Bạn đang xem bài viết Soạn Bài: Tức Nước Vỡ Bờ – Ngữ Văn 8 Tập 1 được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
I. Tác giả, tác phẩm
1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Ngô Tất Tố trong SGK Ngữ văn 8 Tập 1).
2. Tác phẩm
* Xuất xứ: Văn bản Tức nước vỡ bờ được trích từ chương XVIII của tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố.
* Tóm tắt
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ kể về gia đình chị Dậu đã rứt ruột bán đứa con gái, bán cả đàn chó mới đẻ mà vẫn chưa đủ tiền nộp sưu thuế. Anh Dậu đang ốm cũng bị bọn tay sai lôi ra đình đánh đập, sống dở chết dở. Bà hàng xóm cho bát gạo, chị Dậu vừa nấu xong nồi cháo thì bị tên cai lệ và người nhà lí trưởng ập đến đòi sưu. Mặc chị hết lời van xin, tên cai lệ vẫn nhất quyết đòi bắt anh Dậu. Chị Dậu xông vào đỡ tay, bị cai lệ đánh và chị đã túm cổ đẩy tên này ngã chổng quèo. Người nhà lí trưởng định sấn sổ giơ gậy đánh thì bị chị Dậu túm tóc, lẳng cho một cái ngã nhào ra thềm.
* Bố cục:
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ được chia làm 2 đoạn:
Đoạn 2: còn lại: Cảnh chị Dậu phản kháng chống lại tên cai lệ và người nhà lí trưởng.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:
Khi bọn tay sai xông vào nhà chị Dậu, tình thế của gia đình chị rất thảm thương:
Anh Dậu thì vừa mới tỉnh sau một trận bị đánh thập tử nhất sinh.
Được bà lão hàng xóm tốt bụng cho bát gạo nấu cháo, chị Dậu rón rén bưng bát cháo lên cho chồng và ngồi xem chồng ăn có ngon không.
Anh Dậu chỉ vừa “run rẩy cất bát cháo kề vào đến miệng”
Câu 2:
Phân tích nhân vật cai lệ.
Cai lệ là cai cầm đầu đám lính ở huyện đường, tay sai chuyên đáng người là “nghề” của hắn.
Cảnh cai lệ xông vào nhà chị Dậu:
Gõ đầu roi xuống đất, quát bằng giọng khàn khàn.
Là một tên tay sai chuyên nghiệp, chuyên đi đánh trói, bắt người.
Xưng hô xấc xược, đểu cáng “ông – thằng”, “ông – mày”.
Trợn ngược mắt quát, giọng hầm hè, đùng đùng giật phắt thừng, bịch luôn vào ngực chị Dậu, tát vào mặt chị đánh cái bốp.
Câu 3:
Diễn biến tâm lý nhân vật chị Dậu trong đoạn trích:
* Ban đầu: nhẫn nhục, chịu đựng, chỉ nói lí:
Gọi ông, xưng cháu, lời nói thì nhún nhường, van xin “cháu van ông…”
Hành động: run run, chạy đến đỡ tay cai lệ,…
* Đến khi không chịu được nữa thì chị Dậu vùng dậy phản kháng:
Xưng hô ông – tôi, sau đó là bà – mày, lời nói cũng đầy thách thức, quyết liệt.
Hành động mạnh mẽ, khỏe khoắn “túm cổ cai lệ, ấn dúi ra cửa”…
Câu 4:
Nhan đề Tức nước vỡ bờ phản ánh quy luật: có áp bức sẽ có đấu tranh.
Theo em, xét về toàn bộ nội dung của tác phẩm thì Tức nước vỡ bờ là nhan đề hợp lý, phù hợp với diễn biến câu chuyện. Bởi nhan đề này có nghĩa là khi con người bị áp bức, bóc lột thì sẽ có sự phản kháng mạnh mẽ. Sức mạnh đó bắt nguồn từ chính ý thức nhân phẩm và tình yêu thương gia đình.
Câu 5:
Nhận xét của nhà nghiên cứu phê bình văn học Vũ Ngọc Phan: “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo”. Bởi vì:
Thể hiện rõ nét, sinh động tính cách của các nhân vật
Tạo tình huống truyện khéo léo. Đặc biệt, ngòi bút miêu tả ngoại hình, hành động, ngôn ngữ linh hoạt, sống động.
Ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ đối thoại bộc lộ được sâu sắc tính cách nhân vật, phản ứng những nét diễn biến tâm lý phức tạp
Câu 6:
Nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng, với tác phẩm Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã “xui người nông dân nổi loạn” Theo em, nhận định này là đúng, bởi vì sống trong một xã hội tàn bạo, vô lí, tàn nhẫn đến cực độ mà sức mạnh đấu tranh của người nông dân đang tiềm tàng thì tại sao họ không thể “nổi loạn” để đòi lại công bằng?
Có thể nói, Ngô Tất Tố đã nhận ra rằng, người nông dân trong xã hội phong kiến đó, chỉ bằng bạo lực, đấu tranh mới giải quyết được sự đàn áp, gông cùm của chế độ nửa phong kiến thực dân.
4.8
/
5
(
119
bình chọn
)
Soạn Văn 8 Vnen Bài 3: Tức Nước Vỡ Bờ
Soạn văn 8 VNEN Bài 3: Tức nước vỡ bờ
A. Hoạt động khởi động
Trả lời:
Tình cảnh của gia đình chị Dậu:
+ Gia cảnh nhà chị Dậu lâm vào cảnh cùng đường: bán con, bán chó, bánh gánh khoai, chạy vạy tiền nộp sưu cho chồng và người em chồng đã chết.
+ Người chồng đau ốm tưởng chết, lại bị đánh đến ngất đi do thiếu sưu thuế.
+ Bọn tay sai sấn sổ xông vào đòi đánh trói anh Dậu.
B. Hoạt động hình thành kiến thức
1. (trang 18, Ngữ Văn 8 VNEN, Tập 1) Đọc văn bản sau: TỨC NƯỚC VỠ BỜ
2. (trang 21, Ngữ Văn 8 VNEN, Tập 2) Tìm hiểu văn bản
a. Khi bọn tay sai xông vào nhà chị Dậu, tình thế của chị như thế nào?
b. Dựa vào gợi ý từ bảng sau, hãy nhận xét về nhân vật cai lệ:
Từ những nhận xét trên em hiểu như thế nào về chế độ xã hội đương thời? Em hãy nhận xét về nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả?
c. Phân tích diễn biến tâm lí của chị Dậu trong đoạn trích (trước và sau khi cai lệ đến) thông qua thái độ và cử chỉ, lời nói… của chị với mọi người xung quanh. Theo em sự thay đổi trong thái độ của chị Dậu có được miêu tả chân thực, hợp lí hay không. Qua đoạn trích này, em có nhận xét gì về tính cách của chị?
d. Theo em, nhan đề Tức nước vỡ bờ cho đoạn trích này liệu có hợp lí hay không? Vì sao?
e. Em hãy chứng minh nhận xét của nhà nghiên cứu phê bình học Vũ Ngọc Phan:” Cái đoạn chị dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo (gợi ý: tìm hiểu việc tạo dựng tình huống, việc miêu tả ngoại hình, hành động, ngôn ngữ, tâm lí nhân vật, nghệ thuật kể chuyện, ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ đối thoại..; chú ý nêu rõ những yếu tố khiến cho đoạn văn được coi là ” tuyệt khéo”)
Trả lời:
a. Khi bọn tay sai xông vào, tình thế của chị Dậu là:
* Chị mới vừa rón rén bưng bát cháo cho chồng và đang hồi hộp ” chờ xem chồng chị có ăn ngon miệng không”
* Anh Dậu vừa “run rẩy cất bát cháo anh mới kề vào đến miệng” thì hai tên tay sai đã “sầm sập tiến vào” trong tay đầy những “roi song, tay thước và dây thừng”.
b. Nhận xét về nhân vật cai lệ
c. Diễn biến tâm lí chị Dậu
– Trước khi cai lệ đến:
+ Chị mới vừa rón rén bưng bát cháo cho chồng và đang hồi hộp “chờ xem chồng chị có ăn ngon miệng không”.
+ Cử chỉ, thái độ nhẹ nhàng, quan tâm chồng.
– Khi cai lệ đến:
+ Ban đầu “van xin tha thiết”, lễ phép xưng “cháu” gọi “ông”
+ Chỉ đến khi cai lệ “bịch luôn vào ngực chị… mấy bịch rồi sấn đến trói anh Dậu” không chịu được nữa, chị mới liều mạng cự lại.
+ Đẩy tên cai lệ ngã chỏng quèo, túm tóc lẳng tên người nhà lí trưởng ngã nhào ra thềm.
d. Nhan đề Tức nước vỡ bờ phản ánh quy luật: có áp bức sẽ có đấu tranh.
– Xét toàn bộ nội dung tác phẩm thì Tức nước vỡ bờ là tên gọi hợp lý phù hợp với diễn biến truyện.
– Tên nhan đề có ý nghĩa khi con người bị áp bức, bóc lột sẽ phản kháng mạnh mẽ. Sức mạnh đó bắt nguồn từ ý thức nhân phẩm, tình yêu thương gia đình.
e. Chứng minh nhận xét của nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan
– Tác giả tạo dựng tình huống truyện gay cấn: sau khi van xin khẩn thiết, nói lí lẽ nhưng cai lệ vẫn sấn sổ tới đánh trói, chị Dậu phản kháng.
– Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật:
+ Chị Dậu: nhẫn nhục, chịu đựng nhưng vẫn có sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ.
+ Cai lệ; hung tàn, thú tính, ngang ngược, hung hãn
– Miêu tả ngoại hình bằng nghệ thuật đối lập:
+ Chị Dậu: lực điền, khỏe khoắn, quyết liệt
+ Bọn tay sai: sức lẻo khẻo như tên nghiện, ngã chỏng quèo…
– Ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ đối thoại được bộc lộ sâu sắc tính cách nhân vật, phản ánh những nét diễn biến tâm lí phức tạp.
– Đoạn miêu tả cảnh phản kháng giữa chị Dậu với bọn tay sai qua ngòi bút linh hoạt, pha chút hóm hỉnh, độc đáo.
3. (trang 22, Ngữ Văn 8 VNEN, Tập 1) Tìm hiểu về cách xây dựng đoạn văn
a. Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi: NGÔ TẤT TỐ VÀ TÁC PHẨM “TẮT ĐÈN”
* Văn bản trên gồm mấy ý? Mỗi ý viết thành mấy đoạn văn? Em thường dựa vào những dấu hiệu hình thức nào để nhận biết đoạn văn?
c. Đọc đoạn văn sau và lời câu hỏi:
Các tế bào của lá cây có chứa nhiều lục lạp. Trong các lục lạp này có chứa một chất gọi là diệp lục, tức là chất xanh của lá. Sở dĩ chất diệp lục có màu xanh lục vì nó hút các tia sáng có màu khác, nhất là màu đỏ và lam, nhưng không thu nhận màu xanh lục. Như vậy, lá cây có màu xanh là do chất diệp lục chứa trong thành phần tế bào.
* Nội dung của đoạn văn được trình bày theo trình tự nào (diễn dịch, quy nạp hay song hành)?
Trả lời:
a.
– Văn bản gồm 2 ý chính:
+ Khái quát về tác giả Ngô Tất Tố
+ Tổng kết về giá trị nổi bật của tác phẩm Tắt đèn
– Đoạn văn thứ nhất
+ Em thường dựa vào chỗ viết hoa lùi vào đầu dòng đến chỗ chấm xuống hàng.
+ Trong đoạn văn thứ nhất, từ Ngô Tất Tố, ông là, nhà văn, tác phẩm chính của ông,…là những từ ngữ có tác dụng duy trì đối tượng
+ Trong đoạn văn thứ hai, câu “Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu nhất của Ngô Tất Tố” là câu then chốt. Vì nó là câu mang nội dung khái quát
b. Nội dung của đoạn văn có thể trình bày bằng nhiều cách khác nhau:
Cách trình bày nội dung đoạn văn: đoạn văn được trình bày theo lối quy nạp.
C. Hoạt động luyện tập
1. (trang 23, Ngữ Văn 8 VNEN, Tập 1) Các nhóm chuẩn bị (trong khoảng 5 phút) và xây dựng một đoạn văn thể hiện cảm nhận của từng nhóm sau khi đọc xong văn bản Tức nước vỡ bờ.
Trả lời:
Tắt đèn là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Ngô Tất Tố, tác phẩm không chỉ mang giá trị hiện thực mà còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm có hai hình tượng trung tâm là tên cai lệ và chị Dậu. Mỗi nhân vật đại diện cho một giai cấp, một phẩm chất khác nhau, qua đó bộc lộ những suy nghĩ, quan điểm của tác giả về xã hội lúc bấy giờ. Nhân vật cai lệ là đại diện cho bộ mặt độc ác, bất nhân của những kẻ cầm quyền trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Bên cạnh tên cai lệ độc ác, bất nhân lại hiện lên hình ảnh của một chị Dậu có hoàn cảnh đáng thương nhưng giàu tình yêu thương và sức phản kháng mãnh liệt. Chị Dậu vốn là người phụ nữ mộc mạc, khiêm nhường, giàu lòng yêu thương, chịu đựng nhưng không hề yếu đuối. Trái lại chị có một tinh thần phản kháng và sức sống mãnh liệt. Chị là đại diện điển hình cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Khi viết tác phẩm này, Ngô Tất Tố không chỉ tố cáo bộ mặt của tầng lớp thống trị trong xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ, mà còn mang thái độ yêu thương, cảm thông cho những số phận bất hạnh và trân trọng ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người nông dân.
D. Hoạt động vận dụng
(trang 24, Ngữ Văn 8 VNEN, Tập 1) Viết bài tập làm văn số 1 (làm tại lớp) – Văn tự sự. Tham khảo các đề sau:
Đề 1: Tôi thấy mình đã lớn khôn
Trả lời:
+ Dàn ý:
A. Mở bài:
– Mỗi con người sinh ra và lớn lên đều trải qua những khoảng thời gian “giao thoa”, đánh dấu sự phát triển về cả thể chất lẫn tâm hồn
– Khoảng thời gian tôi nhận thấy mình đã khôn lớn, là khi tôi lên lớp 6.
B. Thân bài:
* Đặc điểm đặc biệt về thể chất
– Tôi nhớ khi còn đang học lớp 4, tôi chỉ có thể mở được ngăn dưới của tủ lạnh mà không thể với tới ngăn trên. Nhưng giờ tôi đã có thể mở được cả ngăn trên, thậm chí tôi đã cao gần bằng cái tủ lạnh nhà tôi.
– Mái tóc đã dài đến ngang lưng, đây là điều tôi tự hào nhất bởi với mái tóc dài ấy, tôi thấy mình như điệu đà hơn.
* Đặc điểm đặc biệt về tâm lý
– Tôi bắt đầu có nhiều suy nghĩ hơn về những thứ xung quanh dù đôi khi chỉ là những suy nghĩ vẩn vơ.
– Tôi đã bắt đầu biết đặt ra cho mình những quy định riêng và tự nhủ phải thực hiện nghiêm chỉnh. Trưởng thành chính là khi con người biết đưa mình vào khuôn khổ, và tôi đã dần làm được điều đó.
– Tôi bắt đầu có những ước mơ, hoài bão. Khi xem chương trình “Cán cân công lý”, tôi đã thấy yêu và trọng cái nghề bảo vệ công lý: luật sư. Từ đó, dù không nói với ai nhưng tôi luôn nuôi hoài bão được trở thành một luật sư tài giỏi.
* Kỉ niệm tôi đã khôn lớn
– Đó là ngày khai trường vào lớp 6, ngày đầu tiên bước chân vào cấp trung học cơ sở, tôi đã tự đi một mình vì hôm đó bà nội tôi ốm nặng, bố mẹ đều phải ở trên viện chăm sóc bà.
– Nhớ ngày khai giảng vào lớp 1, tôi đã rụt rè, e sợ biết bao nhiêu, chỉ biết bấu lấy mẹ không rời.
– Hôm đó, tôi đã tự chuẩn bị mọi thứ, từ ăn sáng, mặc quần áo chỉnh tề, đeo khăn đỏ, cột tóc gọn gàng. Trường cách nhà tôi khoảng hơn 1km nên tôi chọn đi xe đạp – chiếc xe nhỏ bố tôi mua tặng dịp sinh nhật lần thứ 4.
– Đóng cửa cẩn thận, tôi hít một hơi thật sâu sau đó đạp xe đến trường.
– Cảm xúc của tôi lúc đó vô cùng hào hứng, hồi hộp, đã không còn sợ như hồi còn lớp 1, mà thay vào đó, tôi càng háo hức mong chờ giây phút khai giảng, được đứng dưới lá cờ tổ quốc hát vang bài Quốc ca, Đội ca.
– Buổi chiều hôm đó, mẹ tôi về, tôi háo hức kể cho mẹ nghe về buổi sáng khai giảng, về tất cả những gì tôi đã suy nghĩ, cảm nhận được. Mẹ tôi âu yếm ôm tôi vào lòng và nói: “Mẹ xin lỗi vì không thể đi cùng con trong ngày tự trường quan trọng ấy. Nhưng con gái của mẹ thật sự đã khôn lớn rồi!”
– Câu nói của mẹ làm tôi vô cùng vui sướng, hãnh diện, và tự hào về chính bản thân mình. Cảm giác khôn lớn thật tuyệt.
C. Kết bài: – Tôi tự nhủ rằng mình sẽ phải trưởng thành hơn nữa, học tập thật tốt để báo đáp công ơn của cha mẹ.
+ Bài làm tham khảo
Để chuẩn bị cho ngày kiểm tra chất lượng đầu năm học, hôm nay, mẹ bảo em: “Con ạ, đã gần đến ngày kiểm tra rồi, con soạn lại góc học tập cho chu đáo đi con ạ! Con gái của mẹ đã lớn rồi! Năm nay con thử sắp xếp một mình xem sao!”
Nghe lời mẹ, em hí hoáy bắt tay vào soạn cặp, chợt rơi ra một tấm ảnh cũ của em năm lớp năm! Nhìn tấm ảnh, em ngạc nhiên vô cùng. Trời ơi, bây giờ em đã khác xưa nhiều quá, bồi hồi, em ngồi trước gương soi để so sánh mình bây giờ và mình ngày xưa ấy!
Nhớ năm học lớp Năm, em còn là một cô bé đang sún vì thay răng sữa, mà răng mới không kịp mọc, vẫn phải đi chụp hình gấp để làm hồ sơ chuẩn bị thi tốt nghiệp cấp một. Tấm ảnh trên tay em là một cô bé có đôi mắt ngơ ngác rụt rè, pha chút ngái ngủ hay sượng sùng. Mái tóc ngắn ôm lấy hai má bầu bĩnh, trông em hệt như búp bê nhà trẻ! Mà thật sự hôm đi chụp hình ấy, em cứ lúng túng không biết làm cách nào để che đi cái răng sún, trong khi tính em lại hay cười. Lúc ấy mỉm môi lại thì cũng không được, cuối cùng… là một tấm ảnh ngộ nghĩnh này đây!
Thế mà bây giờ trong gương lại hiện ra một cô gái trẻ, mái tóc buông dài, bóng mướt, đôi môi hồng hồng vểnh lên như sắp cười với mọi người, làm cho mỗi lần gặp ai xa lạ, em lại phải mím môi lại cho có vẻ thật nghiêm trang! Đã vậy, tay chân em vụt dài ra, làm cho đôi khi bước chân em cứ có cảm giác như là sắp ngã. Quần áo thì hệt như chú bé làng Gióng, mỗi cái áo mẹ mới may cho, em mặc chỉ được vài tháng đã sứt chỉ vị chật chội.
Đang ngồi nghĩ ngợi mông lung thì tiếng chuông điện thoại reo vang, mẹ am nhấc máy lên nghe, rồi nói:
– Con ơi, cô chủ nhiệm muốn gặp con bàn công tác đấy, con ạ!
Em bồi hồi cầm điện thoại từ tay mẹ trao lại. Cô nói:
Trước niềm tin tưởng của cô, em cảm động nói:
– Vâng ạ, em sẽ giúp bạn hết lòng, để không phụ lòng tin tưởng của cô!
Sau khi nhận lời, cô dặn dò em vài điều nữa rồi mới bảo em: “Cô cần gặp mẹ để trao đổi thêm!”
Nói xong, cô bảo em trao điện thoại cho mẹ, em chuyển máy cho mẹ mà thấy lòng mình vui sướng vô cùng khi nhận được sự tin tưởng của cô giáo chủ nhiệm. Mẹ em trò chuyện với cô xong, lại gần bên em vuốt tóc em nói:
Em vui vẻ cúi xuống “dạ” một tiếng rồi chẩy sân, sao mà cuộc sống tươi đẹp và đầy bí ẩn bất ngờ thế nhỉ! Loay hoay, đôi chân em đi nhầm một chiếc giày của mẹ, làm cho đôi chân em khập khiễng thật buồn cười!
Đề 2: Người ấy sống mãi trong lòng tôi
+ Dàn ý (viết về bạn):
A. Mở bài:
– Mỗi người chúng ta đều có những kỉ niệm không bao giờ có thể quên được, và những con người “đặc biệt” – người ấy sống mãi trong lòng chúng ta.
– Tôi cũng vậy, một trong số những người “đặc biệt” ấy đối với tôi, đó là cô bạn thân thời lớp 4,5 – bạn Thùy Chi
B. Thân bài:
* Ngoại hình:
– Chi là một cô bé cao, thân hình vừa phải không gầy cũng không béo, làn da trắng trẻo.
– Bạn có đôi mắt rất to và đen, đôi môi nhỏ chúm chím rất hay cười. Bạn cười rất duyên nhờ một chiếc má lúm đồng tiền bên trái.
– Mái tóc dài đến eo, đen và mượt vô cùng.
– Đặc biệt, tôi rất thích nhìn bàn tay của Chi, bàn tay dài, ngón tay búp măng như một cô công chúa.
* Tính cách:
– Chi là một người bạn rất tốt, hiền lành, hòa đồng và rất thích giúp đỡ người khác.
– Chi học khá giỏi, đặc biệt bạn ấy rất giỏi Tiếng Anh – môn tôi học kém nhất. Vì vậy, Chi đã giúp tôi rất nhiều trong việc học Tiếng Anh, truyền cảm hứng và niềm yêu thích môn ngoại ngữ này cho tôi.
* Kỉ niệm của tôi với Chi:
– Trong ngày đầu tiên của lớp 4, khi chúng tôi còn đang đùa nghịch thì chuông reo, cô giáo chủ nhiệm bước vào, dắt thêm 1 bạn nữ nữa – đó là Chi. Không biết có phải duyên số không khi cô xếp Chi vào ngồi cạnh tôi luôn. Từ đó, tôi là người bạn đầu tiên và cũng là người bạn thân nhất của Chi.
– Tôi và Chi rất hợp nhau, từ cách nói chuyện cho đến sở thích, chúng tôi đều có điểm chung, nhờ đó, chúng tôi chơi càng thân với nhau, giúp đỡ nhau trong học tập và chơi đùa cùng nhau, từ đó 2 gia đình cũng chơi thân với nhau luôn.
– Đến gần hết năm lớp 4, một điều không may đã xảy ra với Chi, mẹ bạn mất do bệnh ung thư. Khi biết tin, tôi đã rất sốc bởi mẹ Chi là một người hiền lành và bác vô cùng yêu quý tôi. Lòng tôi như trùng xuống, hôm đó bố đưa tôi đến nhà Chi thăm viếng. Tôi thật sự xúc động trước hình ảnh cô bé xinh xắn với nụ cười ngày nào đang ngồi thu lu một góc, thẫn thờ nhìn về di ảnh của mẹ.
– Vài ngày sau, Chi đến lớp, vẫn đôi mắt to đen ấy, nhưng nó đã trở nên buồn bã, lúc nào cũng long lanh, trực khóc. Mặc dù vậy, chi vẫn không khóc, bạn vẫn chăm chú nghe cô giảng, làm bài và cố gắng nở một nụ cười gượng giụ khi các bạn chơi đùa. Tôi thấy rõ đằng sau sự gồng mình, gắng gượng của bạn là một nỗi buồn, một nỗi đau khó có thể vùi lấp.
– Tôi thấy rõ nghị lực, sự cố gắng của Chi trước nỗi mất mát lớn lao đó, có lẽ bạn đang cố sống thật tốt để mẹ bạn trên trời có thể được yên tâm an nghỉ. Sự trưởng thành đó khiến cho tôi càng khâm phục và yêu quý bạn hơn. Từ đó, tôi quan tâm đến Chi nhiều hơn, cố gắng làm mọi chuyện để bạn vui, mẹ tôi cũng vậy, mẹ tôi càng thương Chi và mong có thể giúp đỡ bạn vượt qua khỏi nỗi đau mất mát đó.
– Đến hết lớp 5, Chi và bố bạn chuyển lên Hà Nội sống với ông bà ngoại, hôm chia tay tôi và Chi đã khóc rất nhiều. Chúng tôi đều hứa sẽ mãi mãi là bạn tốt và không bao giờ quên nhau.
C. Kết bài:
– Từ đó đến nay, tôi và Chi vẫn thường xuyên liên lạc qua điện thoại với nhau, cùng nhau nói chuyện chia sẻ và hứa hẹn một ngày sẽ cùng nhau đi chơi công viên ở Hà Nội.
– Hình ảnh Chi với đôi mắt buồn bã, long lanh luôn in sâu trong tâm trí tôi.
+ Bài làm thao khảo (Viết về bà)
Có lẽ bây giờ đã quá muộn khi tôi nói về chuyện của tuổi thơ, một câu chuyện buồn giữa tôi và bà Tám. Dù muộn nhưng tôi vẫn phải kể ra để trong tôi bớt đi nỗi ân hận ngập tràn.
Hồi ấy, khi tôi còn là một cậu bé nghịch ngợm và bướng bỉnh, tôi đã gây ra không biết bao nhiêu là chuyện không hay cho mọi người và có lẽ bà Tám là người gánh chịu không ít những chuyện như thế.
Hồi ấy, bà Tám đã già, ở trong một căn nhà nhỏ cạnh nhà tôi. Bà chẳng có chông con. Tôi nghe đâu ngày xưa bà bị người ta lừa. Một gã đàn ông giàu sang lịch sự đến “cướp” đi đời con gái của bà. Từ đó chẳng ai để ý, rồi bà cứ ở vậy. Tôi nghe chuyện bà chẳng động lòng thương mà ngược lại tôi còn ghét bà là đàng khác. Hàng ngày cứ thấy khuôn mặt nhăn nheo đăm chiêu của bà là tôi khó chịu. Cũng chẳng hiểu rõ vì sao tôi không có cảm tình với bà như vậy. Có lẽ vì bà sống lặng lẽ, hay lánh người láng.
Bà chỉ sống bằng mảnh vườn nhỏ. Mảnh vườn nhỏ của bà trồng rất nhiều loại cây ăn quả mà tôi thích. Hằng ngày, bà vẫn lom khom chống gậy ra nhổ cỏ vun xới cho cây. Vì muốn chọc tức bà, tôi quyết tâm phải lấy được một thứ quả gì đó trong vườn. Tôi rình mò cả buổi chiều, chờ lúc bóng bà khuất hẳn sau bứa phên rách tôi mớ lần vào. Nhanh như cắt, tôi thoăn thoắt trèo lên cây ổi. Những trái ổi chín thơm lừng cuốn hút. Tôi bứt và bứt. Lá ổi rơi xào xào, thân cây rung rung. Nghe tiếng động con chó già tinh quái nhà bà Tám chạy ra. “Chẳng nhẽ lại bị tóm cổ sao”. Chân tay tôi đã bắt đầu run. Con chó sủa inh ỏi. Tôi với ngay quả ổi xanh nhắm mắt ném. “Ới!” Tiếng kêu chợt vanh lên. Thì ra tôi đã ném trúng bà Tám đang đứng ngay cạnh con chó lúc nào không biết. Bà ôm chặt, tuổi già sức yếu, dù một quả ổi trúng người cũng đau lắm chứ! Con chó vẫn sủa. Chân tay tôi càng run. Tôi thét lên: “Cháu không chú ý mà!”. Rắc! Rắc! Cành ổi gãy, tôi ngã nhào và không biết gì nữa. Khi tỉnh lại thì trời đã nhá nhem tối. Tôi đang nằm trong ngôi nhà quen thuộc của mình. Người đầu tiên tôi thấy là bà Tám. Trên nét mặt già nua khắc khổ của bà đầy nỗi lo âu. Tôi buột miệng kêu: “Bà!”. Bà vỗ nhẹ vào người tôi.
– Cháu nằm yên đi, nghỉ cho lại sức.
Tôi định ngồi dậy nhưng bị khựng lại bởi cái đau kinh khủng. Nhìn xuống thấy tay mình băng bó. Mẹ bảo tôi bị gãy tay và suốt hai ngày nay bà Tám bỏ cả ăn, ngủ đề ngồi túc trực bên tôi. Tôi nhìn bà. Vết bầm vẫn trên mặt. Tôi định nói xin lỗi nhưng không sao nói được. Nước mắt cứ muốn trào ra. Bà cũng rầu rầu:
– Chỉ tại bà thôi cháu ạ.
Tôi không còn biết thế nghĩa là như thế nào. Lúc ấy mẹ tôi đỡ lời:
– Bà đừng nói vậy! Chỉ tại cháu nó nghịch dại mới nên nông nỗi này. Bây giờ cháu đã đỡ, bà cứ yên tâm về nghỉ.
Bà Tám yên lặng. Ánh mắt già nua nhìn xa vời vợi. Ánh mắt ấy đã ám ảnh tôi suốt một thời gian dài.
Ít lâu sau nhà tôi chuyển ra thành phố. Nhiều việc bận rộn khiến tôi không có thời gian về thăm bà. Mãi tới hôm vừa rồi tôi mới lại được trở về thăm chốn cũ. Nhưng đâu còn nữa mái nhà tranh, còn đâu nữa hình bóng bà Tám năm nào. Thay vào đó là một ngôi nhà 3 tầng đẹp đẽ. Thì ra bà Tám đã mất. Mảnh vườn của bà họ hàng đã bán cho một gia đình khác.
Tôi đứng lặng người nghĩ lại chuyện xưa. Nghĩ về bà Tám, nước mắt tôi ứa ra lúc nào không biết.
– Bà Tám ơi, xin bà hãy tha thứ cho cháu – Đứa trẻ nghịch ngợm này.
E. Hoạt động tìm tòi mở rộng
(trang 24, Ngữ Văn 8 VNEN, Tập 1) Tìm đọc tác phẩm Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố.
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k7: chúng tôi
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:
Loạt bài Soạn văn 8 VNEN ngắn nhất của chúng tôi được biên soạn bám sát nội dung sách Hướng dẫn học Ngữ văn 8 Tập 1, Tập 2 chương trình mới.
Soạn Bài Lớp 8: Tức Nước Vỡ Bờ
Soạn bài Tức nước vỡ bờ
Soạn văn 8 bài Tức nước vỡ bờ trích từ tiểu thuyết Tắt đèn do Ngô Tất Tố sáng tác được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn. Soạn bài Tức nước vỡ bờ này là bài tham khảo giúp các bạn học sinh nắm rõ kiến thức qua trích đoạn Tức nước vỡ bờ để từ đó học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 8 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình.
Soạn bài lớp 8 bài TỨC NƯỚC VỠ BỜ (Trích tiểu thuyết Tắt đèn – Ngô Tất Tố) I. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Về tác giả:
Nhà văn Ngô Tất Tố (1893-1954) quê ở làng Lộc Hà (nay thuộc huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội).
Trước 1945, Ngô Tất Tố làm nhiều nghề: Dạy học, bốc thuốc, làm báo, viết văn. Ông từng cộng tác với nhiều tờ báo: An Nam tạp chí, Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phổ thông, Đông Phương, Công dân, Hải Phòng tuần báo, Hà Nội tân văn, Thực nghiệp, Tương lai, Thời vụ, Con ong, Việt nữ, Tiểu thuyết thứ ba,…
Trong Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia Uỷ ban Giải phóng xã (Lộc Hà). Năm 1946: gia nhập Hội Văn hoá Cứu quốc và lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp, Nhà văn từng là Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ Việt Bắc, hoạt động ở Sở Thông tin khu XII, tham gia viết các báo: Cứu quốc khu VII, Thông tin khu VII, Tạp chí Văn nghệ và báo Cứu quốc Trung ương… và viết văn. Ông đã là Uỷ viên Ban chấp hành Hội văn nghệ Việt Nam (trong Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ I – 1948).
Tác phẩm đã xuất bản: Ngô Việt xuân thu (dịch, 1929); Hoàng Hoa Cương (dịch, 1929); Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ (truyện kí lịch sử, 1935); Đề Thám (truyện kí lịch sử, viết chung, 1935); Tắt đèn (tiểu thuyết, báo Việt Nữ, 1939; Mai Lĩnh xuất bản, 1940); Lều chõng (phóng sự tiểu thuyết, 1940; đăng báo Thời vụ, 1941; Mai Lĩnh xuất bản, 1952); Thơ và tình (dịch thơ Trung Quốc, 1940); Đường Thi (sưu tầm, chọn và dịch, 1940); Việc làng (phóng sự, báo Hà Nội tân văn, 1940; Mai Lĩnh xuất bản, 1941); Thi văn bình chú (tuyển chọn, giới thiệu, 1941); Văn học đời Lí (tập I) và Văn học đời Trần (tập II, trong bộ Việt Nam văn học – nghiên cứu, giới thiệu, 1942); Lão Tử (soạn chung, 1942); Mặc Tử (biên soạn, 1942); Hoàng Lê nhất thống chí (dịch, tiểu thuyết lịch sử, 1942; báo Đông Pháp, 1956); Kinh dịch (chú giải, 1953); Suối thép (dịch, tiểu thuyết, 1946); Trước lửa chiến đấu (dịch, truyện vừa, 1946); Trời hửng (dịch, truyện ngắn, 1946); Duyên máu (dịch, truyện ngắn, 1946); Doãn Thanh Xuân (dịch, truyện ngắn, 1946, 1954); Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác (chèo, 1951).
Tác phẩm của Ngô Tất Tố sau này được tập hợp trong tuyển tập: Ngô Tất Tố và tác phẩm, gồm 2 tập, do Nhà Xuất bản Văn học ấn hành, 1971 – 1976.
Nhà văn đã được nhận hai giải thưởng trong giải thưởng văn nghệ 1949 -1952 của Hội Văn nghệ Việt Nam: Giải ba dịch (Trời hửng, Trước lửa chiến đấu) và giải khuyến khích (vở chèo Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác); Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (năm 1996).
2. Về tác phẩm:
a) Đoạn Tức nước vỡ bờ trích từ chương XVIII của tác phẩm Tắt đèn – tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà văn Ngô Tất Tố.
b) Trong đoạn trích, tác giả phơi bày bộ mặt tàn ác, bất nhân của chế độ thực dân phong kiến, đồng thời thể hiện sâu sắc nỗi thống khổ cũng như sức mạnh phản kháng tiềm tàng của người nông dân. Có đủ các hạng người được khắc hoạ sinh động trong bức tranh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng ấy. Giữa cái đám sâu bọ hại dân lúc nhúc ở cái làng quê u ám đang rên xiết trong vụ thuế kinh tởm ấy sáng lên một chị Dậu đảm đang, chịu thương chịu khó hết mực vì chồng vì con, một chị Dậu lam lũ, nhẫn nhục nhưng cũng đầy sức mạnh phản kháng, quyết không để đói khổ làm hoen ố phẩm hạnh. Hình tượng nhân vật này được xem là điển hình cho người phụ nữ nông dân bấy giờ.
c) Đoạn trích Tức nước vỡ bờ có thể coi là cao trào của một vở kịch mà mâu thuẫn, xung đột được thể hiện tập trung trong mối quan hệ giữa nông dân và địa chủ. Những người nông dân bị đẩy đến bước đường cùng đã bật lên hành động phản kháng.
Tuy chỉ là hành động tự phát nhưng nó đã báo hiệu ngày tận thế của chế độ thực dân nửa phong kiến đã gần kề. Bằng thiện cảm và thái độ bênh vực, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh người phụ nữ nông dân thật thà chất phác, tha thiết yêu chồng con, sẵn sàng bất chấp hiểm nguy để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Đó là biểu hiện của vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.
Đồng thời, qua vài câu đối thoại và hành động cụ thể, tác giả đã làm bật lên bức chân dung vừa bỉ ổi, đểu cáng, độc ác vừa hèn hạ, nhu nhược của giai cấp phong kiến thống trị đương thời.
d) Đoạn trích cũng thể hiện một trình độ điêu luyện của tác giả: từ sự khéo léo trong khắc hoạ nhân vật cho đến việc lựa chọn sử dụng từ ngữ để lột tả chính xác, sinh động những diễn biến đầy kịch tính. Ông đã dựng lên một cảnh tượng cực kì sống động, một cảnh tượng đẹp, tươi sáng trong cái khung cảnh chung u ám, đen tối của Tắt đèn. Nội dung đoạn trích dự báo một khả năng, một sức mạnh lớn của người nông dân nói chung, phụ nữ nông dân nói riêng mà sau này, sức mạnh ấy được tập hợp thành vũ bão quật đổ thực dân, phong kiến trong Cách mạng tháng Tám 1945.
II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG 1. Tóm tắt:
Gia đình chị Dậu đã dứt ruột bán con mà chưa đủ tiền nộp sưu. Anh Dậu đang ốm cũng bị bọn tay sai lôi ra đình, đánh cho dở sống dở chết. Được bà hàng xóm cho bát gạo, chị Dậu vừa nấu xong nồi cháo thì cai lệ và người nhà lí trưởng ập đến. Mặc dầu chị Dậu hết lời van xin, cai lệ vẫn toan hành hạ anh Dậu. Chị Dậu xông vào đỡ tay, bị cai lệ đánh, và chị đã túm cổ đẩy tên này ngã chổng quèo. Người nhà lí trưởng sấn sổ giơ gậy định đánh thì bị chị Dậu túm tóc lẳng cho một cái ngã nhào ra thềm.
2. Cách đọc:
Khi đọc đoạn trích, ngoài lời trần thuật có tính chất tăng tiến, diễn tả không khí ngày càng căng thẳng, cần chú ý lời thoại của các nhân vật:
Giọng cai lệ: Hách dịch, nạt nộ.
Giọng chị Dậu: Từ nhún nhường van xin, dần dần căng thẳng, cuối cùng là quyết liệt, mạnh mẽ.
Giọng anh Dậu: Sợ hãi, hốt hoảng…
Theo chúng tôi
Soạn Bài Tức Nước Vỡ Bờ Lớp 8 Ngắn Nhất
Soạn văn 8 bài Tức nước vỡ bờ ngắn nhất được soạn và biên tập từ đội ngũ giáo viên dạy ngữ văn giỏi uy tín trên cả nước. Đảm bảo chính xác, ngắn gọn, súc tích giúp các em dễ hiểu, dễ soạn bài Bố cục của văn bản.
Soạn bài Tức nước vỡ bờ thuộc: Bài 3 SGK Ngữ văn 8
I. Hướng dẫn soạn bài Tức nước vỡ bờ
Trả lời câu 1 (trang 32 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Khi bọn tay sai xông vào, tình thế chị Dậu rất thảm thương:
– Chị mới vừa rón rén bưng bát cháo cho chồng và đang hồi hộp “chờ xem chồng chị có ăn ngon miệng không”.
– Anh Dậu vừa “run rẩy cất bát cháo anh mới kề vào đến miệng” thì hai tên tay sai đã “sầm sập tiến vào” trong tay đầy những “roi song, tay thước và dây thừng” chúng là hiện hình của tai họa.
Trả lời câu 2 (trang 32 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Phân tích nhân vật cai lệ:
a, Là một tên tay sai chuyên nghiệp rất thạo nghề làm tay sai:
+ Là cai, cầm đầu đám lính lệ ở huyện đường (loại lính chuyên làm tay sai hầu hạ chống quan nha chứ không phải lính chiến đấu).
+ Hắn là tiêu biểu nhất của hạng tay sai, công cụ đắc lực của cái trật tự xã hội ấy.
– Tên cai lệ được phái về làng Đông Xá để giúp lí trưởng làng này đốc thuế. Hắn rất mẫn cán, thường lăm lăm cầm roi song theo gã người nhà lí trưởng vào những nhà có người thiếu thuế để quát nạt, chửi bới, đánh trói.
+ Trong kì sưu thuế giống như một cuộc săn thú này, cai lệ là một con chó săn nòi hung dữ, rất được việc! Dường như toàn bộ ý thức của hắn lúc này chỉ là ra tay trừng trị kẻ thiếu thuế:
b) Trong cái đám đông tay sai của quan phủ, lí trưởng, cai lệ chỉ là một nhân vật “chạy cờ”, một gã tay sai mạt hạng, vô danh. Nhưng bộ mặt hung dữ, đểu cáng của hắn vẫn có một giá trị tiêu biểu riêng; hắn là một thứ “Thiên lôi”, một cái búa sắt trong tay bọn thống trị, tức là tiêu biểu cho chức năng đàn áp của cái chế độ tàn bạo ăn thịt người
Trả lời câu 3 (trang 33 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Phân tích diễn biến tâm lí của chị Dậu:
+ Anh Dậu ốm yếu quá khiếp đảng “lăn đùng ra không nói được câu gì”.
+ Chị Dậu đã phải một mình đứng ra đối phó với chúng để bảo vệ chồng.
+ Ban đầu, chị “cố thiết tha” van xin bọn chúng. Trong tình thế của chị lúc ấy chỉ có cách van xin.
+ Nhưng khi tên cai lệ đáp lại những lời van xin thống thiết lễ phép của chị Dậu bằng “trợn ngược hai mắt” quát, thét, bằng những quả bịch vào ngực chị Dậu và cứ chồm đến anh Dậu, thì chỉ đến lúc ấy, “hình như tức quá không thể chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại”. Sự “liều mạng cự lại” của chị Dậu cũng có hai bước, mức độ khác nhau. Thoạt tiên chị “cự lại” bằng lí:
+ “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!” Kì thực, chị Dậu đâu biết đến luật pháp cụ thể, chị chỉ nói cái lí tự nhiên, cái nguyên tắc đạo lí tối thiểu của con người. Tư thế của chị Dậu lúc này khác hẳn trước: không phải là một kẻ bề dưới cúi đầu van xin, mà là tư thế người ngang hàng, đanh thép cảnh cáo kẻ ác. Nhưng khi tên cai lệ hung dữ như chó sói ấy quay lại “tát vào mặt chị đánh bốp, rồi hắn cứ nhảu vào cạnh anh Dậu”, thì chị Dậu đã bật dậy với sức mạnh ghê ghớm bất ngờ.
– Chị Dậu “nghiến hai hàm răng” (biểu hiện của sự nổi giận cao độ, không nén nổi) và ném ra lời thách thức quyết liệt, dữ dội:
“Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Không còn đấu lí nữa, chị quyết ra tay đấu lực với bọn ác ôn này. Chị Dậu đã ra tay với sức mạnh của sự căm thù, phẫn nộ: “Túm ngay cổ” tên cai lệ, “ấn dúi ra cửa” làm cho “hắn ngã chỏng queo”.
Trả lời câu 4 (trang 33 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Quy luật “Có áp bức có đấu tranh”. Hành động của chị Dậu xuất phát từ một quy luật: “Con giun xét lắm cũng quằn”. Vì vậy đặt nhan đề Tức nước vỡ bờ cho đoạn trích là thỏa đáng vì đoạn trích nêu những diễn biến phù hợp với cái cảnh tức nước vỡ bờ.
Trả lời câu 5 (trang 33 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Nhận xét: “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ một đoạn tuyệt khéo”
– “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo vì sự phát triển rất phù hợp với logic và tính cách nhân vật.
Tình thế đặt chị Dậu trước sự lựa chọn: hoặc là để yên cho chúng giày xéo, hoặc đứng lên chống lại chúng. Một cách tự phát của diễn biến, chị đã vùng dậy một cách quyết liệt.
– Lúc đầu, làm sự nhịn nhục của kẻ dưới, chị “cố thiết tha” van xin.
– Trước sự đểu giả và tàn bạo của cai lệ, chị liều mạng cự lại “tức quá không thể chịu được”.
+ Không còn van xin, chị đấu lí: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. Cách xưng hô cho thấy chị không còn “nằm yên” trong tư cách kẻ dưới mà ngang hàng.
+ Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem. Chị Dậu đã chuyển sang một tư thế khác: bà – mày. Đó là tư thế của kẻ bề trên. Sự căm giận, khinh bị kẻ thù đã lên tới tột độ. Trong màn đấu lực, chị đã thắng.
Trả lời câu 6 (trang 33 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Ý kiến của nhà văn Nguyễn Tuân hoàn toàn đúng vì qua đoạn trích cho chúng ta thấy sự bất công vô lí của nạn sưu thuế trong xã hội phong kiến: Người đã chết rồi vẫn phải nộp thuế thân.
Nguyễn Tuân muốn khẳng định quy luật có áp bức, có đấu tranh; áp bức càng mạnh thì đấu tranh càng dữ dội. Họ vùng lên để đòi lại công bằng cho cuộc sống của mình.
III. Bố cục, Nội dung bài tức nước vỡ bờ
Bố cục: 2 phần
– Phần 1 (từ đầu… “ăn có ngon miệng hay không”): Cảnh chị Dậu chăm sóc chồng.
– Phần 2 (còn lại): Cảnh chị Dậu phản kháng.
ND chính: Vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời; xã hội ấy đã đẩy người nông dân vào tình cảnh khổ cực, khiến họ phải liều mạng chống lại. Đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân, vừa giàu tình yêu thương vừa có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.
Xem Video bài học trên YouTubeGiáo viên dạy thêm cấp 2 và 3, với kinh nghiệm dạy trực tuyến trên 5 năm ôn thi cho các bạn học sinh mất gốc, sở thích viết lách, dạy học
Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Bài: Tức Nước Vỡ Bờ – Ngữ Văn 8 Tập 1 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!