Xu Hướng 5/2023 # Soạn Văn 9 Bài Ánh Trăng Vnen # Top 8 View | Englishhouse.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # Soạn Văn 9 Bài Ánh Trăng Vnen # Top 8 View

Bạn đang xem bài viết Soạn Văn 9 Bài Ánh Trăng Vnen được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

A. Hoạt động khởi động

Kể tên những bài thơ viết về ánh trăng mà em đã được học. Nêu cảm nhận về hình ảnh trăng trong một bài thơ.

Những bài thơ viết về ánh trăng đã học:

“Cảnh khuya” – Hồ Chí Minh

“Rằm tháng giêng” – Hồ Chí Minh

“Ngắm trăng” – Hồ Chí Minh

Cảm nhận về hình ảnh trăng trong bài thơ “Cảnh khuya” của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.”

Hai câu đầu bài thơ “Cảnh khuya” miêu tả cảnh trăng sáng trong đêm khuya. Giữa đêm rừng Việt Bắc thanh vắng, yên ả vang lên tiếng suối chảy róc rách, trong trẻo “như tiếng hát xa”. Bao trùm cả bức tranh là ánh trăng sáng hòa quyện, gần gũi và tràn đầy sức sống “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”. Ánh trăng soi chiếu xuống cây cổ thụ làm in trên mặt đất những mảng màu sắc sáng tối, tạo nên cảnh chập chùng của ánh trăng. Hình ảnh “Trăng lồng cổ thụ” mang nét đẹp cổ điển của ánh trăng trong thơ cổ, khi kết hợp với hoa, hình ảnh ấy đã tạo nên vẻ đẹp đầm ấm, quấn quýt của thiên nhiên. Hai từ “lồng” liên kết ba sự vật riêng biệt, khác hẳn nhau nhưng lại không hề tương phản mà dường như chúng lại hòa quyện, đan xen tạo nên một bức tranh sống động và vô cùng gợi cảm. Cảnh trong hai câu thơ đầy thơ mộng, trong trẻo, dịu dàng và thật ấm áp.

B. Hoạt động hình thành kiến thức

1. Đọc văn bản “Ánh trăng”

2. Tìm hiểu văn bản

a) Dựa vào mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình, hãy chỉ ra bố cục của bài thơ.

Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình:

Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian, từ quá khứ đến hiện tại với các mốc sự kiện trong cuộc đời con người. Dòng cảm nghĩ trữ tình của nhà thơ cũng men theo dòng tự sự này mà bộc lộ và cuối cùng đọng lại trong cái “giật mình” ở cuối bài thơ.

Dựa theo mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình, bài thơ có thể chia theo bố cục 3 phần:

Phần 1 (hai khổ đầu): kỉ niệm của tác giả gắn bó với vầng trăng, nhịp thơ là lời tự sự nhẹ nhàng về quá khứ.

Phần 2 (hai khổ tiếp): Sự lãng quên vầng trăng khi sống trong môi trường mới và bất ngờ gặp lại vầng trăng khi đột ngột mất điện. Giọng thơ thể hiện sự đột ngột, ngỡ ngàng

Phần 3 (hai khổ cuối): Sự đối diện với vầng trăng và suy ngẫm về những ngày đã sống cùng vầng trăng. Giọng điệu trở nên trầm lắng và tha thiết hơn.

b) Trong khoảng thời gian từ hồi nhỏ cho đến “thời chiến tranh ở rừng”, nhân vật trữ tình và vầng trăng có mối quan hệ như thế nào?

Trong khoảng thời gian từ hồi nhỏ cho đến “thời chiến tranh ở rừng”, nhân vật trữ tình và vầng trăng là những người bạn tri kỉ của nhau.

Cuộc sống vất vả, gian lao nhưng con người gần gũi và gắn bó với thiên nhiên, với “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng”,… Điệp từ “với” được lặp lại ba lần nhằm diễn tả sự gắn bó chan hòa của con người với thiên nhiên, với những điều tươi đẹp của tuổi thơ. Trong những năm tháng gian lao, ác liệt của “hồi chiến tranh ở rừng”, vầng trăng đã trở thành người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ, là đồng chí, đồng đội cùng chia sẻ những vui buồn trong chiến trận với người lính.

Trăng hiện diện như là hình ảnh của quá khứ tươi đẹp và chan hòa tình nghĩa: “Trần trụi với thiên nhiên/ Hồn nhiên như cây cỏ”. Phép liên tưởng và so sánh cho ta thấy được vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, trong sáng, rất đỗi vô tư, hồn nhiên của vầng trăng.

Bài làm:

d) Điều gì khiến nhân vật trữ tình giật mình nhận ra sự thay đổi của mình?

Khi con người đã coi vầng trăng “như người dưng qua đường”, thì bỗng:

“Thình lình đèn điện tắt phòng buyn-đinh tối om vội bật tung cửa sổ đột ngột vầng trăng tròn.”

Khi “thình lình”, đột ngột “đèn điện tắt” là lúc ánh sáng hiện đại, nhân tạo mất đi. Con người “vội bật tung cửa sổ” theo bản năng, như một thói quen. Và trong khoảnh khắc từ bóng tối bước ra ánh sáng, con người đã không khỏi ngỡ ngàng khi gặp lại, đối diện với vầng trăng tròn khi xưa. Chính cái khoảnh khắc bất ngờ, đột ngột ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch cảm xúc của nhà thơ.

Con người lặng lẽ đối diện với vằng trăng trong tư thế có phần thành kính:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng. “

Đối diện với ánh trăng là sự đối diện với chính mình, với con người hiện tại và cả với con người trong quá khứ. Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Dù con người đã đổi thay thì vầng trăng vẫn “tròn vành vạnh”. “Ánh trăng im phăng phắc” như một lời nhắc nhở, trách cứ đầy nghiêm khắc khiến con người bừng tỉnh và “giật mình” nhận ra sự thay đổi bạc bẽo của mình. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự đấu tranh với chính mình để sống tốt đẹp hơn.

Bài làm:

C. Hoạt động luyện tập

1. Luyện tập đọc hiểu

a) Đọc văn bản “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” b) Tìm hiểu văn bản

(1) Bài thơ mang hình thức lời hát ru những em bé dân tộc Tà – ôi ở chiến khu Trị – Thiên khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt. Em hãy cho biết lời hát ru chia thành mấy khúc? Mỗi khúc được nhận ra bằng dấu hiệu nào?

Lời hát ru được chia làm 3 khúc, mỗi khúc có 2 khổ thơ:

Khúc thứ nhất: Khúc hát ru của người mẹ thương con, thương bộ đội.

Khúc thứ hai: Khúc hát ru của người mẹ thương con, thương dân làng.

Khúc thứ ba: Khúc hát ru của người mẹ thương con, thương đất nước.

Mỗi khúc được nhận ra bằng dấu hiệu:

Từng khúc đều được mở đầu bằng hai câu: “Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi – Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ” và kết thúc bằng lời ru trực tiếp của người mẹ: “Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi.”

Bài làm:

Bài làm:

(4) Em có nhận xét gì về ngôn ngữ, giọng điệu bài thơ?

Cấu trúc lặp đi lặp lại của lời ru tạo giọng điệu trữ tình, tha thiết, vừa mở rộng, vừa xoáy sâu vào trong lòng người đọc sự ngọt ngào, trìu mến.

2. Tổng kết từ vựng

a) Đọc bài ca dao và thực hiện yêu cầu “Nước non lận đận một mình Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay Ai làm cho bể kia đầy Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?”

(Ca dao)

(1) Trong hai từ “nước non” và “lận đận”, từ nào là từ láy?

Trong hai từ “nước non” và “lận đận”, từ “lận đận” là từ láy.

(2) Tìm các từ thuộc trường từ vựng chỉ thiên nhiên.

Các từ thuộc trường từ vựng chỉ thiên nhiên: nước non, thác, ghềnh, bể, ao.

(3) Chỉ ra và nêu tác dụng của các cặp từ trái nghĩa.

Các cặp từ trái nghĩa:

lên – xuống: nhấn mạnh sự vất vả, gian truân trong cuộc đời.

đầy – cạn: nhấn mạnh cảnh đời ngang trái, loạn lạc, bể đầy, ao cạn.

b) Từ “chân” trong câu thơ nào sau đây được dùng theo nghĩa chuyển? Chỉ ra phương phức chuyển nghĩa của từ?

(1) Cỏ non xanh tận chân trời.

(Nguyễn Du – Truyện Kiều)

(2) Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

(Chính Hữu – Đồng chí)

Từ “chân” trong câu thơ “Cỏ non xanh tận chân trời” được dùng theo nghĩa chuyển.

Phương thức chuyển nghĩa là phương thức ẩn dụ.

c) Bằng hiểu biết về trường từ vựng, em hãy phân tích nét độc đáo về nghệ thuật trong bài thơ sau:

Áo đỏ em đi giữa phố đông

Cây xanh như cũng ánh theo hồng

Em đi lửa cháy trong bao mắt

Anh đứng thành tro, em biết không?

(Vũ Quần Phương, Áo đỏ)

Trong đoạn thơ, tác giả đã xây dựng hai trường từ vựng:

Trường từ vựng chỉ màu sắc: đỏ, xanh, hồng, tro.

Trường từ vựng chỉ lửa và những sự vật, hiện tượng có quan hệ liên tưởng với lửa: lửa, cháy, tro.

Các từ thuộc hai trường từ vựng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhờ nghệ thuật dùng từ, bài thơ đã xây dựng được những hình ảnh gây ấn tượng mạnh với người đọc. Qua đó thể hiện độc đáo một tình yêu mãnh liệt và cháy bỏng.

d) Đọc bài thơ và thực hiện yêu cầu

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.

Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

Nước còn cau mặt với tang thương.

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

(Bà Huyện Thanh Quan, Thăng Long thành hoài cổ)

(1) Chỉ ra những từ Hán Việt và nhận xét về cách dùng từ trong bài thơ.

Những từ Hán Việt trong bài thơ: hí trường, tinh sương, thảo, tịch dương, tuế nguyệt, tang thương, đoạn trường.

Việc vận dụng các từ Hán Việt một cách linh hoạt đã mang đến cho bài thơ màu sắc cổ điển, trang trọng, làm nên giá trị của “Thăng Long thành hoài cổ” và đóng dấu phong cách riêng của nữ sĩ thành Thăng Long so với các nhà thơ trung đại khác cùng thời.

Bài làm:

e) Phân tích hiệu quả của biện pháp nghệ thuật so sánh và điệp ngữ trong những câu thơ miêu tả tiếng đàn của Thúy Kiều: Trong như tiếng hạc bay qua, Đục như tiếng suối mới sa nửa vời. Tiếng khoan như gió thoảng ngoài, Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.

( Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Biện pháp nghệ thuật so sánh và điệp ngữ được sử dụng rất đặc sắc và tinh tế, giúp diễn tả một cách sống động và gợi cảm âm thanh tiếng đàn của Thúy Kiều. Từ những tính chất vô hình và trừu tượng như “đục” và “trong”, “khoan”, “mau”, qua biện pháp so sánh đã được cụ thể hóa, chi tiết hóa, nghệ thuật hóa một cách đặc sắc.

3. Luyện tập về sử dụng yếu tố nghị luận trong văn tự sự

a) Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu

( Lỗi lầm và sự biết ơn – sgk trang 100)

(1) Trong đoạn văn trên, yếu tố nghị luận thể hiện ở những câu văn nào?

Yếu tố nghị luận thể hiện ở những câu văn:

“Những điều viết lên cát sẽ mau chóng xoá nhoà theo thời gian, nhưng không ai có thể xoá được những điều tốt đẹp đã được ghi tạc trên đá, trong lòng người.”

“Vậy mỗi chúng ta hãy học cách viết những nỗi đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa lên đá”.

(2) Nêu tác dụng của các yếu tố nghị luận trong đoạn văn.

Yếu tố nghị luận có tác dụng khiến câu chuyện trở nên sâu sắc và có ý nghĩa.

……………………………………………………………..

Soạn Bài Lớp 9: Ánh Trăng

Soạn bài lớp 9: Ánh trăng

Soạn bài: Ánh trăng

Nguyễn Duy

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Ánh trăng của Nguyễn Duy mang sức sáng nối liền quá khứ – hiện tại, là tấm gương trăng để soi lòng. Con người của gốc lúa bờ tre, của nắng nỏ trời xanh, của lời ru trọn kiếp người không đi hết, của “Nước chè tươi rót vàng mơ” ấy thường hay giật mình giữa chốn đô hội ồn ào:

tôi giật mình cái âm thanh của rừng lạc về thành phố Chợt hiện về thăm thẳm núi non kia” (Nghe tắc kè kêu trong thành phố)

2. Những năm tháng “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đã trở thành nguồn mạch hồi ức thường trực trong tâm hồn nhà thơ. Cho nên chỉ một tiếng tắc kè kêu cũng đủ khơi cho nguồn mạch ấy dào dạt chảy. Thì ra, người vốn thiết tha với đồng quê bình dị, say sưa với ca dao hò vè cũng là người ân tình với quá khứ gian lao, nặng lòng với núi rừng một thủa. Với Ánh trăng, Nguyễn Duy lại thêm một cái “giật mình”.

Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình.

Mạch cảm xúc đi từ quá khứ đến hiện tại và lắng kết trong cái “giật mình” cuối bài thơ. Trăng hiện diện trong quá khứ, đột ngột sáng trong hiện tại và mặc nhiên vằng vặc trong suy ngẫm nhân tình.

Vầng trăng tình nghĩa sáng trong không gian và thời gian kí ức:

Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa

Con người và thiên nhiên hài hoà trong mối kết giao tri kỉ, thuỷ chung. Từ những năm tháng tuổi thơ bươn trải nhọc nhằn gắn bó với đồng, với sông rồi với bể cho đến những năm tháng chiến tranh gian khổ sống với rừng, bao giờ trăng cũng gần gũi, thân thiết. Giữa con người với thiên nhiên, với trăng là mối quan hệ chung sống, quan hệ thâm tình khăng khít. Trăng là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện diện như là hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của kí ức chan hoà tình nghĩa. Người ta cứ đinh ninh về sự bền chặt của mối giao tình ấy, nhưng:

Từ hồi về thành phố quen ánh điện, cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường

Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà của ánh điện, cửa gương đã làm lu mờ ánh sáng của vầng trăng. Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa hình ảnh vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa trong quá khứ và vầng trăng “như người dưng qua đường” trong hiện tại. Sự đối lập này diễn tả những đổi thay trong tình cảm của con người. Thủa trước, ta hồn nhiên sống với đồng, với sông, với bể, với gian lao “ở rừng”, khi ấy trăng chan hoà tình nghĩa, thiên nhiên và con người gần gũi, hoà hợp. Bây giờ, thói quen cuộc sống phương tiện đủ đầy khiến ta không còn thấy trăng là tri kỉ, nghĩa tình nữa. Nhà thơ nói về trăng là để nói thế thái, nhân tình.

Tuy nhiên, cuộc sống hiện đại luôn có những bất trắc. Và chính trong những bất trắc ấy, ánh sáng của quá khứ, của ân tình lại bừng tỏ, là lúc người ta nhận thấy giá trị của quá khứ gian lao mà tình nghĩa, thiếu thốn mà đủ đầy:

3. Không chỉ là sự thay thế đúng lúc của ánh trăng cho ánh điện, ở đây còn là sự thức tỉnh, bừng ngộ về ý nghĩa của những ngày tháng đã qua, của những cái bình dị của cuộc sống, của tự nhiên, là sức sống vượt ra ngoài không gian, thời gian của tri kỉ, nghĩa tình. Các từ “bật tung”, “đột ngột” diễn tả trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, bất ngờ. Có cái gì như thảng thốt, lo âu trong hình ảnh “vội bật tung cửa sổ”. Vầng trăng tròn đâu phải khi “đèn điện tắt” mới có? Cũng như những tháng năm quá khứ, vẻ đẹp của đồng, sông, bể, rừng không hề mất đi. Chỉ có điều con người có nhận ra hay không mà thôi. Và thế là trong cái khoảnh khắc “thình lình” đối diện với trăng ấy, ân tình xưa “rưng rưng” sống dậy, thổn thức lòng người:

Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng

Đối diện với trăng là đối diện với chính mình, với con người hiện tại và cả với con người trong quá khứ. Sự đồng hiện thời gian – không gian/trăng – người được thể hiện bằng ngôn ngữ lập thể. Vầng trăng mang ý nghĩa biểu tượng. Mặt trăng đối diện với mặt người, mặt trăng cũng là mặt người, là quá khứ đang sáng trong thực tại, trăng là tri kỉ, ân tình xưa,…

4. Từ khổ thơ đầu là vầng trăng (4 lần) đến khổ thơ cuối bài là ánh trăng. Ánh trăng bất chợt soi chiếu, thản nhiên và độ lượng, sự im lặng của ánh trăng là sự im lặng của chân lí. Bình dị, mộc mạc nhưng đủ khiến “ta giật mình”. Cái chân lí giản đơn đã thành đạo lí: “Uống nước nhớ nguồn”.

II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG

1. Hình ảnh thơ trong bài có tính biểu tượng. Hiểu được ý nghĩa của hình ảnh ánh trăng, mới hiểu được cảm xúc ân tình với quá khứ gian lao, tình nghĩa của tác giả và từ đó rút ra bài học về cách sống cho bản thân.

2. Khi đọc, cần chú ý sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố trữ tình và yếu tố tự sự trong bố cục, giữa ý nghĩa cụ thể và ý nghĩa khái quát của hình tượng thể hiện trong bài thơ.

Theo chúng tôi

Soạn Bài Ánh Trăng Trang 155 Sgk Văn 9

Soạn bài Ánh trăng trang 155 SGK Văn 9

2. Hình ảnh vầng trăng củng cảm xúc của nhà thơ. Hình ảnh vầng trăng trong bai thơ là một hình tượng đa nghĩa.

1. Bố cục bài thơ là tâm trạng của tác giả được kể theo trình tự thời gian.

– Ba khổ đầu: Kề về sự gắn bó của tác giả với vầng trăng.

– Khổ thứ tư: Sự xuất hiện của vầng trăng.

– Khổ thứ năm và khổ thứ sáu: Cảm xúc và suy tư lặng lẽ của tác giả

Nhận xét về sự kết hợp giữa tự sự với trữ tình trong bài thơ:

– Dòng cảm nghĩ trữ tình của nhà thơ cũng men theo dòng tự sự này mà bộc lộ. Ở quãng thời gian quá khứ đã có một biến đổi, một sự thực đáng chú ý: hồi nhỏ rồi hồi chiến tranh sống hồn nhiên, gần gũi với thiên nhiên đến tưởng không bao giờ quên “cái vầng trăng tình nghĩa” ấy thế mà “từ hồi về thành phố” quen sống cùng những tiện nghi hiện lại, vầng trăng tình nghĩa đã như người dưng qua đường”.

– Trong dòng diễn biến theo thời gian, sự việc bất thường ở khổ thơ thứ tư chính là bước ngoặt đê từ đó tác giả bộc lộ cảm xúc, thế hiện chủ ý của tác phẩm (chú ý các từ thinh linh, vội, đột ngột), vầng trăng tròn ngoài kia, trên kia đối lập với “phòng buyn-đinh tối om”. Chính vì xuất hiệnn đột ngột trong bối cảnh ấy. vầng trăng bất ngờ mà tự nhiên gợi lại bao kỷ niệm nghĩa tình.

2. Hình ảnh vầng trăng cùng cảm xúc của nhà thơ

Hình ảnh vầng trăng trong bai thơ là một hình tượng đa nghĩa.

– Trước hết, vầng trăng là một hình ảnh của thiên nhiên khoáng đạt, tự nhiên, tươi mát. Trong hai khổ thơ đầu, vầng trăng hiện ra trong không gian của ruộng đồng, sóng biển, núi rừng. Đó là vầng trăng của hồi nhỏ sống với đồng” và sau này là “hồi chiến tranh ở rừng”. Lúc ấy, người sông giản dị “trần trụi với thiên nhiên – hồn nhiên như cây cỏ ” Vầng trăng trở thành người bạn tri kỉ, thành “vầng trăng tình nghĩa” gắn bó trong suốt những năm tháng từ thuở ấu thơ ở quê nhà đến chiến tranh sông ở rừng.

Đến khi về thành phố, sống giữa những tiện nghi hiện đạị, “quen ánh cửa gương”, con người bỗng quên đi cái vầng trăng “ngỡ không bao giờ quên” kia, bỗng vô tình với “cái vầng trăng tình nghĩa” kia. Sự vô tâm đến mức tàn nhẫn:

Vầng trăng đi qua ngỗ như người dưng qua đường.

Rồi đến một đêm nào đó:

Thình lình đèn điện tất phòng buyn-đinh tối om vội bật tung cửa sổ đột ngột vầng trăng tròn.

Con người đã quen với đèn điện nên quên trăng, vầng trăng vẫn có nhưng “như người dưng qua đường”. Phải đến khi đèn điện tắt, con người mới lại nhìn thấy và nhận ra vầng trăng. Phải đột ngột như thế, bất ngờ như thế, vầng trâng mới làm thức dậy trong tâm trí con người bao cảm xúc.

Ngửa mặt lên nhìn mặt

Có cái gì rưng rưng

như là đồng là bể như là sông là rừng

“Ngửa mặt lên nhìn mặt”, mặt người và mặt trăng đôi diên nhau. là khoảnh khắc bất ngờ gặp lại cố nhân. Khoảnh khắc gặp gỡ đó khiến hồn người “rưng rưng” cảm xúc. vầng trăng làm ùa dậy trong tâm tri những hình ảnh của thiên nhiên, của quê hương đất nước.

– Vầng trăng trong bài thơ còn có ý nghĩa biểu tượng: biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của đời sống.

Vầng trăng đâu chỉ làm ùa dậy trong tâm trí những hình ảnh của thiên nhiên, của quê hương đất nước, mà còn đánh thức trong tâm tri con người bao kỉ niệm hồn nhiên của thời tuổi nhỏ, bao kỉ niệm nghĩa tình của một thời gian lao chiến đấu.

Khổ thơ cuối cùng là nơi tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng:

Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình.

Mặc cho con người vô tình, “trăng cứ tròn vành vạnh”. Đó là hình ảnh tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ. “Ảnh trăng im phăng phắc” – phép nhân hóa khiến hình ảnh vầng trăng hiện ra như một con người cụ thể, một người bạn, một nhân chứng, rất nghĩa tình nhưng cũng vô cùng nghiêm khắc đang nhắc nhở con người đừng quên quá khứ. “Ánh trăng im phăng phắc” nhưng đủ để làm con ngườ: “giật mình” nhận ra sự vô tình không nên có, sự lãng quên đáng trách của mình. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên, nhưng thiên nhiên và nghĩa tình quá khứ thì vẫn nguyên vẹn, vĩnh hằng.

3. Nhận xét về kết cấu, về giọng điệu của bài thơ

– Qua một câu chuyện riêng, bằng sự kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình.

– Giọng điệu tâm tình bằng thể thơ năm chữ. Nhịp thơ khi thì trôi chảy tự nhiên, nhịp nhàng theo lời kể, khi thì ngân nga thiết tha cảm xúc (khổ 5), lúc lại trầm lắng biểu hiện suy tư (khổ cuối).

– Ánh trăng không chỉ là chuyện riêng của nhà thơ, chuyện của một người mà có ý nghĩa với cả mòt thế hệ thế hệ từng trải qua những năm tháng dài gian khổ của chiến tranh, từng gắn bó với thiên nhiên, nhân dân tình nghĩa giờ được sống trong hòa bình, được tiếp xúc với nhiều tiện nghi hiện đại. Hơn thế bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời bởi nó đặt ra vấn đề thái độ với quá khứ, những người đã khuất và đối với cả chính mình.

Ánh trăng năm trong mạch cảm xúc “uống nước nhớ nguồn”, gợi lên đạo lý sống thủy chung đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta.

Soạn Bài Ánh Trăng Ngữ Văn 9 Đầy Đủ

– Bài thơ gồm 6 khổ thơ, được chia làm 3 phần:

Ba khổ thơ đầu tác giả kể lại tuổi thơ và khi đi lính làm bạn với ánh trăng, sau đó là sự thay đổi của cuộc sống trong hoà bình.

Khổ thứ 4 là sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng.

Hai khổ cuối thể hiện cảm xúc, suy tư của nhà thơ về những năm tháng tuổi thơ, năm tháng là ngưòi lính và những suy tư về cuộc đời.

– Bài thơ như một câu chuyện nhỏ kể theo một trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại nên bài thơ giàu cảm xúc trữ tình và có cả yếu tố tự sự đan xen. Qua ánh trăng thiên nhiên, tác giả đã bộc lộ cảm xúc; tâm trạng của mình về những năm tháng đã qua và năm tháng của hiện tại.

– Hình ảnh vầng trăng mang nhiều tầng ý nghĩa. Ánh trăng trở thành một biểu tượng để tác giả gửi gắm dòng cảm xúc của mình. Vầng trăng xuất hiện trong hai thời điểm khác nhau: ánh trăng gắn bó với nhà thơ hồi nhỏ, hồi chiến tranh và sự vô tình của tác giả với trăng khi về thành phố. Trong quá khứ của tuổi thơ, của cuộc đời người lính, trăng là hình ảnh thiên nhiên tươi tắn:

“Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ.”

– Khi ở núi rừng gắn bó với cuộc đời lính, ánh trăng trở thành “tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa”, vầng trăng thiên nhiên là người bạn đồng hành soi sáng nơi rừng núi, trăng vừa hồn nhiên, vừa gần gũi thân quen như cỏ cây quen thuộc. Ánh trăng được nhắc đến vừa bình dị, vừa nghĩa tình mà tác giả “ngỡ không bao giờ quên”. Song, sau khi về thành phố, sống một cuộc sống mới đầy đủ “ánh điện”, “cửa gương” tác giả đã vô tình quên mất “vầng trăng tình nghĩa” ấy. Cuộc sống hiện đại bộn bề công việc, cuốn con người đi theo, chỉ cần một sự vô tình, con người có thể quên đi những phút giây đáng nhớ hay những kĩ niệm êm đẹp một thời. Có ánh điện chiếu sáng rồi, vầng trăng không còn được chú ý đến nữa. Cuộc sống đã thay đổi, còn ánh trăng vẫn thế, vẫn chiếu sáng nơi nơi. Trăng vẫn là trăng của trời, biến, núi rừng ngày nào, nhưng giờ đây nơi cuộc sống đô thị, trăng đã thành “người dưng qua đường”. Trăng từ người “tri kỉ”, “tình nghĩa” đã trở thành “người dưng qua đường”, không có ai, kể cả tác giả, còn để ý đến vầng trăng nữa.

– Và rồi cuộc sống cứ thế trôi qua, trôi qua đến lúc thành phố mất điện, các toà nhà cao tầng bỗng tối om, vầng trăng mới đột ngột xuất hiện. Trong khoảnh khắc ấy, nhà thơ như gặp lại chính mình, gặp lại tuổi thơ, gặp lại vầng trăng tình nghĩa ngày xưa.

“mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng.”

– Ánh trăng đã ùa vào tâm trí nhà thơ với niềm cảm xúc rưng rưng. Trong mạch cảm xúc, suy tư ấy, vầng trăng mang một ý nghĩa biểu tượng đặc biệt. Trăng “cứ tròn vành vạnh”, vẫn tròn trịa đầy ân tình, vẫn trước sau thuỷ chung như một, vẫn hoàn thiện thế, vẫn đẹp, bình dị dù con người có vô tình. Để một ngày kia bất chợt nhìn lại, bản thân ta giật mình trưốc ánh trăng lặng im không nói. Ánh trăng không còn dừng lại ở hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, hồn nhiên nữa, mà là biểu tượng cho quá khứ đẹp đẽ, cho những ngày gian nan nên vầng trăng vẫn còn nguyên vẹn không thể phai mờ. Ánh trăng là một nhân chứng, một tấm gương chiếu rọi về cuộc sông, quá khứ, hiện tại và cả tương lai.

– Cuộc sống dù có đổi khác nhưng vầng trăng vẫn “tròn vành vạnh” để nhắc nhở chúng ta luôn tưởng nhớ về quá ‘khứ, về kỉ niệm của những năm tháng đã đi qua. Khổ thơ cuối trong bài thơ đã thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh trăng cũng như chiều sâu tư tưởng triết lí của tác phẩm.

– Ánh trăng là một bài thơ mộc mạc, giản dị nhưng là lời nhắc nhỏ nghiêm khắc với chúng ta về những kỉ niệm, những ân tình, những năm tháng quá khứ gian lao đã qua.

– Từ câu chuyện tâm tình của một người đã trở thành chuyện của muôn người, chuyện của cả một thế hệ. Tuổi thơ nghèo khó đã qua, những năm tháng gian lao, khắc nghiệt của cuộc chiến tranh đã đi qua, cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, với núi rừng cũng qua đi. Đất nước đã hoà bình, cuộc sống hiện đại cuốn con người đi cùng với những bề bộn công việc, con người dễ lãng quên quá khứ, quên chính bản thân mình.

– Bài thơ là lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hoà và nêu lên một đạo lí sống, lẽ sống của người Việt Nam “Có trước có sau”, “Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ, khi sung sướng không quên lúc cơ hàn.

– Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc. Thế hệ Nguyễn Duy từng trải qua những năm tháng gian lao, khắc nghiệt, từng sống giữa núi rừng thiên nhiên tình nghĩa, sông giữa tình đồng đội và tình bao bọc của nhân dân.

– Nhà thơ đứng trên mảnh đất hôm nay để ngẫm lại quá khứ đã qua, và đi từ tâm trạng riêng đến tiếng nói chung của mọi người, vầng trăng trong bài thơ mang tính biểu tượng, trăng không chỉ là thiên nhiên mà còn là quá khứ tình nghĩa. Vì vậy, bài thơ gợi nhắc mọi người nhớ về cội nguồn và trở về với lẽ sống chung thuỷ tình nghĩa.

Tuổi thơ của tôi gắn bó với làng quê, với những cánh đồng thơm hương lúa chín, với dòng sông êm đềm nơi tôi tắm mát những ngày thơ dại. Mỗi đêm, trên chiếc chõng tre, bà thường kể tôi nghe bao câu chuyện cổ tích ngọt ngào dưới ánh trăng hiền hòa. Ánh trăng như người bạn thuở thiên thiếu, đã lớn lên cùng tôi nơi làng quê thanh tịnh. Năm tháng ấy cứ êm đềm trôi qua. Rồi đất nước bỗng lâm cảnh chiến tranh loạn lạc, tôi lên đường chiến đấu theo tiếng gọi của quê hương. Nơi rừng xa thanh vắng, nơi ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Tôi nhớ làng quê, nhớ gia đình. Ngước lên ánh trăng trên cao, trăng tỏa sáng dịu hiền như muốn chia sẻ những nỗi buồn cùng tôi. Giữa cuộc sống trần trụi với thiên nhiên, cỏ cây, trăng như người bạn tri âm tri kỉ, đã cùng tôi đi qua những ngay chiến đấu gian khổ. Có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ quên được vầng trăng tình nghĩa, đã luôn đồng hành cùng tôi trong cuộc đời. Vậy mà, chiến tranh kết thúc, hòa bình lập lại. Tôi trở về thành phố, những ngôi nhà ống san sát, những ánh đèn cao áp, cuộc sống đầy đủ tiện nghi vật chất đã lôi cuốn tôi. Những kí ức năm xưa về làng quê với ánh trăng thanh bình, tôi đã dần lãng quên. Rồi một đêm tối nọ, bỗng ánh đèn khắp thành phố vụt tắt, không khí trở nên ngột ngạt hơn. Tôi đưa tay mở tung cánh cửa sổ. Lạ thay, ánh sáng chiếu vào tôi lúc nào dịu mát làm sao, đó không phải là ánh đèn điện nóng bức ngày hè. Đó là ánh trăng – vầng trăng tròn vành vạnh tỏa sáng trên bầu trời đêm. Tôi với trăng, mặt đối mặt, nhìn nhau, thật lâu. Bỗng, trong lòng tôi có cái gì đó rưng rưng, Bao nhiêu ký ức chợt ùa về. Hình ảnh của những cánh đồng bao la, những dòng sông, những hồ bể, những cánh rừng cứ hiện lên trong đầu tôi. Bao năm trôi qua, mái tóc tôi đã điểm hoa râm nhưng trăng vẫn không thay đổi, vẫn tròn vành vạnh như lúc xưa. Trăng vẫn đứng im trên bầu trời trong xanh, tỏa sáng khắp nhân gian. Trăng vẫn như chờ tôi bên ngoài cửa sổ biết bao năm nay. Tôi đã quá thờ ơ với trăng, đã vô tình quên đi những kỷ niệm đẹp đẽ giữa trăng và tôi. Trăng cứ nhìn tôi, im lặng. Tôi bỗng giật mình. Sự im lặng của trăng cứ như một lời trách móc tôi, oán hận tôi vì sao đã quên đi người bạn tri kỷ. Phải chăng tôi đã quá vô tình, sống nơi thị thành xa hoa giàu có mà đã lãng quên đi tuổi thơ nghèo khó, quên đi người bạn đã gắn bó thủy chung bên mình, quên đi bao tháng ngày tuổi trẻ. Lòng tôi nghẹn đắng, giọt nước mắt như trực trào ra. Và tôi đã hứa, lời hứa thật lòng, khắc sâu trong đầu tôi, là không bao giờ được quên đi ánh trăng – người bạn ân nghĩa, thủy chung đã gắn bó cùng tôi suốt thời thơ ấu và cả chặng đường chiến đấu gian lao vất vả trong quá khứ.

Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Văn 9 Bài Ánh Trăng Vnen trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!