô tận, là nỗi sầu nhân thế.

Bài luyện tập – Trang 50 SGK

Hãy tìm hiểu hai chiều không gian và thời gian, mối quan hệ giữa chúng trong bài thơ Tràng giang.

Gợi ý:

– Trong bài thơ, chúng ta thấy nổi lên hai loại không gian:

+ Đó là không gian mênh mông vô định của trời rộng, sông dài, mang cảm hứng vũ trụ (qua câu đề từ). Không gian ấy biểu hiện nỗi cô đơn của kiếp người. Không gian ba chiều xuất hiện trong khổ 2

+ Loại thứ hai hoang sơ, vắng vẻ, buồn, hiu hắt, không bóng người (Khổ 3), vừa hùng vĩ, vừa cô đơn (khổ cuối). Ban đầu ta có thể nhận thấy thấp thoáng hình ảnh con người qua con thuyền. Nhưng ngay sau đó, con thuyền cũng mất hút “Thuyền về nước lại, sầu trăm ngữ. Mọi tín hiệu về con người đều vắng. Trước thiên nhiên như thế, cái tôi thi sĩ, nhân vật trữ tình làm sao tránh được cảm giác bơ vơ, lạc loài, sầu tủi.

– Thời gian là buổi chiều đưa dần tới hoàng hôn, vừa cụ thể, vừa gợi cảm lại thể hiện đúng tâm trạng buồn hiu hắt của tác giả.

Tràng giang là một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp, được họa bằng những nét bút tài hoa, tinh tế. Cảm hứng của thi nhân qua hình tượng thơ là cảm hứng vũ trụ, mang vẻ đẹp u buồn của cái tôi lãng mạn trước sự khôn cùng của đất trời.

Qua bài thơ mới mang vẻ đẹp cổ điển, Huy Cận đã bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha.

[ĐỪNG SAO CHÉP] – Bài viết này chúng tôi chia sẻ với mong muốn giúp các bạn tham khảo, góp phần giúp cho bạn có thể để tự soạn bài Tràng giang một cách tốt nhất. “Trong cách học, phải lấy tự học làm cố” – Chỉ khi bạn TỰ LÀM mới giúp bạn HIỂU HƠN VỀ BÀI HỌC và LUÔN ĐẠT ĐƯỢC KẾT QUẢ CAO.

Soạn Văn 11 Siêu Ngắn Bài: Tràng Giang

Trả lời

Qua câu thơ đề từ cảm nhận được nỗi bâng khuâng, xao xuyến của tác giả trước sự mênh mông của con sông, đồng thời cảm nhận được nỗi nhớ da diết của tác giả.

Mối lên hệ với bức tranh thiên nhiên và tâm trạng nhà thơ trong bài: câu thơ định hướng cảm xúc chủ đạo của bài thơ nỗi buồn sầu lan tỏa, nhẹ nhàng mà sâu lắng trước cảnh trời rộng sông dài ( tràng giang), đồng thời tạo nên vẻ đẹp hài hòa, vừa cổ điển (của sông nước mây trời) vừa hiện đại ( của nỗi buồn nhớ bâng khuâng) của chàng thanh niên thời thơ mới.

Trả lời

Âm điệu chung của bài thơ là âm điệu buồn lặng lẽ, bâng khuâng, man mác da diết, sầu lặng.

Trả lời

Hình ảnh mang đậm sắc màu cổ điển : sóng, con thuyền, cồn cỏ đìu hiu, bến cô liêu, mây đùn núi bạc, cánh chim nghiêng. Đây là những thi liệu quen thuộc trong thơ ca cổ điển, những hình ảnh ấy gợi lên một sự vắng vẻ, lặng lẽ buồn.

Tuy nhiên, bức tranh Tràng Giang vẫn gần gũi, thân thuộc vì: cành củi khô, tiếng làng xa vãn chợ chiều. Hình ảnh, âm thanh giản dị, gần gũi, thanh đạm của cuộc sống, con người Việt Nam.

Trả lời

Ở khổ thơ cuối, Tâm trạng của tác giả “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, Huy Cận không cần đến thiên nhiên, tạo vật mà nó tìm ẩn và bộc phát tự nhiên chính vì thế nên nỗi nhớ quê càng da diết, sâu sắc hơn. Và cứ như thế nỗi buồn sâu lắng, nỗi nhớ quê da diết cứ chầm chậm chảy trên bề mặt khổ thơ cuối.

Trả lời

Kết hợp hài hòa những thi liệu mang nét cổ điển của văn học cổ điện với văn học hiện đại.Nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm.Cách ngắt nhịp 2/2/3 tạo nên những âm điệu buồn, man mác thể hiện rõ nét tâm trạng bâng khuâng của nhà thơ.Thể thơ thất ngôn: tạo nên không khí trầm mặc, cổ kính của thơ đường.

Trả lời

Cảm nhận không gian:

Mang cảm hứng vũ trụ (qua câu đề từ) mang cảm giác bao la, rộng lớn.

Không gian ba chiều xuất hiện trong thơ (khổ 2)

Không gian buồn, hiu hắt, con sông không bóng người (Khổ 3)

Không gian vừa hùng vĩ, vừa cô đơn (khổ cuối)

Cảm nhận thời gian: Thời gian ở đây là buổi chiều tà, cảm nhận thời gian vừa cụ thể, vừa gợi cảm lại thể hiện đúng tâm trạng buồn hiu hắt tác giả.

Trả lời

Huy Cận có mượn ý thơ của Thôi Hiệu, tuy nhiên trong thơ Thôi Hiệu phải có khói và sóng là những hình ảnh thiên nhiên thì mới gợi lên nỗi nhớ nhà. Trong khi đó, trong thơ Xuân Diệu những hình ảnh thiên nhiên đó luôn thường trực và tự nhiên bộc phát cho nên nỗi nhớ của Huy Cận da diết và sâu lắng hơn.

Soạn Văn Lớp 11: Tràng Giang

Câu 1: Lời đề từ ” bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài“:

– Hai chữ bâng khuâng thể hiện được nỗi niềm của nhà thơ: cảm giác bâng khuâng trước Tràng Giang rộng lớn.

– Trời rộng được nhân hóa nhớ sông dài hay chính là ẩn dụ cho nỗi nhớ của nhà thơ.

Có thể nói Tràng Giang đã triển khai một cách tập trung cảm hứng nêu ở câu đề từ.

Câu 2:

– Âm điệu chung của bài thơ là âm điệu buồn lặng lẽ, bâng khuâng, man mác da diết, sầu lặng. Nổi bật trong suốt bài thơ là âm điệu buồn – đều đều, dập dềnh như sông nước ở trên sông, vừa lai âm điệu trong lòng thi nhân khi đứng trước cảnh Tràng Giang lúc chiều xuống.

– Chủ yếu là nhịp thơ 3 – 4 tạo ra âm điệu đều đều. Âm điệu tựa như dập dềnh trên sông và sóng biển.

– Sự luân phiên BB/ TT/ BB – TT/ BB/ TT, nhưng lại có những biến thái với việc sử dụng nhiều từ láy nguyên với sự lặp lại đều đặn tạo âm hưởng trôi chảy triền miên cùng nỗi buồn vô tận trong cảnh vật và hồn người.

Câu 3:

– Bài thơ tạo dựng được một bức tranh thiên nhiên cổ kính, hoang sơ:

+ Không gian: mênh mông, bao la, rộng lớn ( Trời rộng sông dài).

+ Cảnh vật hiu quạnh, hoang vắng, đơn lẻ, hiu hắt buồn.

+ Hình ảnh ước lệ thường dùng trong thơ cổ: Tràng Giang; thuyền về, nước lại; nắng xuống, trời lên; sông dài, trời rộng; mây đùng núi bạc; bóng chiều; vời con nước; khói hoàng hôn; …

– Cổ kính, trang nghiêm, đậm chất Đường thi, nhưng Tràng Giang vẫn là một bài thơ rất Việt Nam, rất gần gũi và thân thuộc: dòng sông sóng lượn, con thuyền xuôi mái chèo, cành củi khô, tiếng làng xa vãn chợ chiều, … . Hình ảnh, âm thanh giản dị, thanh đạm của cuộc sống, con người Việt Nam.

– Sự hòa quyện của hai hệ thống hình ảnh vừa cổ điển, vừa gần gũi thân thuộc nêu trên tạo cho bài thơ một vẻ đẹp độc đáo: đơn sơ mà tinh tế, cổ điển mà quen thuộc.

Câu 4:

Trước Huy Cận đã có không ít các nghệ sĩ bày tỏ lòng yêu nước một cách xa xôi, bóng gió qua thơ văn như Gánh nước đêm của Trần Tuấn Khải, Thề non của Tản Đà, Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, … . Ở bài thơ này, nỗi buồn khi giang sơn bị mất chủ quyền đã hòa vào nỗi bơ vơ trước tạo vật thiên nhiên hoang vằng và niềm thiết tha với thiên nhiên tạo vật ở đây cũng là niềm thiết tha với quê hương đất nước.

Và thực tế, xét ở một phương diện nào đó thì Tràng Giang đúng là một bài thơ ” ca hát non sông đất nước; do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc” (Xuân Diệu).

Câu 5: Tràng Giang có nhiều nét đặc sắc nghệ thuật:

– Thể thơ thất ngôn trang nghiêm, cổ kính, với cách ngắt nhịp quen thuộc tạo nên sự cân đối, hài hòa. Thủ pháp tương phản được sử dụng triệt để: hữu hạn/ vô hạn; nhỏ bé/ lớn lao; không/ có; …

– Sử dụng thành công các loại từ láy: láy âm ( Tràng Giang, đìu hiu, chót vót, …), láy hoàn toàn ( điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn, …). Các biện pháp tu từ: nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, …

LUYỆN TẬP

Câu 1: Cảm nhận về không gian và thời gian trong bài thơ:

– Không gian: rộng lớn, mênh mang sóng nước, từ chiều dọc không gian mở ra chiều ngang, lan tỏa đôi bờ. Chiều thứ ba của không gian vũ trụ mở ra bầu trời sâu chót vót. Cả ba chiều không gian đều không có giới hạn, tất cả thấm sâu nối buồn nhân thế, nỗi cô đơn của nhà thơ.

– Thời gian từ hiện tại về quá khứ xa xôi. Rồi từ dòng sông về thời tiền sử, nhà thơ trở về hiện tại để tìm điểm tựa tinh thần ở quê hương, đất nước.

Câu 2:

Câu thơ cuối ” Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” gợi nhớ hai câu thơ của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc lâu:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng sử nhân sầu

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Bên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)

(Tản Đà dịch)

Cũng nói về khói sóng trong buổi hoàng hôn, cũng gợi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng lại có sự khác biệt tiêu biểu cho thơ cũ, thơ cổ điển và thơ mới, thơ hiện đại. Thơ cũ tả cảnh ngụ tình, cảnh vật khơi gợi tâm trạng. Thơ mới, thơ của cái tôi nội cảm, không cần mượn tới ngoại cảnh mà vẫn tự biểu hiện với những cung bậc cảm xúc thiết tha.

chúng tôi

Bài tiếp theo

Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Văn Lớp 11 Bài Tràng Giang Ngắn Gọn Hay Nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!