Bạn đang xem bài viết Soạn Văn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Soạn văn bài thơ về tiểu đội xe không kínhSoạn văn bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật I.Đọc – hiểu văn bản Câu 1.
a.Điểm khác biệt trong nhan đề bài thơ:
-Nhan đề dài, tạo sự độc đáo.
-Nhan đề làm nổi bật hình ảnh những chiếc xe không có kính. Đó là một phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó am hiểu hiện thực khốc liệt của chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn.
-Từ “bài thơ” đặt ở đầu tiên đề nhằm tạo ấn tượng về chất thơ của hiện thực ấy. Cuộc chiến đấu khốc liệt là một bài thơ, cuộc đời người chiến sĩ cũng là một bài thơ.
b.Hình ảnh những chiếc xe không có kính là một sáng tạo độc đáo:
Chiếc xe ô tô bình thường phải có kính chắn gió, chắn bụi: có mui che nắng, che mưa; có đèn để soi đường trong đêm tối. Những chiếc xe đưa vào trong thơ thì được “mỹ lệ hóa”. Vậy mà chiếc xe trong bài thơ là chiếc xe không bình thường. Nó là chiếc xe của thời chiến tranh. Nó không chỉ có một cái mà là cả tiểu đội xe không kính. Đó là một hình ảnh rất thực, rất trần trụi của những chiếc x era chiến trường: “khôn có kính”. Cách giải thích nguyên nhân không có kính cũng rất thực như một câu nói thường ngày:
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.
Chỉ vì bom giật bom rung mà chiếc xe không có kính rồi không có đèn, không có mui xe, thùng xe có nước. Chiến tranh ngày càng khốc liệt thì chiếc xe càng biến dạng trơ trụi. Nhưng thật lạ, những chiếc xe ấy vẫn bon bon vào chiến trường không gì ngăn cản nổi.
Câu 2. Hình ảnh người chiến sĩ lái xe.
a.Qua hình anh những chiếc xe không có kính đang bon bon trên đường ra trận, ta nhận thấy phẩm chất nổi bật ở người chiến sĩ lái xe là tư thê hiên ngang, tinh thần dũng cảm, coi thường gian khổ hiểm nguy. Trong bom đạn các anh vẫn ngẩng cao đầu:
Ung dung buồn lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng.
Thái độ bất chấp khó khăn gian khổ, hiểm nguy đã trở thành một nét đẹp rất độc đáo của người lính thời chống Mỹ. Trong bài thơ cấu trúc lặp lại “không có”, “ừ thì” góp phần khắc tạc chân dung những con người đứng cao hơn hoàn cảnh, đứng trên bom đạn. Coi nguy hiểm là dịp để thử sức, để chứng tỏ bản lĩnh chiến sĩ:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa…”
b.Không phải chỉ có tư thế ung dung lạc quan, thái độ bất chấp khó khăn nguy hiểm mà người lính còn là những chàng trai trẻ, sôi nổi, vui nhộn, lạc quan. Trên con đường vào miền Nam chiến đấu chúng ta đã thấy biết bao gương mặt hồn nhiên của:
“Mấy chàng lính trẻ măng tơ
Nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm sôi”
(Tố Hữu – Nước non ngàn dặm)
Hay những chàng trai, cô gái:
“Xôi nắm cơm đùm
Ríu rít theo nhau”
Trong thơ của Chính hữu. Nhưng hình ảnh người lính đầy chất lính và hết sức tinh nghịch thì phải tìm trong thơ Phạm Tiến Duật. Những nụ cười “ha ha”, những cái bắt tay vội vàng qua ô “cửa kinh vỡ”, những bữa cơm “chung bát đũa” giữa trời bom đạn đã gắn kết những người lính lại với nhau, tạo thành một gia đình lớn, gia đình chiến sĩ Trường Sơn thời chống mỹ. Cái gì đã tạo nên sức mạnh để người chiến sĩ coi thường gian khổ, bất chấp nguy nan. Đó chính là vì miền Nam yêu dấu. Khổ thơ cuối bài là linh hồn của bài thơ, nó thể hiện vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người chiến sĩ:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có múi xe, thùng xe có nước”
Cuộc chiến ngày càng ác liệt, chiếc xe ngày càng bị tàn phá nhưng:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Nhà thơ đã dùng những hình ảnh hoán dụ để miêu tả vẻ đẹp tâm hôn của người chiến sĩ lái xe. Lấy “trái tim” để nói tình cảm, tình yêu của người chiến sĩ. Tình yêu miền Nam, tình yêu tổ quốc có sức mạnh to lớn giúp họ vượt qua mọi khó khăn tiến về giải phóng miền Nam.
Câu 3. Ngôn ngữ giọng điệu của bài thơ đã góp phần quan trọng trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Giọng thơ ngang tàng có cả chất nghịch ngợm phù hợp với đối tượng miêu tả là những chàng trai trong chiếc xe không có kính.
“Không có kính không phải vì xe không có kín
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”.
Giọng điệu ấy làm cho lời thơ gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, rất tự nhiên nhưng vẫn rất thú vị, rất thơ.
Câu 4. Cảm nghĩ về thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ.
-Khâm phục những con người hiên ngang dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm, luôn tiến lên phía trước vì mục đích và lý tưởng cao đẹp.
-Yêu mến tính sôi nôi, vui nhộn, tinh nghịch lạc quan, dễ gần, dễ mến, dễ gắn bó giữa những người lính trong chiến tranh.
Soạn Văn 9: Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính
Soạn Văn: Bài thơ về tiểu đội xe không kính Bố cục:
– Phần 1: Hình ảnh chiếc xe không kính.
– Phần 2: Hình ảnh người lính lái xe.
Đọc hiểu văn bản Câu 1 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
– Nhan đề bài thơ quá dài, vừa gợi lên hình ảnh những chiếc xe, vừa cho ta thấy được phong thái ngang tàng của người lái xe.
– Chiếc xe không kính là một hình ảnh độc đáo, đó là chứng tích chiến tranh, cho thấy sự tàn khốc của chiến tranh, nhưng qua đó mà nhìn thấy những người lính dũng cảm, ung dung trước khó khăn gian khổ.
Câu 2 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Hình ảnh người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn:
– Tư thế ung dung, hiên ngang, sảng khoái đến bất tận Ung dung buồng lái ta ngồi … ùa vào buồng lái.
– Thái độ bất chấp khó khăn, nguy hiểm Không có kính ừ thì có bụi…ừ thì ướt áo… mặc kệ gió vào mắt, mặc kệ mưa bom, xe vẫn cứ đi.
– Tình đồng đội thắm thiết: Bắt tay qua cửa kính vỡ, chia sẻ khó khăn.
– Ý chí chiến đấu vì miền Nam: Một trái tim căm thù giặc, quyết tâm chiến đấu.
Câu 3 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, đầy tính ngang tàng pha chút nghịch ngợm. Điều đó góp phần thể hiện hình ảnh người lính ung dung, hóm hỉnh, trẻ trung.
Câu 4 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
– Hình ảnh người lính cho ta thấy sự gan dạ, bất chấp khó khăn, luôn tiến lên phía trước vì lí tưởng cao đẹp của thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ. Họ cũng là những người thật hóm hỉnh, trẻ trung và yêu đời.
– So với người lính trong bài Đồng chí, những người lính với chiếc xe không kính đều mang lòng yêu nước, lòng căm thù giặc với tình đồng đội thắm thiết. Chỉ có điều, người lính ở bài này trẻ trung hơn, hóm hỉnh hơn.
Luyện tập
(trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Những cảm giác, ấn tượng …
Phân tích khổ thơ thứ hai:
Khổ thơ thứ hai tràn ngập những hình ảnh gió, con đường, sao trời, cánh chim. Đó là những khó khăn phía trước, nhưng mọi thứ đều thật nhỏ bé trước lòng quyết tâm không lùi của những chiến sĩ trẻ. Lại thêm hình ảnh lãng mạn Thấy sao trời và đột ngột cánh chim – Như sa như ùa vào buồng lái làm cho chặng đường trở nên vui tươi, nhẹ nhàng hơn.
Soạn Văn Bài Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính
Soạn văn bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính
A.YÊU CẦU
HS cảm nhận được:
-Qua hình ảnh những chiếc xe không kính ngộ nghĩnh, độc đáo giữa tuyến đường Trường Sơn ác liệt trong thời kì chông Mĩ cứu nước, tác giả khắc hoạ hình ảnh nhưng ngươi lính lái xe hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, lạc quan yêu đời.
-Bài thơ đã thể hiện một cách sinh động và hiện thực cuộc sống chiến trường, ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khoẻ khoắn.
B.GỢl Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI, BÀI TẬP
I- Phần bài học
Câu hỏi 1. Nhan đề bài thơ có gì khác lạ? Một hình ảnh nổi bật trong bài thơ là những chiếc xe không kính. Vì sao có thể nói hình ảnh ấy là độc đáo?
Gợi ý
Nhan đề của bài thơ có hai điểm khác lạ: ‘Tiểu đội xe không kính” và “bài thơ”. Đưa vào thơ những chiếc xe không kính là một sự khác lạ. Từ “bài thơ” có vẻ như thừa nhưng thực ra đây là một chủ định của tác giả. Tác giả muốn tạo nên sự liên kết giữa thơ và cái chẳng có gì nên thơ: xe không có kính. Chất thơ hiện lên từ những gì trần trụi, khô khan, từ hiện thực gian khổ, ác liệt của chiến trường. Hình ảnh tiểu đội xe không kính là hình ảnh độc đáo của bài thơ.
Câu hỏi 2. Những chiếc xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh người lái xe trên tuyến đường Trương Sơn. Em hãy phân tích hình ảnh ngươi lính lái xe trong bài thơ (chú ý: tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn, nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ trong tình đồng đội, ý chí chiến đấu vì miền Nam).
Gợi ý
Hình ảnh những chiếc xe của tiểu đội hiện lên chân thật, bom đạn chiến trường làm cho kính xe bị vỡ, xe không còn đen, không còn mui, thùng xe bị xước,… Xe vào trận cùng sẻ chia với người lính những mất mát, hi sinh. Những người lính lái xe với tư thế rất đàng hoàng, hiên ngang:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thắng.
Họ lái xe với tinh thần dũng cảm, không ngại khó khăn, vượt qua bom rơi lửa đạn, không sự hi sinh:
-Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
-Những chiếc xe từ trong bom rơi
-Nhìn thấy gió vào xoa mắt dắng
-Bụi phun tóc trắng như người già
-Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Họ là những chàng trai trẻ tinh nghịch, lạc quan yêu đời, tình đồng chí, đồng đội thắm thiết:
-Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
-Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mật lấm cười ha ha.
-Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính võ rồi.
-Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Họ là những thanh niên tiêu biểu cho thế hộ trẻ Việt Nam trong thời kì chống Mĩ cứu nước, chiến đấu vì miền Nam ruột thịt:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chi cần trong xe có một trái tim.
Câu hỏi 3. Em có nhận xét gì về ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ này? Những yếu tố đó đã góp phần như thế nào trong việc khắc hoạ hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn?
Gợi ý
Ngôn ngữ của bài thơ giản dị, giọng điệu thơ pha chút ngang tàng, tinh nghịch của tuổi trẻ qua những khẩu ngữ như: ừ thì, chưa cần rửa, chưa cần thay, phì phèo châm điếu thuốc,… Đó là nét trẻ trung, hồn nhiên của các chiến sĩ. Giọng điệu thơ phản ánh tinh thần lạc quan yêu đời của chiến sĩ lái xe. Chính tinh thần lạc quan đó đà làm cho họ có thể ung dung, bình tĩnh vượt qua mọi khó khăn, gian khổ vượt qua những trận bom giật, bom rung để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ chi viện cho miền Nam.
Câu hỏi 4. Cảm nghĩ của cm về thế hệ trỏ thời kháng chiến chông Mĩ qua hình ảnh người lính trong bài thơ? So sánh hình ảnh người lính ở bài thơ này và ở bài Đồng chí.
Gợi ý
-Thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ là một thế hộ của những người anh hùng, sống có lí tưởng cao đẹp. Họ là những lớp thanh niên trẻ, khoẻ, đem tuổi thanh xuân của minh dâng hiến cho đất nước. Họ chiến đấu vơi tinh thần dùng cảm, không sợ hi sinh, lúc nào cũng phơi phới yêu đời. Dù bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng đều nêu cao tinh thần đồng đội.
-Hình ảnh người lính trong bài Đồng chí và hình ảnh người lính trong Bài thơ tiếu đội xe không kính là sự tiếp nối phẩm chất anh hùng của các thế hệ bộ đội cụ Hồ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Họ đều có chung một điều kiện sông, chiến đấu khó khăn, thiếu thốn nhưng đều có tinh thần vượt khó, không sợ hi sinh gian khổ, luôn lạc quan yêu đời, sông có lí tưởng cách mạng. Trong khó khăn gian khổ, đồng đội, đồng chí sát cánh, gắn bó bên nhau để hoàn thành nhiệm vụ.
II – Phần luyện tập
Bài tập 2. Những cảm giác, ấn tượng của người lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được tác giả diễn tả rất sinh động, cụ thể. Em hãy phân tích khổ thơ thứ hai để thấy rõ điều ấy.
Gợi ý
Khổ thơ thứ hai:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vảo tim
Thấy sao trời vù đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Khổ thơ miêu tá cụ thể, chính xác hình ảnh người lính lái xe ưên chiếc xe không có kính. Không có kính thì gió sẽ làm cho “mắt đắng”, không có kính thì con đường phía trước như “chạy thẳng vào tim”, và không có vật chắn nên sao trời, cánh chim “như sa như ùa vào buồng lái”. Đó là cảm giác thật, ấn tượng thật của người lái ngồi trên xe khi chiếc xe đang chạy với tốc độ cao. Những khó khăn, phiền toái khi chiếc xe không có kính được trình bày qua tinh thần lạc quan của người lính. Có vẻ như xe không có kính lại là một thuận lợi, một điều hay, một cơ hội dể ngươi lính khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời,…
Soạn Bài Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính
Soạn bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Bài giảng: Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)
Bố cục:
– Phần 1 : Hình ảnh chiếc xe không kính.
– Phần 2 : Hình ảnh người lính lái xe.
Đọc hiểu văn bảnCâu 1 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
– Nhan đề bài thơ quá dài, vừa gợi lên hình ảnh những chiếc xe, vừa cho ta thấy được phong thái ngang tàng của người lái xe.
– Chiếc xe không kính là một hình ảnh độc đáo, đó là chứng tích chiến tranh, cho thấy sự tàn khốc của chiến tranh, nhưng qua đó mà nhìn thấy những người lính dũng cảm, ung dung trước khó khăn gian khổ.
Câu 2 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Hình ảnh người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn :
– Tư thế ung dung, hiên ngang, sảng khoái đến bất tận Ung dung buồng lái ta ngồi … ùa vào buồng lái.
– Thái độ bất chấp khó khăn, nguy hiểm Không có kính ừ thì có bụi…ừ thì ướt áo… mặc kệ gió vào mắt, mặc kệ mưa bom, xe vẫn cứ đi.
– Tình đồng đội thắm thiết : bắt tay qua cửa kính vỡ, chia sẻ khó khăn.
– Ý chí chiến đấu vì miền Nam : một trái tim căm thù giặc, quyết tâm chiến đấu.
Câu 3 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, đầy tính ngang tàng pha chút nghịch ngợm. Điều đó góp phần thể hiện hình ảnh người lính ung dung, hóm hỉnh, trẻ trung.
Câu 4 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
– Hình ảnh người lính cho ta thấy sự gan dạ, bất chấp khó khăn, luôn tiến lên phía trước vì lí tưởng cao đẹp của thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ. Họ cũng là những người thật hóm hỉnh, trẻ trung và yêu đời.
– So với người lính trong bài Đồng chí, những người lính với chiếc xe không kính đều mang lòng yêu nước, lòng căm thù giặc với tình đồng đội thắm thiết. Chỉ có điều, người lính ở bài này trẻ trung hơn, hóm hỉnh hơn.
Luyện tập(trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Những cảm giác, ấn tượng …
Phân tích khổ thơ thứ hai :
Khổ thơ thứ hai tràn ngập những hình ảnh gió, con đường, sao trời, cánh chim. Đó là những khó khăn phía trước, nhưng mọi thứ đều thật nhỏ bé trước lòng quyết tâm không lùi của những chiến sĩ trẻ. Lại thêm hình ảnh lãng mạn Thấy sao trời và đột ngột cánh chim – Như sa như ùa vào buồng lái làm cho chặng đường trở nên vui tươi, nhẹ nhàng hơn.
Bài giảng: Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k6: chúng tôi
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:
Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính
Bài thơ: Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)
Bài giảng: Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
Nội dung Bài thơ về tiểu đội xe không kính I. Đôi nét về tác giả– Phạm Tiến Duật (1941- 2007)
– Quê quán: huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ
– Sự nghiệp sáng tác:
+ Năm 1964, ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
+ Tuy vậy ông không tiếp tục với nghề mình đã chọn mà quyết định lên đường nhập ngũ, đó cũng là nơi ông sáng tác ra rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng.
+ Năm 1970, ông đạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ, ngay sau đó Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam
+ Chiến tranh kết thúc, ông trở về làm tại ban Văn Nghệ, Hội nhà văn Việt Nam và là Phó trưởng Ban Đối ngoại Nhà văn Việt Nam. Đó quả là một thành tích đáng tự hào.
+ Năm 2001, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật
+ 19-11-2007 , ông được chủ tịch nước Nghuyễn Minh Triết trao tặng Huân chương lao động hạng nhì
+ Năm 2012, ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn Học Nghệ thuật
+ Các tác phẩm tiêu biểu: “Vầng trăng quầng lửa”, “Nhóm lửa”, “Tiếng bom và tiếng chuông chùa”…
– Phong cách sáng tác : thơ của Phạm Tiến Duật được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng: giọng điệu rất sôi nổi của tuổi trẻ vừa có cả sự ngang tàn tinh nghịch nhưng lại vô cùng sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát, tiêu biểu là bài ” Trường sơn Đông Trường Sơn Tây”
II. Đôi nét về tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính1. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ sáng tác năm 1969 trên tuyến đường Trường Sơn, trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt. Bài thơ thuộc chùm thơ được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969, in trong tập “Vầng trăng quầng lửa”
2. Bố cục
– Đoạn 1 (Khổ 1+2): Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính lái xe không kính
– Đoạn 2 (Khổ 3+4): Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính
– Đoạn 3 (Khổ 5+6): Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết của người lính lái xe
– Đoạn 4 (Khổ 7): Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam
3. Giá trị nội dung
Bài thơ khắc họa nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không kính qua đó làm nổi bật hình ảnh những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt, họ ung dung hiên ngang, dũng cảm lạc quan có tinh thần đồng chí đồng đội và một ý chí chiến đấu giải phóng Miền Nam.
4. Giá trị nghệ thuật
Bài thơ kết hợp thể thơ bảy chữ và tám chữ một cách tự nhiên. Đặc biệt nhất là có chất liệu hiện thực vô cùng sinh động của chiến trường, những hình ảnh sáng tạo rất đời thường. Ngôn ngữ và giọng điệu thơ giàu tính khẩu ngữ, ngang tàn và khỏe khoắn
III. Dàn ý phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kínhI. Mở bài
– Giới thiệu đôi nét về đề tài chiến tranh, người lính trong thơ ca: Đây là đề tài quen thuộc đã đi vào thơ ca của rất nhiều các tác giả tiêu biểu.
– Vài nét về tác giả Phạm Tiến Duật- một nhà thơ nổi tiếng với rất nhiều tác phẩm viết về đề tài chiến tranh
– “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với hình ảnh chủ đạo là chiếc xe không kính làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn với bao phẩm chất tốt đẹp.
II. Thân bài
1. Đôi nét về hoàn cảnh sáng tác tác phẩm
– Bài thơ ra đời vào năm 1969 trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra vô cùng ác liệt
– Bài thơ là lời ngợi ca vẻ đẹp của người lính cách mạng thời bấy giờ
2. Khổ 1+2 : Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính
– 2 câu thơ đầu: nhấn mạnh tư thế ung dung của người lính, đường hoàng đĩnh đạc, dám nhìn thẳng vào khó khăn gian khổ không hề run sợ né tránh
– 4 câu thơ tiếp theo:
+ Phép nhân hóa “gió vào xoa” “con đường chạy” , ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “mắt đắng”
⇒ tả thực cảm nhận của người lính với thế giới bên ngoài
+ “Thấy con đường chạy thẳng vào tim” : tốc độ trên chiếc xe đang lao vun vút ra mặt trận
⇒ con đường ấy còn là con đường giải phóng miền Nam, con đường của trái tim nồng nàn yêu nước
⇒ Chiến tranh tuy khốc liệt nhưng người lính vẫn cảm nhận bằng một tâm hồn trẻ trung đầy lãng mạn, qua khung cửa, mọi vật dường như cũng muốn theo người lính ra chiến trường.
⇒ chất thơ của cuộc chiến đấu
3. Khổ 3+4: Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính
– 2 câu thơ đầu khổ 3+ 2 câu thơ đầu khổ 4:
+ Người lính phải đối mặt với bao khó khăn, khắc nghiệt của thời tiết ở Trường Sơn: “bụi phun tóc trắng”, “mưa tuôn mưa xối”
+ Nhưng sáng ngời ở họ vẫn là sự anh dũng đón nhận những khắc nghiệt “không có… ừ thì”: thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi hiểm nguy gian khó, coi đó như một yếu tố tất yếu trong cuộc sống chiến đấu
– 2 câu thơ cuối khổ 3+ 2 câu thơ cuối khổ 4:
+ Người lính đối mặt với khó khăn gian khổ bằng giọng cười “ha ha”
⇒ Thái độ lạc quan
+ Các từ láy tượng hình tượng thanh “ha ha”, “phì phèo” ẩn dụ thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời của các anh
⇒ Đây là vẻ đẹp trong tâm hồn các anh, là chất thơ vút lên từ hiện thực chiến đấu thật đáng ngợi ca và trân trọng
5. Khổ 5+6: Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết
– 4 câu thơ khổ 5:
+ “Đã về đây họp thành tiểu đội” : Những chiếc xe từ gian khổ hiểm nguy cùng chung một nhiệm vụ nên đã tập hợp thành “tiểu đội xe không kính”
+ “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”: chi tiết chân thực nhưng rất hóm hỉnh, qua cái bắt tay, người lính tiếp thêm cho nhau sức mạnh, trao cho nhau tình đồng chí, đồng đội thắm thiết
– 2 câu thơ đầu khổ 6:
+ “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời”: chiến tranh buộc họ phải dựng bếp ăn giữa “trời”, nhưng họ vẫn ung dung và coi đó như một lẽ tự nhiên
+ “chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”: Chính tình đồng chí đồng đội đã hóa gia đình, cách người lính lái xe định nghĩa về gia đình thật giản dị và độc đáo
⇒ Hai tiếng “gia đình” thật thiêng liêng chan chứa tình cảm, họ truyền cho nhau sức mạnh để chiến đấu
– 2 câu thơ cuối khổ 6:
+ Điệp ngữ “lại đi” kết hợp với nhịp thơ: nhịp bước hành quân của các anh đến với những chặng đường mới
+ Hình ảnh “trời xanh thêm” : ý nghĩa tượng trưng sâu sắc thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, chan chứa hi vọng, đó còn là hoán dụ chỉ hòa bình
6. Khổ 7: Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam
– 2 câu đầu: Vẫn là những khó khăn nhưng giờ đây được tăng thêm gấp bội “không kính”, “không đèn”, “không mui xe”, “thùng xe có xước”: khó khăn tăng thêm như cản đi bước chân của người chiến sĩ
– 2 câu cuối
+ Lời khẳng định: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”: Lời khẳng định chắc nịch bất chấp mọi gian khổ, khó khăn
+ ” Chỉ cần trong xe có một trái tim”: Hình ảnh “trái tim” là hoán dụ chỉ người lính lái xe nồng nàn yêu nước và sục sôi căm thù quân xâm lược nhưng cũng mang nghĩa ẩn dụ: nhiệt huyết cách mạng, lòng trung thàn, dũng cảm
III. Kết bài
– Khẳng định lại những nét tiêu biểu, đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của bài thơ: ngôn ngữ giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn, sử dụng nhiều biện pháp tu từ quen thuộc…
– Bài thơ đã khắc họa chân thực nhất vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn với tư thế ung dung hiên ngang, tinh thần lạc quan dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và ý chí giải phóng miền Nam. Vẻ đẹp của các anh cũng là tiêu biểu cho thế hệ thanh niên những năm đánh Mĩ
Bài giảng: Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k6: chúng tôi
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:
Các bài Soạn văn lớp 9 siêu ngắn được biên soạn bám sát câu hỏi sgk Ngữ Văn lớp 9 Tập 1, Tập 2 giúp bạn dễ dàng soạn bài Ngữ Văn 9 hơn.
tac-gia-tac-pham-lop-9.jsp
Soạn Bài: Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính
I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
1. Phạm Tiến Duật (1941 – 2007), quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Thơ ông tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Giọng điệu thơ Phạm Tiến Duật trẻ trung, sôi nổi, tinh nghịch mà sâu sắc.
2. Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ đạt giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969.
3. Qua hình ảnh những chiếc xe không kính và người chiến sĩ lái xe, tác giả ca ngợi những người chiến sĩ lái xe trẻ trung, hiên ngang, bất chấp khó khăn nguy hiểm ngày đêm lái xe chi viện cho chiến trường, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN1. Nhan đề của bài thơ có hai điểm khác lạ. Thứ nhất là có từ bài thơ. Có thể chỉ cần viết Tiểu đội xe không kính cũng là đủ. Tác giả muốn nhấn mạnh đây là bài thơ chứ không phải là câu chuyện. Thứ hai là xe không kính. Các xe ô tô đều có kính, nhưng xe không kính thì chỉ có ở chiến trường khi đánh Mĩ. Mà có cả tiểu đội chứ không phải một chiếc xe đơn lẻ. Vậy xe không kính không phải là ít.
Những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn là những con người có tư thế rất đường hoàng. Họ ung dung ngồi vào buồng lái, điều khiển xe chạy giữa chiến trường mưa bom bão đạn. Họ mất ngủ, chịu bụi, chịu ướt áo. Nhưng họ không phàn nàn, không kêu ca. Bụi thì họ châm điếu thuốc : nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Ướt thì họ đi tiếp : Chưa cần thay lái trăm cây số nữa – Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Chiếc xe vỡ kính, hỏng đèn, xước thùng, hỏng mui. Thế nhưng các chiến sĩ vẫn lái, vẫn đưa xe lên chạy về phía trước. Họ là những thanh niên tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì chống Mĩ cứu nước.
3. Ngôn ngữ của bài thơ giống với lời ăn tiếng nói hằng ngày. Những từ khẩu ngữ như ừ thì, chưa cần rửa, chưa cần thay, phì phèo châm điếu thuốc, nghĩa là gia đình đấy làm cho câu thơ bình dị, phản ánh sự trẻ trung, hồn nhiên của chiến sĩ. Giọng điệu bài thơ có chút lí sự, tinh nghịch của những người trẻ tuổi: Không có kính không phải vì xe không có kính ; Không có kính ừ thì có bụi; Không có kính, ừ thì ướt áo ; Chưa cần rửa…; Chưa cần thay… Giọng điệu đó phản ánh tinh thần lạc quan pha chút tinh nghịch của chiến sĩ lái xe. Chính tinh thần lạc quan đó đã làm cho họ có thể ung dung, bình tĩnh vượt qua mọi khó khăn, gian khổ cùng những trận bom giật, bom rung để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ chi viện cho miền Nam.
4. Thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ là một thế hệ dũng cảm. Họ đã đem tuổi xuân phục vụ cho khắp các mặt trận. Họ trực tiếp cầm súng hoặc cung cấp đạn dược, lương thực cho chiến trường. Họ là các chiến sĩ vận tải, là những đội viên thanh niên xung phong… Bất cứ ở đâu, họ đều có tác phong đường hoàng. Họ trẻ, khoẻ, vui. Tính chất sôi nổi ấy thể hiện trong việc bắt tay đồng đội qua cửa kính vỡ, qua việc dựng lán, chung bát đũa nghĩa là gia đình. Tinh thần yêu đời, lạc quan ấy đã cho họ một sức mạnh đeểhắc phục những khó khăn. Họ vượt qua bom giật, chiến thắng bom rung, vượt qua bụi, mưa, và những hư hại của xe cộ. Lại đi, lại đi trời xanh thêm là bài hát của họ, là khẩu hiệu và cũng là hoạt động thực tế của họ.
Nếu so với người lính trong bài Đồng chí ta thấy thế hệ người lính chống Mĩ trẻ trung hơn, họ có phương tiện đầy đủ hơn (có ô tô chở người, vũ khí, đạn dược). Không thấy sự thiếu thốn, cũng không thấy nói nhiều đến cơn sốt (Mặc dù thời chống Mĩ củng có nhiều chiên sĩ bị sốt và nhiều bài thơ nói về cơn sốt). Các phương tiện như áo quần, giày dép đủ hơn, lại có võng mắc trên đường ra trận. Tuy có nét khác nhau nhưng đều giống nhau ở tinh thần đoàn kết, khắc phục mọi khó khăn, quyết chiến, quyết thắng
III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬPNhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Đó là những cảm giác của người chiến sĩ lái xe khi lái chiếc xe không có kính. Kính của xe vô cùng quan trọng. Nó để chắn gió, để chắn bụi và vật thể lạ, đảm bảo an toàn cho người lái. Thế nhưng khi không có kính, người lái xe phải chịu những khó khăn trực tiếp và những phiền toái do thiếu kính chắn gây ra. Trong khổ thơ, những khó khăn, phiền toái đó lại được trình bày như là thuận lợi. Người lái trực tiếp nhìn thấy gió vào để xoa dịu đôi mắt thiếu ngủ (mắt đắng – một sự chuyển đổi cảm giác tài tình). Con đường như chạy thẳng vào tim. Sao trời và cánh chim thì như sa, như ùa vào buồng lái, cùng bè bạn với người chiến sĩ. Những cảm giác đó rất thực nhưng lại được nhìn và phản ánh với góc độ lạc quan nên có vẻ như không có kính lại là một điều hay, một cơ hội để khám phá. Chính tinh thần lạc quan đã biến khó khăn, trở ngại thành điều thuận lợi, dễ chịu.
Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Văn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!