Bạn đang xem bài viết Soạn Văn 9 Vnen Bài 13: Làng được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Soạn văn 9 VNEN Bài 13: Làng
A. Hoạt động khởi động
(Học sinh tự nghiên cứu)
B. Hoạt động hình thành kiến thức
a) Kim Lân đã đặt nhân vật vào một tình huống truyện như thế nào? Việc tạo tình huống truyện nhằm mục đích gì?
Trong truyện ngắn “Làng”, nhà văn Kim Lân đã đẩy nhân vật vào một tình huống truyện đầy bất ngờ, éo le và gay gắt: ông Hai là một người rất yêu và tự hào về làng chợ Dầu của mình. Ấy vậy mà ông lại nghe được cái tin làng chợ Dầu của ông theo giặc, lập tề từ miệng của những người dân tản cư.
Tình huống truyện đầy gay cấn này giúp tạo nên một nút thắt cho câu chuyện. Qua đó tạo điều kiện để diễn biến tâm lí gay gắt, những mâu thuẫn giằng xé trong nhân vật ông Hai, làm bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước ở ông.
b. Hoàn thành bảng sau (vào vở) để thấy được diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai từ lúc nghe tin làng mình theo giặc đến lúc kết thúc truyện
Trước khi nghe tin xấu về làng
Ông lão nhớ làng da diết, muốn trở về làng, cùng anh em trong làng tham gia kháng chiến.
Ông Hai lúc này đang trong tâm trạng vô cùng vui sướng, náo nức, vui mừng và tự hào trước thành quả cách mạng của quân ta: “ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá”.
Ông mong trời nắng cho Tây nó chết.
Ông luôn quan tâm đến tình hình chiến sự, đến các tin chiến thắng của quân ta.
Khi nghe tin làng theo Tây
Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rảnh rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin.
Liệu có thật không hả bác, hay chỉ lại…
Ông Hai sững sờ, bàng hoàng, xấu hổ, uất ức: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”.
Đau đớn, tủi hổ vì cái tin ấy
Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ dúng hắt hủi đấy ư…”.
Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”.
Về đến nhà ông nằm vật ra giường rồi tủi thân nhìn lũ con “nước mắt ông lão cứ giàn ra”
Ban đầu
Những ngày sau đó
Khi nói chuyện với con
Suốt mấy ngày ông không dám ló mặt ra ngoài. Lúc nào cũng nơm nớp lo sợ. Ông chỉ quanh quẩn ở nhà và nghe ngóng tình hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam – nhông… là ông lủi ra một nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”
“Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”
Nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai cũng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái tin làng mình theo giặc.
Ông bế tắc và tuyệt vọng khi nghĩ về tương lai của mình và gia đình.
Ông băn khoăn không biết có nên tin hay không vì ở làng ông ” họ toàn là những người có tinh thần cả mà …”. Song chứng cứ như vậy thì sai làm sao được nên ông phải tin.
Mụ chủ nhà biết chuyện và có ý đuổi khéo gia đình ông đi
Ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng ngay lập tức ông đã gạt phắt ý nghĩ đấy đi.
Trong lúc đau khổ, tuyệt vọng, ông chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình vào những lời thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ ngây thơ.
Trong tâm trạng đầy đau khổ và bế tắc, những lời trò chuyện giúp ông vợi bớt đi nỗi dằn vặt về quyết định của mình.
Thế nhà con ở đâu?
Thế con có thích về làng chợ Dầu không?
Ông “bô bô” khoe với mọi người về cái tin làng ông bị “đốt nhẵn”, nhà ông bị “đốt nhẵn”.
Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính…cải chính cái tin làng Chợ Dầu em Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn sai sự mục đích cả!
Vui mừng, phấn khỏi và hạnh phúc tột cùng.
c) Em hãy đọc lại đoạn ông hai trò chuyện với đứa con út từ “Ông lão ôm thằng con út lên lòng” đến “cũng vợi đi được đôi phần” và tìm những chi tiết thể hiện xung đột nội tâm của nhân vật ông Hai. Qua cách ông Hai suy nghĩ về tình yêu làng quê và lòng yêu nước, em có nhận xét gì về người nông dân này?
Những chi tiết thể hiện xung đột nội tâm của nhân vật ông Hai:
– “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”
– “Mấy hôm nay ru rú ở xó nhà, những lúc buồn khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ông lại thủ thỉ với con như vậy. Ông nói như để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa.”
– …
Qua cách ông Hai suy nghĩ về tình yêu làng quê và lòng yêu nước, ta có thể thấy trong người nông dân này đã mang một nét đẹp mang tinh thần thời đại. Tình yêu làng quê, quê hương được mở rộng và thống nhất với tình yêu đất nước, yêu kháng chiến, trung thành với cách mạng, với cụ Hồ. Đây là một nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng lúc bấy giờ. Có thể nói, nhân vật ông Hai là hình ảnh tiêu biểu cho người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
A: Cái hay của truyện được tạo nên từ việc tạo dựng tình huống truyện đặc sắc.
B: Cách miêu tả tâm lí nhân vật mới là thành công của truyện.
Em có đồng ý với ý kiến của bạn không? Lí giải ý kiến của em.
3. Đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự
Đọc đoạn trích và trả lời câu hỏi
a) Trong ba câu đầu đoạn trích, ai nói với ai? Tham gia câu chuyện có ít nhất mấy người? Dấu hiệu nào cho ta thấy đó là một cuộc trò chuyện qua lại?
Trong ba câu đầu đoạn trích là hai người phụ nữ tản cư nói chuyện với nhau.
Tham gia câu chuyện có ít nhất 2 người.
Những dấu hiệu nào cho ta thấy đó là một cuộc trò chuyện qua lại:
Ở mỗi lượt lời (trao và đáp) đều được đánh dấu gạch đầu dòng.
Có hai lượt lời qua lại, hỏi và đáp, nội dung trong câu nói của mỗi người đều hướng tới người tiếp chuyện.
b) Câu “Hà, nắng gớm, về nào…” ông Hai nói với ai? Đây có phải là một câu đối thoại không? Vì sao? Trong đoạn trích còn có câu nào kiểu này không? Em hãy tìm dẫn chứng?
Câu “Hà, nắng gớm, về nào…” ông Hai tự nói với chính mình.
Trong đoạn trích này còn có câu độc thoại tương tự: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này!”.
c) Các hình thức diễn đạt trên có tác dụng như thế nào trong việc kể lại diễn biến của câu chuyện và thái độ của những người tản cư trong buổi trưa ông Hai gặp lại họ? Đặc biệt chúng đã giúp nhà văn thể hiện thành công những biểu hiện tâm lí của nhân vật ông Hai như thế nào?
C. Hoạt động luyện tập
1. Luyện tập đọc hiểu truyện ngắn “Làng”
Chọn phân tích một đoạn miêu tả tâm lí nhân vật ông Hai trong truyện. Trong đoạn văn ấy, tác giả đã sử dụng những biện pháp nào để miêu tả tâm lí nhân vật?
Đoạn văn miêu tả tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc:
“Ông Hai cúi gằm xuống mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà. Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hôm nay có vẻ khác, len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau. Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu…Ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên:
– Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.”
Trong đoạn văn trên, tác giả đã sử dụng biện pháp độc thoại nội tâm để nhân vật ông Hai chất vất chính mình, diễn tả những day dứt, xót xa, tủi nhục của nhân vật. Ông cảm thấy xấu hổ, niềm tin như bị đổ vỡ, ngôi làng mà ông coi là niềm tự hào nay lại bán nước theo giặc. Ông nhìn sang lũ con mà tủi thân, trào nước mắt. Qua đoạn trích, tác giả đã thể hiện sâu sắc tâm trạng của nhân vật, sự bất ngờ khi nghe tin làng theo giặc. Sự kiện này đã có tác động rất lớn đến suy nghĩ và tình cảm của ông Hai.
2. Chương trình địa phương
Tìm hiểu về phương ngữ
a) Chỉ ra những từ ngữ địa phương có trong đoạn trích. Những từ ngữ đó thuộc phương ngữ nào?
+ Mẹ/Mạ/Má
+ Bố/Bọ/Ba, tía
c) Việc sử dụng từ ngữ địa phương trong đoạn trích có tác dụng gì?
Việc sử dụng từ ngữ địa phương trong đoạn trích ” Mẹ Suốt” phát huy tác dụng nhằm khắc họa rõ nét những đặc trưng có tính chất địa phương của nhân vật. Do đó làm cho hình ảnh mẹ Suốt càng chân thực, sinh động.
d) Hãy tìm một số phương ngữ mà em biết.
Các phương ngữ chính trong Tiếng Việt:
– Phương ngữ bắc (Bắc Bộ): này, thế, thế ấy, đâu, chúng tao,…
– Phương ngữ trung (Bắc Trung Bộ): ni, nì, này, ứa, rứa tề, rứa đó, mô, choa, bọn choa , tụi tau,…
– Phương ngữ nam (Nam Trung Bộ và Nam Bộ): nầy, vậy, vậy đó, đâu, tụi tao,…
Mãi khuya, bà Hai mới chống gối đứng dậy. Bà lẳng lặng xuống bếp châm lửa ngồi tính tiền hàng. Vẫn những tiền cua, tiền bún, tiền đỗ, tiền kẹo,… Vẫn cái giọng rì rầm, rì rầm thường ngày.
– Này, thầy nó ạ.
Ông Hai nằm rũ ra ở trên giường không nói gì.
– Thầy nó ngủ rồi à?
– Gì?
Ông lão khẽ nhúc nhích.
– Tôi thấy người ta đồn…
Ông lão gắt lên:
– Biết rồi!
Bà Hai nín bặt. Gian nhà lặng đi hiu hắt…
(Kim Lân, Làng) 4. Luyện nói Tự sự kết hợp với nghị luận và miêu tả nội tâm
– Tâm trạng của em sau khi để xảy ra một chuyện có lỗi đối với người thân của mình.
– Kể lại buổi sinh hoạt lớp, ở đó em đã phát biểu ý kiến để chứng minh Nam là một ngươi bạn rất tốt.
– Dựa vào nội dung truyện ngắn Làng, hãy đóng vai ông hai kể lại câu chuyện khi nghe tin làng theo Tây và bày tỏ thái độ của ông với làng quê, đất nước và cuộc kháng chiến.
Lưu ý:
– Sử dụng các yếu tố nghị luận, miêu tả nội tâm, các hình thức đối thoại, độc thoại.
– Không viết thành bài văn, chỉ nêu ra các ý chính mà em sẽ trình bày
– Luyện tập nói ở nhà, hình dung trước: mở đầu nên nói gì, sau đó lần lượt nói về các nội dung gì và kết thúc như thế nào?
Đề 1:
A. Mở bài: (dạng nêu kết quả trước)
– Giới thiệu hoàn cảnh sau khi xảy ra chuyện kết hợp tả chút về cảnh(hè oi ả/ đông lành lạnh/ những cơn gió lướt qua…; cỏ cây hoa lá, cảnh vật…)
– Nêu một chút về tâm trạng ở phần mở đầu sẽ ấn tượng hơn (tôi buồn, ân hận, day dứt…)
– Nêu sự việc có lỗi với người thân của mình ( tại sao tôi có thể…; nói lên là người thân thế nào, tốt ra sao… để nêu bật sự hối hận)…
B. Thân bài:
– Giới thệu hoàn cảnh xảy ra chuyện có lỗi với người thân mình(lúc ấy làm sao, giới thiệu như trên nhưng hai phần phải có sự khác biệt trong cả cách tả, kể cũng như tính chất của hoàn cảnh.
– Diễn biến của câu chuyện (tại sao lại như thế, dần dần kể lại câu chuyện đó với thái độ ân hận, buồn…)
– Kết quả là người ấy giận hay im lặng (nên chọn im lặng để bộc lộ nội tâm), bản thân bạn đã xử sự ntn…
– Bộc lộ nội tâm xen trong phần kể chuyện (thái độ ân hận…)
C. Kết bài: Nêu ra (khẳng định lại) là bạn ân hận ra sao, kết quả là bây giờ tình bạn đó ra sao, điều đó để lại cho bạn suy nghĩ thế nào về người thân, về bản thân, kinh nghiêm, bài học rút ra…
Đề 2:
A. Mở bài: Giới thiệu buổi sinh hoạt lớp sẽ kể
B. Thân bài: Kể lại diễn biến buổi sinh hoạt
Không khí buổi sinh hoạt
Nội dung sinh hoạt
– Cô giáo chủ nhiệm sơ kết hoạt động tuần qua, phổ biến kế hoạch tuần tới và kiện toàn lại tổ chức lớp, Nam được cô giáo cử làm lớp trưởng.
– Ý kiến phát biểu: có ý kiến cho rằng Nam không tốt :ích kỉ, trầm lặng…
– Ý kiến phát biểu của em về bạn Nam: dùng lí lẽ,dẫn chứng khẳng định, thuyết phục mọi người Nam là người tốt.
Thái độ và suy nghĩ của các bạn sau lời phát biểu của em.
C. Kết bài
Rút ra bài học về cách nhìn nhận, đánh giá một con người.
D. Hoạt động vận dụng
1. Trao đổi với bạn bè trong lớp về việc giữ gìn truyền thống dân tộc, phát huy lòng yêu nước bắt nguồn từ những điều giản dị nhất.
(Học sinh tự thực hành tại lớp)
Bài viết tham khảo
Kết thúc buổi liên hoan chia tay, tôi mang trong lòng một nỗi buồn nặng trĩu. Ngày mai tôi sẽ rời xa Hà Nội để đi du học, vậy mà người bạn thân nhất của tôi là Hằng lại không đến tham dự. Đang lan man suy nghĩ, bỗng có tiếng nói của Lan cất lên từ phía sau:
– Cậu đang suy nghĩ điều gì mà nhìn tâm trạng thế?
Tôi quay lại nhìn Lan và trả lời:
– Ừ, không có gì đâu.
Tôi mở lá thư ra đọc, từng dòng chữ khiến tôi bồi hồi xúc động. Hằng vẫn nhớ tất cả những kỉ niệm giữa chúng tôi ư? Dù bận chăm sóc mẹ ốm nhưng Hằng vẫn rất chu đáo, phải chăm tôi đã trách lầm Hằng? Lúc này tự dưng trong lòng tôi dâng lên một niềm cảm xúc khó tả. Không thể kìm nén nổi lòng mình, tôi thốt lên:
– Hằng ơi! Cậu mãi là người bạn tốt của tớ trong cuộc đời này.
E. Hoạt động tìm tòi mở rộng
1. Sưu tầm và giới thiệu với các bạn trong lớp 1-2 truyện ngắn hoặc bài thơ viết về tình cảm quê hương, đất nước.
2. Sưu tầm và trao đổi với cha mẹ, những người lớn tuổi trong gia đình về một số phương ngữ nơi em sinh sống.
( Học sinh tự nghiên cứu)
Những bài thơ viết về tình cảm quê hương, đất nước:
– Việt Nam quê hương ta – Nguyễn Đình Thi
– Quê hương – Đỗ Trung Quân
– Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm
– Quê hương – Tế Hanh
– Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân
Soạn Văn 7 Vnen Bài 13: Tiếng Gà Trưa
Soạn văn 7 VNEN Bài 13: Tiếng gà trưa
A. Hoạt động khởi động
(Trang 81 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1).1. Khổ thơ sau nói về nội dung cảm xúc gì?
Nhớ bà bên bếp lửa hồng
Nhớ bà bên luống cải ngồng vàng ươm
Nhớ bà gành nước thổi cơm
Lon ton cháu chạy trên con đường làng.
(Trang 81 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1).2. Chia sẻ 1 kỉ niệm của em đc gợi ra từ khổ thơ trên
Trả lời
1. Khổ thơ viết về những kỉ niệm của hai bà cháu, qua đó thể hiện tình yêu thương, nỗi nhớ của người cháu đối với người bà.
2. Một kỉ niệm đáng nhớ với bà đó chính là những câu chuyện truyền thuyết bà kể khi tôi còn ấu thơ.
B. Hoạt động hình thành kiến thức
1. Đọc văn bản sau: Tiếng gà trưa
(Trang 83 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1).2. Tìm hiểu văn bản:
a. Cảm xúc của nhà thơ được khơi gợi từ sự việc nào? Theo âm thanh của “tiếng gà trưa”, hãy ghi lại mạch cảm xúc của tác giả bài thơ?
Trả lời
a. Cảm hứng được khơi gợi từ sự việc: Khi dừng chân trong 1 xóm nhỏ giữa chặng đường hành quân người chiến sĩ nghe thấy tiếng gà nhà ai nhảy ổ. Bỗng những kỉ niệm tuổi thơ bên bà ùa về bên tác giả.
Diễn biến mạch cảm xúc: hiện tại – quá khứ – hiện tại.
Mạch cảm xúc tự nhiên mà đầy sức gợi. Từ tiếng gà cục tác đến những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ, hình ảnh người bà tần tảo, khắc sâu hình ảnh quê hương.
(Trang 83 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1). b. Từ “tiếng gà trưa”, những hình ảnh và kỉ niệm nào của tuổi thơ đã sống dậy một cách cụ thể và xúc động trong tâm trí nhà thơ? Điều đó giúp em nhận ra những tình cảm nào của người viết.
Trả lời
Từ “tiếng gà trưa”, những hình ảnh và kỉ niệm của tuổi thơ đã sống dậy một cách cụ thể và xúc động trong tâm trí nhà thơ:
– Hình ảnh đàn gà: Hình ảnh những con gà mái mơ, mái vàng và ổ trứng hồng đẹp như trong tranh.
– Tiếng bà mắng cháu: khi một lần người cháu tò mò xem gà đẻ trứng, kỉ niệm về tuổi thơ nơi làng quê bình dị.
– Hình ảnh người bà: chắt chiu từng quả trứng, chăm lo cho cháu.
(Trang 83 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1). c. Em cảm nhận được gì về hình tượng người bà và tình cảm của bà cháu trong bài thơ?
Trả lời
Tình cảm bà cháu thật sâu đậm và thắm thiết. Bà là người tần tảo, chịu thương, chịu khó chăm sóc cháu. Bà cố gắng chắt chiu từng quả trứng, để dành từng con gà để mua cho cháu bộ quần áo mới. Bà luôn chăm lo cho cháu dù cuộc sống có nhiều khó khăn. Khi lớn lên người cháu dù có xa quê hương nhưng người cháu vẫn luôn biết ơn, yêu quý, nhớ đến bà, nhớ quê hương.
(Trang 83 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1). d. Về ý nghĩa của bài thơ, có ý kiến cho rằng: bài thơ là tình cảm bà cháu đằm thắm, sâu nặng. Nhưng cũng có ý kiến nhấn mạnh: bài thơ là sự hòa điệu giữa tình cảm gia đình, tình bà cháu và tình quê hương, đất nước. Em tán thành với ý kiến nào. Vì sao?
Trả lời
Em tán thành với cả 2 ý kiến vì những tình cảm lớn lao được bắt nguồn từ tình yêu nhỏ bé, giản dị nhất: tình yêu “ổ trứng trẻ thơ”, yêu bà trở thành tình yêu làng quê, yêu đất nước.
(Trang 83 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1).e. Theo em, bài thơ có gì đặc sắc, độc đáo về thể thơ, ngôn từ thơ, cách gieo vần, hình ảnh thơ, các biện pháp nghệ thuật? Những đặc điểm ấy đã góp phần thể hiện thành công tình cảm cảm xúc của nhà thơ như thế nào?
Trả lời
– Về thể thơ: được viết theo thể ngũ ngôn, thường mỗi khổ trong một bài ngũ ngôn có 4 câu nhưng bài này chỉ có ba khổ 4 câu, các khổ khác có đến 5 hoặc sáu câu, riêng khổ thứ nhất có đến 7 câu.
– Cách gieo vần trong bài thơ cũng rất linh hoạt khơi gợi cảm xúc.
– Hình ảnh thơ bình dị, quen thuộc.
(Trang 84 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1).3. Tìm hiểu về điệp ngữ
a. Trong bài thơ Tiếng gà trưa, những từ ngữ nào được lặp đi lặp lại nhiều lần.
b. Theo em tác dụng của việc lặp đi lặp lại những từ ngữ ấy là gì?
c. Từ những nội dung vừa thực hiện,hãy đọc và hoàn thiện nhận định sau:
Điệp từ là biện pháp……………để………………….
Trả lời
a. Trong bài tiếng gà trưa có từ lặp đi lặp lại là: vì, nghe, này.
b. Gợi lên tâm tư tình cảm của người lính trẻ trên đường hành quân xa. Tiếng gà trưa đã đánh thức những suy tư, hồi ức về bà.
c. Điệp từ là biện pháp lặp đi lặp lại từ để khơi gợi, nhấn mạnh cảm xúc của người cháu về bà khi đi hành quân
(Trang 84 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1).d. Điệp ngữ có dạng: điệp ngữ cách quãng, điệp ngữ nối tiếp, điệp ngữ chuyển tiếp (điệp ngữ vòng). Hãy nối các dạng điệp ngữ trên bới các ví dụ minh họa mà em cho là phù hợp, từ đó nêu cách hiểu của em về từng dạng điệp ngữ
Trả lời
1-c
2-a
3-b
4. Tìm hiểu về thơ lục bát
(Trang 84 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1). a. Đọc những thông tin (trang 84 sách vnen ngữ văn 7 tập 1).
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao
(1) Văn bản trên được viết theo thể nào? Vì sao em biết?
(2) Dựa vào mô hình nêu ở mục a, hãy kẻ bảng và điền các kí hiệu B,T,V ứng với mỗi tiếng của văn bản này.
(3) Em có nhận xét gì bề thanh điệu của các tiếng thứ sáu và tiếng thứ tám trong câu 8?
(4) Hãy nêu nhận xét của em về vị trí vần trong văn bản
Trả lời
(1) Văn bản trên được viết theo thể thơ lục bát vì dòng trên câu thơ có 6 chữ, dòng dưới có 8 chữ.
(2)
B B B T B BV
T B B T, T BV B BV
T B T T B BV
T B T T B BV B BV
(3) Nhận xét:
– Dòng bát thứ nhất: tiếng thứ 6 thanh trầm – tiếng thứ 8 thanh bằng.
– Dòng bát thứ hai: tiếng thứ 6 thanh trầm – tiếng thứ 8 thanh bổng.
(4) Nhận xét về vị trí vần trong văn bản:
Vần: vần luôn là vần bằng thường đứng ở vị trí cuối câu (vần chân) tiếng thứ 6 câu sáu- hiệp tiếng thứ 6 câu 8. Tiếng 8 của câu 8 sẽ hiệp với tiếng 6 của câu 6 tiếp theo.
C. Hoạt động luyện tập
1. Luyện tập đọc hiểu
(Trang 85 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1). a. Em thích hình ảnh thơ/ câu thơ/ khổ thơ nào nhất trong bài Tiếng gà trưa? Vì sao?
(Trang 85 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1).b. Viết đoạn văn (khoảng 5-7 câu) nêu cảm nghĩ của em về tình bà cháu trong bài thơ Tiếng gà trưa.
Trả lời
a. Em thích nhất khổ cuối của bài vì lòng yêu Tổ quốc của người cháu được khơi nguồn từ lòng yêu xóm làng, yêu bà, yêu tiếng gà cục tác và yêu “ổ trứng hồng tuổi thơ”.
b. Tình bà cháu trong bài thơ Tiếng gà trưa thật tha thiết và sâu nặng. Người bà hiện lên trong bài thơ là một người tảo tần, chắt chiu từng con gà, quả trứng để nuôi cháu khôn lớn. Bà hiện lên như một người mẹ tràn đầy tình yêu thương nồng ấm và cũng nghiêm khắc dạy dỗ cháu nên người. Chính vì thế, trên chặng đường hành quân vất vả, dừng chân nghỉ giải lao bên làng quê thanh bình, nghe tiếng gà trưa văng vẳng, người cháu đã gợi lại những kí ức tuổi thơ êm đềm bên bà. Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu đồng thời thể hiện lòng kính trọng, biết ơn của người cháu đối với bà, cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.
2. Luyện tập về điệp ngữ
(Trang 85 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1). a. Hãy tìm điệp ngữ trong những đoạn trích sau đây và cho biết giá trị biểu đạt của nó:
Người ta đi cấy lấy công,
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm.
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời êm, biển lặng mới yên tấm lòng.
(Ca dao)
Trả lời
Người ta đi cấy lấy công,
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời êm, biển lặng mới yên tấm lòng.
Tác dụng:
* Điệp ngữ “trông” (9 lần) thể hiện sự lo lắng, chủ động của người nông dân trăm bề cực nhọc và vất vả làm ra hạt gạo.s
* Đi cấy (2 lần) sự khác biệt hành động đi cấy của mình với người khác.
(Trang 86 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1). b. Tìm và xác định dạng điệp ngữ trong các trường hợp sau:
(1)
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
(2) Vậy mà giờ đây, anh em tôi sắp phải xa nhau. Có thể sẽ xa nhau mãi mãi. Lạy trời đây chỉ là một giấc mơ. Một giấc mơ thôi.
Trả lời
(1)
(2)
3. Luyện nói: Phát biển cảm nghĩ về tác phẩm văn học
(Trang 86 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1).Tình huống: Phát biểu cảm nghĩ về một trong hai bài thơ Cảnh khuya, Rằm tháng giêng – Hồ Chí Minh.
Trả lời
Bài thơ Cảnh khuya được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào năm 1947 ở chiến khu Việt Bắc. Cuối năm 1947, quân Pháp ồ ạt tấn công lên Việt Bắc hòng tiêu diệt lực lượng chủ yếu và cơ quan đầu não lãnh đạo cuộc kháng chiến. Chiến dịch Việt Bắc của quân và dân ta làm thất bại ý đồ của địch và tiêu diệt nhiều lực lượng của chúng. Giữa hoàn cảnh thiếu thốn trăm bề và những thử thách ác liệt tưởng chừng khó có thể vượt qua. Bác Hồ vẫn giữ được phong thái ung dung, tự tại. Người vẫn dành cho mình những giây phút thanh thản để thưởng thức vẻ đẹp cua thiên nhiên nơi chiến khu Việt Bắc. Mở đầu bức tranh thiên nhiên Việt Bắc là cảnh đêm khuya dưới ánh trăng và âm thanh tiếng suối trong trẻo:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Hai câu thơ gợi lên một cảnh đêm khuya nơi chiến khu Việt Bắc trong một đêm trăng vô cùng thanh bình êm ả, huyền ảo, thân tình. Màn đêm buông xuống, mọi vật chìm trong tĩnh lặng, ánh trăng lên cao và bắt đầu lan tỏa, bao phủ khắp mặt đất. Ánh trăng soi vào bóng cây cô thụ lồng vào tán cây. Khi bóng tán cây được trăng chiếu vào in hình xuống mặt đất thành những bông hoa tuyệt đẹp. Bóng trăng và bóng cây quấn quýt, lồng vào từng khóm hoa rồi in lên mặt đất. Điệp từ lồng được nhắc lại tới 2 lần trong cùng một câu thơ tạo nên một khung cảnh thiên nhiên lung linh được quan sát thật tinh tế. Trong không gian yên tĩnh ấy, âm thanh tiếng suối vang vọng trong trẻo như tiếng hát trữ tình sâu lắng. Đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh, tiếng suối càng làm cho không gian vốn tĩnh lặng lại càng tĩnh lặng hơn. Tiếng suối, bóng trăng, bóng cây, bóng hoa hòa quyện, quấn quýt bên nhau. Thật là một bức tranh “thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc”. Người và vật giờ đây đã gắn bó và giao hòa với nhau.
Nếu ở hai câu đầu là cảnh đẹp đêm trăng nơi rừng núi Việt Bắc thì hai câu sau là hình ảnh và tâm trạng của người chiến sĩ vì nước vì dân:
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Giữa bức tranh thiên nhiên rộng lớn và hữu tình như vậy, tâm trạng thi sĩ bỗng vút cao thả hồn theo cảnh đẹp đêm trăng bởi đêm nay Bác chưa ngủ. Bác chưa ngủ một phần vì bức tranh thiên nhiên quá đẹp và Bác chưa ngủ vì thao thức lo lắng cho vận mệnh của đất nước. Bác chưa ngủ vì tâm hồn thi sĩ xao xuyến trước cảnh đẹp, vì nghĩ đến trách nhiệm to lớn, nặng nề của người chiến sĩ khi lãnh đạo nhân dân kháng chiến.
Bài thơ được ra đời giữa thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra ác liệt. Trên chiến khu Việt Bắc trong cảnh đêm khuya tĩnh lặng, Bác Hồ đã có những giây phút nghỉ ngơi hiếm hoi. Mặc dù là một người chiến sĩ nhưng bác cũng là một thi sĩ. Tâm hồn người vẫn lạc quan, ung dung, tự tại, hòa hợp và say đắm tận hưởng vẻ đẹp thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh. Song đằng sau bức tranh thiên nhiên huyền ảo, lung linh, ấy là một nỗi niềm đau đáu về vận mệnh dân tộc của một người chiến sĩ cách mạng kiên trung.
4. Luyện tập làm thơ lục bát.
(Trang 87 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1). Theo em, những câu lục bát sau sai ở đâu? Hãy sửa lại cho đúng:
Trả lời
D. Hoạt động vận dụng
(Trang 87 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1). Làm hai câu lục bát (có thể nhiều hơn) thể hiện tình cảm của em với ông bà, bố mẹ, anh chị hoặc người em yêu mến
Trả lời
Bông hồng màu thắm đẹp tươi
Con xin tặng Mẹ phương trời Việt Nam
Thân cò lặn lội quan san
Rầm mưa rãi nắng nuôi đàn con thơ.
(Sưu tầm)
E. Hoạt động tìm tòi mở rộng
(Trang 87 Ngữ Văn 7 VNEN tập 1).Sưu tầm một số bài thơ thể hiện tình cảm bà cháu
Trả lời
Bếp lửa
-Bằng Việt –
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:
Loạt bài Soạn văn lớp 7 VNEN ngắn nhất của chúng tôi được biên soạn bám sát nội dung sách Hướng dẫn học Ngữ văn 7 Tập 1, Tập 2 chương trình VNEN mới.
Soạn Văn 6 Vnen Bài 13: Ôn Tập Truyện Dân Gian
Soạn văn 6 VNEN Bài 13: Ôn tập truyện dân gian
A. Hoạt động khởi động
(trang 83 sgk Ngữ văn 6 tập 1 VNEN).
Kể tên các truyện kể dân gian đã học ở kì 1 lớp 6 và cho biết thể loại của mỗi truyện.
Trả lời:
Các truyện dân gian đã học ở kì 1 lớp 6:
– Truyền thuyết: Con rồng cháu tiên, Bánh chưng bánh giầy, Thánh Gióng, Sơn Tinh Thủy Tinh, Sự tích Hồ Gươm.
– Truyện cổ tích: Sọ Dừa, Thạch Sanh, Em bé Thông minh.
– Truyện ngụ ngôn: Ếch ngồi đáy giếng; Thấy bói xem voi; Đeo nhạc cho mèo; Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng.
B. Hoạt động hình thành kiến thức
Trả lời:
TRUYỆN DÂN GIAN Thể loại Tác phẩm Nội dung Đặc điểm nghệ thuật nổi bật Sơn Tinh, Thủy TinhGiải thích hiện tượng lũ lụt, thể hiện sức mạnh, ước mong của người Việt cổ muốn chế ngự thiên tai. Ca ngợi công lao dựng nước của các vua Hùng.
Tưởng tượng kì ảo
Em bé thông minhĐề cao sự thông minh và trí khôn dân gian, tạo tiếng cười vui vẻ, hồn nhiên trong đời sống.
Tưởng tượng kì ảo
3. Truyện ngụ ngônẾch ngồi đáy giếngPhê phán những kẻ hiểu biết cạn hẹp mà huênh hoang, khuyên nhủ người ta mở rộng hiểu biết, không chủ quan, kiêu ngạo.
Rút bài học
2 (trang 83 sgk Ngữ văn 6 tập 1 VNEN). Vẽ bản đồ tư duy trên giấy A0 hoặc vào vở bài tập. ghi thể loại, tên tác phẩm truyện dân gian theo bảng trên.
Trả lời:
3 (trang 83 sgk Ngữ văn 6 tập 1 VNEN). Trả lời câu hỏi.
a (trang 83 sgk Ngữ văn 6 tập 1 VNEN). Khi kể chuyện tưởng tượng em có thể tùy theo sở thích của mình mà đưa vào bất cứ chi tiết, hoặc sự kiện nào đó hay không? Vì Sao?
Trả lời:
Không. Vì tuy là tưởng tượng nhưng không thể quá vô lý khiến câu chuyện cộc lốc, thiếu sự tin tưởng.
b (trang 83 sgk Ngữ văn 6 tập 1 VNEN). So sánh thể loại truyền thuyết với truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn với truyện cười.
Trả lời:
– So sánh thể loại truyền thuyết với truyện cổ tích:
Giống– Có yếu tố tưởng tượng kì ảo – Sự ra đời thần kì, nhân vật chính có khả năng phi thường
– Kể về cuộc đời một số kiểu nhân vật quen thuộc: mồ côi, bất hạnh, dũng sĩ, tài năng… – Thể hiện ước mơ, niềm tin nhân dân về chiến thắng cái thiện với cái ác, sự công bằng.
– So sánh thể loại truyện ngụ ngôn với truyện cười:
Giống– Kể bằng văn xuôi, có yếu tố gây cười – Thường chế giễu hoặc phê phán việc làm sai trái
Khác– Mượn truyện đồ vật, con vật hoặc chính con người để nói bóng gió. – Nêu bài học răn dạy.
– Kể về các hiện tượng đáng cười. – Tạo tiếng cười mua vui hoặc phê phán thói hư tật xấu trong xã hội.
4 (trang 83, 84 sgk Ngữ văn 6 tập 1 VNEN). Tìm hiểu về chỉ từ
Đọc đoạn trích và thực hiện yêu cầu ở dưới:
a. So sánh các từ và cụm từ sau:
– ông vua/ ông vua nọ
– cánh đồng/ cánh đồng kia
– nhà/ nhà nọ
b. Nêu tác dụng của các từ được in đậm
Trả lời:
b. Các từ in đậm giúp xác định vị trí của sự vật, làm rõ nghĩa danh từ.
c. Chỉ từ là những từ dùng để trỏ vào sự vật, nhằm xác định vị trí của sự vật trong không gian hoặc thời gian.
C. Hoạt động luyện tập
a. Cô luôn có những cử chỉ nhẹ nhàng thể hiện sự tôn trọng tôi.
b. Tôi luôn vui khi thường xuyên được chuyện trò với cô.
c. Tôi là cuốn sách Hướng dẫn học Ngữ văn 6, tập một, tôi rất yêu cô chủ nhỏ của tôi.
d. Cô chủ chăm chút cho vẻ bề ngoài của tôi rất cẩn thận.
e. Tôi buồn suốt một tuần liền khi cô bị đau mắt đỏ không thể gặp tôi được.
f. Tôi mong cô không chỉ được tôi mà tất cả những người bạn quanh tôi yêu mến.
Trả lời:
Sắp xếp theo thứ tự sau: c,a,d,b,e,f.
Ta có thể bổ sung thêm ý như sau:
c. Tôi là cuốn sách Hướng dẫn học Ngữ văn 6, tập một, tôi rất yêu cô chủ nhỏ của tôi. Tôi chính là món quà mà ba cô tặng cô với mong muốn cô chăm chỉ cố gắng học tập.
a. Cô ấy là một cô gái hiền dịu, có ý thức trân trọng, giữ gìn đồ vật. Cô luôn có những cử chỉ nhẹ nhàng thể hiện sự tôn trọng tôi.
d. Cô chủ chăm chút cho vẻ bề ngoài của tôi rất cẩn thận. Cô ấy cẩn thận bọc bìa sách, và còn dán cho tôi chiếc nhãn vở màu hồng thật xinh.
b. Tôi luôn vui khi thường xuyên được chuyện trò với cô.
e. Suốt một tuần liền cô chủ không nhìn đến tôi vì cô bị đau mắt đỏ, tôi thực sự rất buồn.
f. Cô chủ là một người tốt bụng, đáng yêu. Tôi mong cô không chỉ được tôi mà tất cả những người bạn quanh tôi yêu mến.
2. Kể chuyện trước lớp.
3 (trang 85 sgk Ngữ văn 6 tập 1 VNEN). Luyện tâp về chỉ từ.
Trả lời:
Ngày ấy, tôi thường dắt Bin đi khắp nơi. Chú chó này đã đi cùng những năm tháng tuổi thơ của tôi. Đến bây giờ, Bin đã có một gia đình riêng, có vợ và lứa con đầu tiên thật kháu làm sao. Chính tay tôi đã đóng gỗ làm nhà cho Bin và những cậu nhỏ khác, tôi rất quý mến chúng.
b (trang 85 sgk Ngữ văn 6 tập 1 VNEN). Trao đổi với bạn về những chỉ từ đã sử dụng (Đó là những từ nào? Những từ đó giữa chức năng ngữ pháp gì trong câu? Tác dụng của các chỉ từ đó? Nếu lược bỏ chỉ từ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến ý nghĩa của câu?)
Trả lời:
– Những chỉ từ đã sử dụng: ấy, nọ, kia, này…
– Chức năng ngữ pháp của chỉ từ: xác định vị trí của sự vật trong không gian hoặc thời gian; thường làm phụ ngữ trong cụm danh từ, làm chủ ngữ hoặc trạng ngữ trong câu.
– Nếu lược bỏ chỉ từ, các cụm danh từ sẽ giảm đi tính xác định, câu thiếu nghĩa.
D. Hoạt động vận dụng
1 (trang 85 sgk Ngữ văn 6 tập 1 VNEN). Giả sử lớp em sắp có một buổi sinh hoạt văn nghệ và em được nhận nhiệm vụ chuẩn bị tiết mục kể diễn cảm một câu chuyện dân gian. Hãy lựa chọn một câu chuyện mà em thích để thực hiện yêu cầu đó.
Trả lời:
Kể chuyện cổ tích: Tra tấn hòn đá
Ngày xưa có hai vợ chồng nghèo, suốt năm đầu tắt mặt tối, ăn bữa sớm không biết có bữa chiều. Kỳ ấy năm hết Tết đến mà trong nhà không có lấy một bát gạo. Mãi về sau người chồng chạy hết các cửa nhà giàu, nói sùi bọt mép mới vay được ba công non. Mừng quá, chồng vội vã mang về để sáng hôm sau là ngày 30 cho vợ kịp sắm tết.
Sau khi mua hết số tiền, người vợ đội mùng lên đầu trở ra cổng chợ. Trên đường về phải lội qua một cái mương nước. Chẳng may khi bước chân lên hòn đá thì bị trượt chân ngã xuống nước. Bao nhiêu gạo, thịt, vàng, hương… trong mùng đều ngập vào bùn. Thấy số phận đen đủi, người đàn bà không buồn nhặt nữa, ngồi xoài bên vệ đường, khóc lóc thảm thiết.
Đang khóc, bỗng có một ông quan huyện đi ngang qua đó. Thấy chuyện lạ, quan sai lính dừng võng, gọi người đàn bà tới hỏi vì sao lại khóc? Người đàn bà mếu máo kể lại tình cảnh của mình cùng việc xảy ra vừa rồi cho quan nghe.
Quan huyện vốn lòng thương người, nghe lời than thở thì động lòng, bèn nghĩ ra kế giúp đỡ.
– Cứ như lời mụ khai thì hòn đá kia là kẻ phạm tội. Dù nó là đá thì cũng không thể vượt được phép nước. Ta sẽ vì nhà mụ bắt nó bồi thường. Lính đâu! Đưa bị cáo về công đường đối chất.
Thấy bọn lính hầu ngơ ngác, ông thét làm ngay.
Khi thấy đá ỳ không dậy, ông bảo trói lại và khiêng về huyện tra tấn cho được mới nghe.
Nhiều người nghe tin quan huyện tra tấn hòn đá đòi bồi thường rượu thịt thì ai nấy không ngăn được tò mò, vội đổ xô tới huyện đường để xem một tý. Họ xúm đen đặc ở cổng huyện. Quan truyền cho lính đặt hai cái thúng ở cổng, dặn rằng ai bỏ vào đấy ba mươi đồng kẽm sẽ cho vào xem. Trong khi đó, ở phía công đường có mấy người đã được cắt sẵn việc tra tấn. Tiếng hỏi cung, tiếng quát nạt, tiếng roi vụt văng vẳng phát ra. Mọi người tranh nhau ném tiền để được vào cửa. Khi hai cái thúng đã đầy ắp tiền, quan bèn bảo bọn lính lệ nghỉ roi vọt, rồi ông đứng trước mọi người trỏ nguyên cáo bị cáo phân xử:
– Bản chức đứng trước một vụ án khá rắc rối. Theo như lời nguyên cáo cùng tất cả chứng tá khai thì tội trạng bị cáo đã rành rành, không thể chối cãi vào đâu được, mặc dầu đến giờ nó vẫn chưa chịu cung xưng. Bản chức quyết bắt bị cáo bồi thường đầy đủ số thiệt hại. Thế nhưng, xét nó không có gì để thi hành bản án này. Tất cả mọi người đến đây vì thương hại bị cáo giúp mỗi người một ít. Vậy bản chức quyết định: số tiền trong thúng bất kể bao nhiều đều giao cho nguyên cáo có quyền sử dụng. Còn bị cáo được phóng thích trở về chỗ cũ hay đi đâu mặc ý.
Tất cả mọi người biết là mắc mưu quan nhưng không một người nào tỏ vẻ tiếc của cả. Còn người đàn bà nọ sung sướng đưa tiền về nhà
2 (trang 85 sgk Ngữ văn 6 tập 1 VNEN). Trong vai một họa sĩ em hãy tìm ý tưởng cho một bức tranh về nơi em đang ở sau mười năm nữa. Nói với bạn em về những ý tưởng đó.
Trả lời:
Ý tưởng cho bức tranh nơi mà mười năm sau em sống:
– Đó là một ngôi nhà gỗ giữa cánh đồng hoa bất tận.
– Sống chan hòa với thiên nhiên, không khí trong lành mát mẻ không ô nhiễm khói bụi như thành phố.
– Ở đó, em và gia đình cùng trồng hoa, gieo hạt, trồng rau hàng ngày, nuôi chó mèo…
Trả lời:
Các chỉ từ “đấy”, “đây” xác định sự vật trong không gian, thời gian.
E. Hoạt động tìm tòi mở rộng
1 (trang 85 sgk Ngữ văn 6 tập 1 VNEN). Hỏi người thân của em về một truyện dân gian mà họ thích nhất. Ghi lại những lí do khiến họ thích câu chuyện đó.
Trả lời:
Mẹ em rất thích truyện Thầy bói xem voi. Vì:
– Truyện phê phán về sự thiếu hiểu biết của các ông thầy bói làm mẹ em cười.
– Truyện cũng răn dạy về việc lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác, về sự hiểu biết toàn diện.
2 (trang 85 sgk Ngữ văn 6 tập 1 VNEN). Trao đổi với người thân về ý nghĩa thực tiễn của những truyện dân gian đã học.
Ý nghĩa thực tiễn của các truyện dân gian đã học:
– Ca ngợi, tôn vinh người anh hùng cứu nước, thể hiện tinh thần chống giặc ngoại xâm, tinh thần đoàn kết chống lại thiên tai.
– Răn dạy con người lẽ phải điều hay, những đạo lý trong cuộc sống.
– Phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội.
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k9: chúng tôi
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:
Loạt bài Soạn văn lớp 6 VNEN ngắn nhất của chúng tôi được biên soạn bám sát nội dung sách Hướng dẫn học Ngữ văn 6 Tập 1, Tập 2 chương trình VNEN mới.
Soạn Bài Làng Ngữ Văn 9 Đầy Đủ
– Tác giả đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gay cấn để làm bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước của ông. Tình huống ấy là cái tin làng ông theo giặc, lập tề mà chính ông nghe được từ miệng những người tản cư dưới xuôi lên.
+ Khi nghe tin quá đột ngột ấy, ông Hai sững sờ: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng người đi, tưởng như đến không thở được”. Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên”, làm ông không thể không tin được.
+ Từ lúc ấy, trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt xuống mà đi”. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân khi nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?
+ Suốt mấy ngày sau, ông Hai không dám đi đâu. Ông chỉ quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng binh tình bên ngoài: “Một đám đông túm lại, ông cũng đẻ ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang đẻ ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt Nam… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”
– Tình yêu làng quê và lòng yêu nước của ông Hai:
+ Khi nghe tin làng theo giặc, hai tình cảm ấy đã dẫn đến một cuộc xung đột nội tâm ở ông Hai. Ông đã dứt khoát lựa chọn theo cách của ông: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”, tình yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng dù đã xác định như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng quê, vì thế mà còn đau xót, tủi hổ.
+ Ông Hai bị đẩy vào tình thế bế tắc, tuyệt vọng khi mà mụ chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi. Đi đâu bay giờ? Không ai muốn chứa chấp dân của cái làng “Việt gian”, cũng không thể quay về làng, “Về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Mối mâu thuẫn trong nội tâm và tình thế của nhân vật dường như đã thành sự bế tắc, đòi hỏi phải được giải quyết.
– Sau khi đành phải theo vợ con rời làng lên vùng tản cư, bất đắc dĩ phải xa làng Chợ Dầu thân yêu, ông Hai rất buồn tủi. Nhưng vì suy nghĩ chân thành, rất giản dị ông tự an ủi mình: “Thôi thì chẳng ở lại làng với anh em đước, thì tản cư âu cũng là kháng chiến”. Để vơi bớt nỗi bực dọc, u uất đang chất chứa trong lòng, ông Hai nhiều hôm đội nón lầm lũi đến phòng thông tin để đọc báo và nghe người ta đọc báo. Ông theo dõi tin tức về kháng chiến một cách chăm chú, hồ hỏi. Và một hôm may mắn cho ông khi gặp anh dân quân “đọc rất to, dõng dạc, rành rọt, từng tiếng một”, ông Hai nghe chẳng sót một câu nào. Tin thắng trận dồn dập làm cho “ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!”. Nhưng không may trong lúc ông đang hồ hởi, vui sướng vối những chiến công, những gương dũng cảm chiến đấu của quân và dân ta thì tin “dữ” cả cái làng Chợ Dầu là “Việt gian theo Tây”, “vác cò thần ra hoan hô”, như sét giáng xuống đầu ông Hai. Thực ra đó cũng chỉ là tin tức từ miệng một “người đàn bà ẵm con cong môi lên đỏng đảnh” nhưng ông Hai đã lặng người đi. Ông như mất hết cảm giác: “Cổ nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân” vì thông tin đến với ông quá đột ngột về một sự thật quá phũ phàng. Nhưng chỉ sau một lát, lấy lại trấn tĩnh ông Hai muốn thẩm định lại và cầu mong tin đó là sai lệch, là nhầm lẫn. Nhưng lời khẳng định của người đàn bà ẵm con và cuộc nói chuyện của những người xung quanh đã chứng thực điều đó. Đến lúc này, ông Hai không còn giữ bình tĩnh được nữa, ông tìm cách trôn tránh để quên đi nỗi nhục ấy. Ông muốn che giấu mọi người vì cả bản thân ông, những giọt nước mắt đang chảy ngược vào trong. Từ đó, ông Hai rơi vào một cuộc đấu tranh tư tưởng căng thẳng và nó làm ông thay đổi hoàn toàn, về tính nết, cử chỉ, hành động đến lời nói vối người thân, hàng xóm.
– Từ khi nghe được tin dữ đó ông Hai cảm thấy xấu hổ không dám ngẩng mặt lên nhìn ai, thậm chí ông còn không dám bước chân ra ngoài cả ba bốn hôm liền. Bởi ông không muốn đối diện với sự thực ấy, ông biết rằng đó là một thứ tội mà cả dân làng, cả đất nước này lên án: “Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”. Tầm trạng của ông ngày càng u uất, đau đớn đến quặn thắt. Lúc đầu khi mới nghe tin ông còn khóc được, có khi còn chửi thề được một câu chua chát. Nhưng nỗi đau đó hành hạ ông và khiến ông trở thành một con người lầm lũi, nơm nớp lo sợ, lúc nào cũng nghe ngóng xem ngươi ta đang bàn tán gì về cái làng Chợ Dầu và dân làng Chợ Dầu lên đây tản cư.
– Bi kịch của ông Hai được đẩy lên đến đỉnh điểm khi bà chủ nhà lên tiếng đuổi vợ chồng, con cái ông đi khỏi nhà bởi “không ai muốn chứa chấp cái lũ Việt gian bán nước”. Đó là bi kịch chung của những người dân làng Chợ Dầu đi tản cư. Họ đã bị cả xã hội lên án, ruồng rẫy, khinh bỉ. Ông Hai lại rơi vào một cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt đế chọn cho cả gia đình nghèo khổ của ông một lối đi, một sự giải thoát. Là người đàn ông trụ cột trong gia đình, ông Hai chẳng thể làm gì hơn trước sự cư xử tàn nhẫn của bà chủ nhà, đang tâm cướp đi chỗ trú thân của gia đình ông. Một lần nữa, nỗi đau trong ông trào thành những giọt nước mắt tủi cực. Trong giây phút bế tắc ấy cũng chính là lúc ý nghĩ quay về làng Chợ Dầu vụt loé lên trong đầu ông. Thế mối biết làng luôn thường trực, ấp ủ trong trái tim dạt dào tình yêu của ông Hai. Ông yêu làng cả trong những lúc sung sướng, vui vẻ và cả những lúc đau đớn nhất, tủi hổ nhất. Nhưng càng nghĩ nỗi đau lại dồn lên, bóp nghẹt trái tim ông, buộc ông phải trực tiếp đối diện với sự thực đen tối ấy. Vối tấm lòng yêu làng tha thiết, đau đớn ông gạt phắt ý nghĩ quay về làng trong nước mắt. “Bởi về làng, tức là bỏ kháng chiến”, bỏ Cụ Hồ, thì ra tình yêu nước, yêu cách mạng còn cao hơn cả tình yêu làng trong trái tim ông. Dù rất đau khổ song ông Hai vẫn từ chối quay về nơi chôn nhau cắt rốn ấy. Mọi ngả đương đã đóng lại trước mắt ông, gia đình ông lúc này không biết đi đâu về đâu để kiếm một chỗ dung thân.
– Nhưng rồi một ngày bi kịch của người yêu làng đến bỏng cháy như ông Hai đã được giải thoát. Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo Tây, ông Hai đau đớn hơn ai hết vì thế khi cái tin thất thiệt “cả cái làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây” được cải chính thì ông Hai là người sung sướng nhất. Ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”, mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ. Ông như trở lại đúng vói con người mình: hồ hởi thích “khoe” về làng. Ông Hai đi khắp làng bô bô thông báo tin vui mừng ấy. Cùng một câu nói (giống nhau tuyệt đối không khác một chữ) nhưng ông nói đi nói lại không biết bao nhiêu lần, với một thái độ khẳng định dứt khoát “Tây nó đốt… Toàn là cái sự mục đích cả!”. Ong muốn báo cho cả làng, cả tổng thể làng Chợ Dầu của ông vẫn một lòng thuỷ chung với cách mạng không thể có chuyện theo Tây làm Việt gian. Mặc dù làng ông đã bị đốt sạch, đến nhà của ông cũng bị giặc đốt nhưng thông tin ấy lại làm ông sung sướng vô cùng bởi đó là bằng chứng cho tinh thần cách mạng của dân làng Chợ Dầu, trong đó có ông.
– Đoạn văn trên đã diễn tả một cách sinh động và cảm động tình cảm bền chặt, chân thành của ông Hai với quê hương, đất nước, cách mạng và kháng chiến. Sự xuất hiện của đứa con út đúng lúc bi kịch của ông Hai lên đến đỉnh điểm, như một sự cứu cánh, giải thoát vô cùng quan trọng. Tin làng Chợ Dầu làm Việt gian theo Tây đã loan ra khắp cả làng, và nguy hiểm nhất là bà chủ nhà ghê gớm, cay nghiệt lợi dụng cơ hội này để “làm khổ” vợ chồng ông Hai. Vì tin dữ đó mà những ngươi dân làng Chợ Dầu như ông bị người ta khinh bỉ, đuổi đi, không ai chứa chấp. Ông Hai thực sự bị đẩy vào sự bế tắc đến cùng cực. Có ai hiểu cho tấm lòng, trái tim đang quặn thắt của ông? Không ai cả. Bởi ông không muốn thấy thái độ khinh bỉ của mọi người. Ông lại càng không dám tâm sự nỗi lòng của mình lúc này. Bởi những ngươi làng Chợ Dầu như ông đang bị mọi người quay lưng lại, ghê tởm và khinh rẻ, không ai thèm nói chuyện với một “tội phạm” đang mắc trọng tội như ông. Chính vì vậy, ông đã tìm đến đứa con út còn nhỏ dại, ngây thơ rất đáng yêu để giãi bày, tâm sự, thô lộ lòng mình. Phải tìm đến đứa con nhỏ dại còn chưa biết đến thế nào là cách mạng, là Việt gian… để trút bầu tâm sự là minh chứng hùng hồn cho sự bế tắc đến cùng cực của ông.
– Lời của đứa con út hay chính là lời từ đáy lòng ông Hai muốn gửi gắm? Ông hỏi không phải để tìm câu trả lời mà để “nói lòng mình, để minh oan cho mình nữa”. Ông Hai không còn cách nào để có thể bộc lộ nỗi u uất, sự đau đớn và cả tấm lòng sắt son của mình nên ông đành nhờ một đứa con thơ. Thì ra, trong lòng bố con ông, tình yêu với làng, thuỷ chung sắt son với cách mạng, với Cụ Hồ Chí Minh cũng tự nhiên, bình dị và tất yếu như tình yêu với cha mẹ vậy.
– Con người ta chỉ có một cha một mẹ, một nơi chôn nhau cắt rốn và tấm lòng với cách mạng cũng trước sau như một. Dường như chưa đủ ông Hai còn hùng hồn khẳng định như một lời tuyên thệ “Cái lòng bố con ông là như thê đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Ỏng Hai chỉ nói thầm vối lòng mình nhưng cũng như lời thề trước đoàn thể vậy. Và dù chỉ có một đứa con trai quá nhỏ dại nghe ông nói, hiểu lòng ông nhưng tâm hồn đang trĩu nặng vì dằn vặt, tủi cực của ông như cũng vợi đi được đôi lời. Thế cũng là sự an ủi quý giá trong tình cảnh hiện giò của ông.
– Qua lời tâm sự với đứa con út – thực chất là lời tự nhủ với chính mình của ông Hai, ta thấy ông là người có tình yêu làng sâu nặng và thuỷ chung với kháng chiến, với cách mạng. Đó là những tình cảm gắn bó chặt chẽ với nhau và rất đỗi thiêng liêng.
– Để miêu tả tâm lí nhân vật ông Hai, tác giả đặt nhân vật vào một tình huống thử thách để bộc lộ nội tâm nhân vật, diễn tả đúng và gây ấn tượng mạnh mẽ vì sự ám ảnh day dứt trong tâm trạng nhân vật… Qua đó chứng tỏ nhà văn rất am hiểu tâm lí con người, đặc biệt là người nông dân.
– Ngôn ngữ của truyện rất đặc sắc, đó là ngôn ngữ mang đậm tính khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dân. Giữa ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ của nhân vật có sự thông nhất về sắc thái, giọng điệu do truyện được trần thuật chủ yếu từ điểm nhìn của ông Hai.
– Ngôn ngữ của nhân vật ông Hai vừa có nét chung của người nông dân, vừa mang đậm cá tính riêng nên nó sinh động và hấp dẫn. Nó có khả năng diễn tả được những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc khác nhau trong những hoàn cảnh và tâm trạng khác nhau. Lời nói của ông Hai lúc nào cũng chân chất, mộc mạc, thái độ khảng khái, dứt khoát. Nhưng ẩn chứa trong vẻ bề ngoài bình dị của người nông dân này là cả tâm hồn giàu tình yêu với làng bản, quê hương, sự thuỷ chung với cách mạng. Với nhân vật này, một lần nữa Kim Lân chứng tỏ sự am tường của mình về lời ăn, tiếng nói, tấm lòng, tình cảm của người nông dân thời kì đầu kháng chiến chống Pháp.
– Đoạn văn:
“Cổ họng ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi: – Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…”
– Phân tích:
+ Khi nghe làng Chợ Dầu quê hương ông theo giặc:
Lúc đầu vì thông tin đến một cách quá bất ngờ khiến cho ông lão không thể phản ứng lại được, có phản ứng lại cũng chỉ là sự tê tái của niềm tin bị phản bội: “Cổ họng ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”.
Ngay trong lúc ông đang sung sướng khi nghe được tin vui chiến thắng của quân ta thì lại được báo tin làng kháng chiến mà ông tự hào bấy lâu theo giặc điều đó khiến cho ông khó lòng mà tin được nên ông mới hỏi lại, giọng lại hẳn đi.
– Những truyện ngắn, bài thơ viết về tình cảm quê hương, đất nước: Tre Việt Nam (Nguyễn Duy), Quê hương (Đỗ Trung Quân).
– Nét riêng của truyện ngắn Làng: tình yêu quê hương và tình yêu đất nước được đặt trong sự gắn bó khăng khít với nhau, hòa quyện, thống nhất với nhau. Đó là hai tình cảm không thể tách rời và tình yêu quê hương là cơ sở cho tình yêu tổ quốc.
Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Văn 9 Vnen Bài 13: Làng trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!