Bạn đang xem bài viết Soạn Bài: Truyện Kiều Phần 2 – Trao Duyên được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Xin chào các em! Hôm nay, Soạn Văn sẽ hướng dẫn các em soạn văn bản: Trao duyên. Đây là một trích đoạn trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du và được biên soạn trong chương trình ngữ Văn 10 Tập 2. Mời các em cùng tham khảo!
I. Tìm hiểu chung
* Vị trí đoạn trích: Đoạn trích Trao duyên được trích từ câu 723 đến câu 756, là lời Thúy Kiều nói cùng Thúy Vân, mở đầu cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều khi gia đình gặp biến cố.
* Bố cục: Đoạn trích được chia làm 3 phần:
Phần 1: 12 câu đầu: Kiều tìm cách thuyết phục và trao duyên cho Thúy Vân.
Phần 2: 15 câu tiếp: Kiều trao kỉ vật cho Vân và dặn dò em.
Phần 3: 8 câu cuối: Kiều đau đớn, vật vã đến ngất đi.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:
Việc Kiều nhắc đến các kỉ niệm của tình yêu có ý nghĩa:
Kiều được sống trong kí ức đẹp, nàng xót xa, đau đớn khi phải mang những kỉ vật riêng tư chia sẻ với người khác.
Kiều nói với Vân mà như nói với chính bản thân mình. Nhắc lại những kỉ niệm tình yêu cho thấy sức sống mãnh liệt của tình yêu giữa Kiều với Kim Trọng, Kiều trao cho Vân kỉ vật nhưng không thể trao cho Vân kỉ niệm, tình cảm mà nàng dành cho Kim Trọng sẽ không bao giờ phai.
Câu 2:
* Những từ ngữ cho thấy Kiều đã nghĩ đến cái chết: thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối…; người mệnh bạc; Mất người; Thấy hiu hiu gió thì hay chị về; hồn; Dạ đài cách mặt khuất lời; người thác oan.
* Việc tập trung dày đặc những từ ngữ đó có ý nghĩa:
Khi không còn tình yêu, Kiều cảm thấy trống trải và vô nghĩa, chỉ nhìn thấy cái chết xung quanh.
Tư tưởng về cái chết của Nguyễn Du: ảnh hưởng thuyết luân hồi của đạo Phật.
Sự băn khoăn và day dứt của Nguyễn Du trước nỗi đau của con người, thương xót trước thân phận của người con gái tha thiết yêu thương mà số phận nghiệt ngã.
Câu 3:
* Kiều đối thoại với Thúy Vân, với chính mình và với Kim Trọng.
* Diễn biến tâm trạng của Kiều qua các lời thoại trong đoạn trích:
Đối với chính mình: Sau khi trao duyên cho Vân, Kiều cảm thấy trống rỗng, buông xuôi. Không còn tình yêu của Kim Trọng, nàng cảm thấy như mình đã chết đi rồi.
Câu 4:
Mối quan hệ giữa tình cảm và lí trí, nhân cách và thân phận của Kiều qua đoạn trích: Lí trí mách bảo nàng trao duyên cho Thúy Vân và hy sinh cứu cha mẹ để làm tròn chữ hiếu. Nhưng con tim hướng về tình yêu lại khiến nàng thổn thức, đau đớn. Đây cũng là mâu thuẫn giữa các phạm trù đạo đức phong kiến với tâm hồn con người, cũng là sự đau khổ khi nhân cách đa tình, đa cảm song hành cùng thân phận người làm con. Ở đây, Kiều được sống chân thực và tự nhiên với đời sống tình cảm của con người. Nguyễn Du không hề biến Kiều trở thành tấm gương đạo đức đơn giản.
3
/
5
(
3
bình chọn
)
Soạn Bài Trao Duyên Trích Truyện Kiều Của Nguyễn Du
Soạn bài Trao duyên trích Truyện Kiều của Nguyễn Du 1. Tìm hiểu xuất xứ của bài thơ
– Trích đoạn “Trao duyên” thuộc phần một: Gặp gỡ và đính ước của truyện kiều. Sau chuyến đi chơi mùa xuân, Kim Trọng và Thúy Kiều đã có những ấn tượng tốt đẹp về đối phương. Để có thể tiếp tục gặp gỡ, Kim TRọng đã chuyển đến ở gần nhà của Thúy Kiều. Một hôm cả gia đình Thúy Kiều về ngoại, Thúy Kiều đã lén về trước và chủ động sang nhà Kim Trọng, ở đây hai người đã cùng nhau kết tóc hẹn thề dưới trăng. Trích đoạn “Trao duyên” khắc họa lại không gian thể nguyền ấy.
2. Nhận xét nghệ thuật sử dụng điển tích, điển cố và hình ảnh ẩn dụ– Miêu tả khung cảnh của đêm thề nguyền, tác giả Nguyễn Du đã sử dụng rất nhiều những điển cố, điển tích của Trung Hoa cũng như những hình ảnh ẩn dụ như:
Việc sử dụng các từ ngữ ước lệ, đưa vào những điển cố điển tích đã góp phần làm cho không khí của buổi thề nguyền thêm trang trọng, lãng mạn và làm nổi bật cái thiêng liêng của lễ kết tóc nguyện thề của Kim Trọng và Thúy Kiều.
3. Phân tích hiệu quả biểu đạt của các từ láy được sử dụng trong đoạn trích– Trong đoạn trích Thề nguyền, tác giả Nguyễn Du đã sử dụng hệ thống các từ láy như:
4. Tác giả đã tô đậm tính chất thiêng liêng của cuộc thề nguyền giữa Kiều và Kim Trọng như thế nào?– Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt những hình ảnh ẩn dụ, những điển cố, điển tích để làm tăng thêm tính trang trọng, màu sắc lãng mạng, nên thơ của buổi thề nguyền của Kim Trọng và Thúy Kiều. Đồng thời tính chất thiêng liêng này còn được thể hiện qua hành động cũng như suy nghĩ nội tâm của hai nhân vật:
+ Vì tình yêu với chàng Kim, Thúy Kiều đã dám phá bỏ mọi lề lối thông thường của lễ giáo phong kiến, nàng xăm xăm băng lối vườn khuya một mình để sang nhà của Kim Trọng. Có thể thấy đây là một hành động đầy táo bạo. Quan niệm phong kiến xưa về tình yêu nam nữ đó là “nam nữ thụ thụ bất thân”, nhưng Thúy Kiều đã gạt bỏ hết rào cản để đi theo tiếng gọi của tình yêu.
+Kim Trọng và Thúy Kiều đã cùng nhau làm lễ thề nguyền, những nghi thức thề nguyền đều diễn ra đúng như những nghi thức thề nguyền thường thấy.
5. Phân tích lời nói của Kiều khi sang nhà Kim Trọng-Khi Thúy Kiều lén sang nhà của Kim Trọng, nàng đã nói với chàng Kim:
“Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa”
+ ” Khoảng vắng đêm trường” ở đây không chỉ là không gian vật lí, chỉ thời điểm mà Thúy Kiều và Kim Trọng gặp mặt mà đó còn là không gian của tâm lí. Những đôi lứa yêu nhau thường mong từng phút, từng giây có thể ở cạnh nhau, vì vậy khoảng vắng đêm trường ở đây không chỉ nhấn mạnh sự nhớ nhung của Thúy Kiều với chàng Kim mà còn muốn nói đến thời khắc quý báu của tình yêu.
+ Thúy Kiều cũng nhẫn mạnh tình yêu dành cho Kim Trọng “Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa”, đây là lời thú nhận đầy chân thành của Kiều, vì Kim Trọng mà nàng bất chấp lễ giáo phong kiến, một đường xăm xăm đến nhà chàng Kim như để thỏa nỗi nhớ mong.
6.Nhận xét hình tượng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn tríchThúy Kiều hiện lên trong đoạn trích là một người con gái đầy táo bạo, mãnh liệt, vì tình yêu với chàng Kim mà Kiều không ngần ngại chống đối lại với lễ giáo phong kiến, chủ động tìm đến nhà Kim Trọng, chủ động nắm giữ tình yêu của mình. Bên cạnh đó ta cũng có thể thấy được tình yêu sâu sắc cùng với sự trân trọng của Thúy Kiều dành cho chàng Kim, vì chàng Kim mà Kiều tranh thủ từng phút giây gặp gỡ, băng băng vượt lối vườn khuya để gặp Kim Trọng, tình yêu mãnh liệt ở Thúy Kiều thật đáng trân trọng, cũng thật đáng ngưỡng mộ.
Theo chúng tôi
Soạn Bài: Truyện Kiều Phần 2
I. Tìm hiểu chung
* Vị trí đoạn trích: Đoạn trích Thề nguyền được trích từ câu 431 đến 452 với nội dung là nói về đêm thề nguyền giữa Kiều và Kim Trọng, 2 người thề nguyện gắn bó chung thủy suốt đời.
* Bố cục: Đoạn trích có thể được chia làm 2 phần:
Phần 1: 14 câu đầu: Kiều trở lại nhà Kim Trọng.
Phần 2: 8 câu cuối: Cảnh Kim – Kiều thề nguyền.
II. Hướng dẫn soạn bàiCâu 1:
Hàm nghĩa của các từ vội, xăm xăm, băng: một phần là diễn tả tâm trạng và tình cảm của Thúy Kiều, một phần diễn tả những động tác vội vàng, khẩn trương đi theo tiếng gọi của tình yêu và bất chấp những quan niệm hà khắc của lễ giáo phong kiến.
Câu 2:
Không gian thơ mộng và thiêng liêng của cuộc thề nguyền được Nguyễn Du miêu tả:
Không gian là trong nhà, giữa một đêm trăng sáng, ngọn đèn với ánh sáng dìu dịu, hiu hắt.
Có tờ giấy viết lời thề, có đài sen, lò đào thêm hương, trao kỉ vật tóc mây.
Vầng trăng thiên nhiên chính là nhân thức cho cuộc thề nguyền giữa 2 người
Trong không gian đó, hai mái đầu xanh cùng ngước lên trời cao, vầng trăng sáng vằng vặc giữa trời chứng giám cho lời thề gắn bó keo sơn của họ, chứng giám cho tình yêu tự nguyện và sự chung thuỷ, thiêng liêng sâu nặng của họ.
Câu 3:
Liên hệ với trích đoạn Trao duyên để chỉ ra tính chất logic nhất quán trong quan niệm về tình yêu của Kiều:
Đoạn trích này có một sự liên hệ khá chặt chẽ với đoạn trích Trao duyên. Có cuộc thề nguyền thì Thúy Kiều mới có những kỉ vật trao cho Thúy Vân. Tình yêu Kim – Kiều có gắn bó, mang màu sắc tâm linh (vầng trăng chứng giám). Kiều chân thành, tôn thờ và thủy chung với tình yêu. Nàng dám nghĩ, dám sống và cũng dám hi sinh vì tình yêu. Đó chính là quan niệm mới mẻ trong văn học trung đại mà Nguyễn Du muốn thể hiện thông qua Kiều.
Soạn Bài: Truyện Kiều Phần 2 – Thề Nguyền
I. Tìm hiểu chung
* Vị trí đoạn trích: Đoạn trích Thề nguyền được trích từ câu 431 đến 452 với nội dung là nói về đêm thề nguyền giữa Kiều và Kim Trọng, 2 người thề nguyện gắn bó chung thủy suốt đời.
* Bố cục: Đoạn trích có thể được chia làm 2 phần:
Phần 1: 14 câu đầu: Kiều trở lại nhà Kim Trọng.
Phần 2: 8 câu cuối: Cảnh Kim – Kiều thề nguyền.
II. Hướng dẫn soạn bàiCâu 1:
Hàm nghĩa của các từ vội, xăm xăm, băng: một phần là diễn tả tâm trạng và tình cảm của Thúy Kiều, một phần diễn tả những động tác vội vàng, khẩn trương đi theo tiếng gọi của tình yêu và bất chấp những quan niệm hà khắc của lễ giáo phong kiến.
Câu 2:
Không gian thơ mộng và thiêng liêng của cuộc thề nguyền được Nguyễn Du miêu tả:
Không gian là trong nhà, giữa một đêm trăng sáng, ngọn đèn với ánh sáng dìu dịu, hiu hắt.
Có tờ giấy viết lời thề, có đài sen, lò đào thêm hương, trao kỉ vật tóc mây.
Vầng trăng thiên nhiên chính là nhân thức cho cuộc thề nguyền giữa 2 người
Trong không gian đó, hai mái đầu xanh cùng ngước lên trời cao, vầng trăng sáng vằng vặc giữa trời chứng giám cho lời thề gắn bó keo sơn của họ, chứng giám cho tình yêu tự nguyện và sự chung thuỷ, thiêng liêng sâu nặng của họ.
Câu 3:
Liên hệ với trích đoạn Trao duyên để chỉ ra tính chất logic nhất quán trong quan niệm về tình yêu của Kiều:
Đoạn trích này có một sự liên hệ khá chặt chẽ với đoạn trích Trao duyên. Có cuộc thề nguyền thì Thúy Kiều mới có những kỉ vật trao cho Thúy Vân. Tình yêu Kim – Kiều có gắn bó, mang màu sắc tâm linh (vầng trăng chứng giám). Kiều chân thành, tôn thờ và thủy chung với tình yêu. Nàng dám nghĩ, dám sống và cũng dám hi sinh vì tình yêu. Đó chính là quan niệm mới mẻ trong văn học trung đại mà Nguyễn Du muốn thể hiện thông qua Kiều.
5
/
5
(
1
bình chọn
)
Soạn Bài: Truyện Kiều Phần 2 – Chí Khí Anh Hùng
I. Tìm hiểu chung
* Vị trí đoạn trích: Đoạn trích Chí khí anh hùng được trích từ câu 2213 đến câu 2230 nói về việc Từ Hải dứt áo ra đi dựng sự nghiệp anh hùng.
* Bố cục: Đoạn trích có thể được chia làm 3 phần:
Phần 1: 4 câu đầu: Khát vọng lên đường của Từ Hải và cuộc chia tay sau nửa năm chung sống.
Phần 2: 12 câu tiếp: Cuộc đối thoại giữa Từ Hải với Kiều – thể hiện tính cách anh hùng của Từ Hải
Phần 3: 2 câu còn lại: Hành động dứt khoát ra đi của người anh hùng Từ Hải.
II. Hướng dẫn soạn bàiCâu 1:
* Hàm nghĩa của các cụm từ:
Lòng bốn phương: chí nguyện lập nên công danh sự nghiệp
Mặt phi thường: chỉ tính chất khác người, xuất chúng.
* Những từ ngữ thể hiện sự trân trọng, kính phục của Nguyễn Du với người anh hùng Từ Hải: trượng phu, lòng bốn phương, mặt phi thường, thoắt, trông vời, trời bể mênh mang, thanh gươm yên ngựa,…
Câu 2:
Từ Hải bộc lộ lí tưởng anh hùng của mình qua lời nói với Thúy Kiều:
Câu 3:
Đặc điểm của cách miêu tả người anh hùng Từ Hải trong đoạn trích: khuynh hướng lí tưởng hóa nhân vật bằng bút pháp ước lệ và cảm hứng vũ trụ. Trong đó, bút pháp ước lệ và cảm hứng vũ trụ được gắn bó chặt chẽ với nhau.
Kiểu mẫu người anh hùng vốn là nhân vật truyền thống trong văn học trung đại với nét đặc trưng là chí khí “bốn phương”, suy nghĩ và hành động ngắn gọn, dứt khoát, chủ yếu được miêu tả nhiều hơn ở khía cạnh lí trí, phần tình cảm có vẻ giản đơn và phần mờ nhạt hơn.
3.5
/
5
(
4
bình chọn
)
Soạn Bài Trao Duyên (Chi Tiết)
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Câu 1 Câu 1 (trang 106 SGK Ngữ văn 10 tập 2) Việc Kiều nhắc đến những kỷ niệm của tình yêu có ý nghĩa gì? Lời giải chi tiết:
Việc Kim – Kiều hẹn ước Vân không hề biết. Vì vậy mà Kiều phải kể rõ nguồn cơn cho Vân nghe, nàng kể tha thiết không hề giấu diếm. Trong khi kể với Thúy Vân, Kiều tưởng như sống lại với những kỉ niệm tình yêu:
– Cảnh cùng chàng Kim tặng nhau quạt để nhỏ ý ước hẹn trăm năm (“khi ngày quạt ước”)
– Cảnh hai người ngồi uống chén rượu thề để nguyện chung thủy (“khi đêm chén thề”)
– Những kỉ vật của tình yêu (“Chiếc vành với bức tơ mây”)
Đặc biệt là Kiều tưởng nhớ lại sự kiện đêm thề nguyền thiêng liêng:
– Cảnh Kim trọng cho thêm hương vào lò hương (“mảnh hương nguyền”, “đốt lò hương ấy”).
– Cảnh nàng đàn cho Kim Trọng nghe (“phím đàn”, “so tơ phím này”) Thúy Kiều nói với Thúy Vân mà như nói với chính mình và nói cùng chàng Kim.
* Ý nghĩa:
– Những từ ngữ trên cho thấy trong tâm hồn Kiều, những kỉ niệm tình yêu có sức sống mãnh liệt.
– Thúy Kiều hi sinh tình yêu, trao duyên cho Thúy Vân nhưng con người lý trí không ngăn được con người tình cảm. Tất cả những kỉ niệm về tình yêu được nàng cất giữ cẩn thận. Nàng trao duyên cho Thúy Vân nhưng không thể trao tình. Nàng trao cho Thúy Vân những kỉ vật nhưng không thể trao những kỉ niệm của tình yêu.
– Kiều sống trong hồi ức đẹp nên càng thấy xót nên thấy xót xa, đau đớn khi mọi thứ chia lìa
Câu 2 Câu 2 (trang 106 SGK Ngữ văn 10 tập 2) Hãy tìm những từ ngữ cho thấy Kiều nghĩ đếnLời giải chi tiết: cái chết. Việc tập trung dày đặc những từ ngữ đó có ý nghĩa gì?
– Suốt quá trình trao duyên, Kiều luôn nghĩ đến cái chết. Khi thuyết phục em nhận lời trao duyên. Kiều đã lấy cái chết làm lời ủy thác (“Chị dù thịt nát xương mòn/ Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”). Trao kỉ vật cho Thúy Vân xong, Kiều lại nghĩ đến cái chết. Cả một đoạn thơ dài hiện lên mảnh hồn oan sau khi chết của Thúy Kiều như một nỗi ám ảnh: “Trông ra ngọn cỏ lá cây/ Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”, “hồn”, “dạ đài cách mặt khuất lời”, “Người thác oan”… Thúy Kiều liên tưởng mảnh hồn oan của mình với hồn ma Đạm Tiên và dự cảm cái chết của mình cũng đầy oan nghiệt. Tiếng nói của Thúy Kiều là tiếng nói thương thân, xót phận của một người con gái tha thiết với tình yêu và không được sống trong tình yêu, nguyện thủy chung với mối tình đầu mà đành chấp nhận “đứt gánh tương tư”, “trâm gãy gương tan”. Kiều nghĩ đến cái chết và cảm thấy đây là cái chết đầy oan nghiệt.
Câu 3 Câu 3 (trang 106 SGK Ngữ văn 10 tập 2) Kiều đối thoại với những ai? Phân tích diễn biến tâm trạng của Kiều qua lời đối thoại trong đoạn trích. Lời giải chi tiết:
– Nếu liên tưởng rộng đến những sáng tác khác của Nguyễn Du như: Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Phản chiêu hồn, Độc Tiểu Thanh kí… ta sẽ nhận thấy một mô-tip nghệ thuật, gọi hồn, tri âm cùng người đã khuất. Sở dĩ có điều này là vì nhà thơ chịu ảnh hưởng của thuyết “luân hồi” trong đạo Phật. Nhưng sâu sắc hơn là nhà thơ luôn quan tâm đến nỗi “kì oan” (nỗi oan kì lạ) của con người. Con người chết đi mà không được siêu thoát, những mảnh hồn oan còn vật vờ cõi nhân gian. Bằng cách này, nhà nhân đạo chủ nghĩa Nguyễn Du đã vượt qua biên giới của sự sinh hóa, trụ diệt để xót đau cho những kiếp đời bất hạnh, oan ức. Đây là một phương diện độc đáo trong tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du.
* Với Thúy Vân:
– Toàn bộ đoạn trích, về hình thức là lời Kiều nói với Thúy Vân. Tuy nhiên, nếu lắng nghe thật kĩ ta sẽ thấy nhiều khi Kiều như đang nói với chính mình, có lúc lại nói với Kim Trọng. Việc chuyển đối tượng đối thoại thể hiện khả năng nắm bắt một cách tinh tế quy luật diễn biến tâm trạng nhân vật của tác giả. Nếu chỉ đơn thuần là những lời dặn dò Thúy Vân thì cảm xúc của nhân vật không đạt tới cao trào, bi kịch của thân phận và tình yêu không được đẩy tới đỉnh điểm, nhân cách cao đẹp của Kiều không có điều kiện bộc lộ rõ.
– Với Thúy Vân (hai chữ “cậy” và “chịu” cùng cử chỉ “lạy”) Kiều coi việc nhận lời của em là một sự hi sinh và Kiều đã “lạy” sự hi sinh ấy
– Tiếp theo, Thúy Kiều phân tích cho em hiểu về tình cảm hiện tại khiến nàng không còn cách lựa chọn nào khác (“Sóng gió bất ki “hiếu tình’ không thể vẹn)
– Rồi Kiều động viên, an ủi em: “Ngày xuân em hãy còn dài”
– Kiều viện đến tình máu mủ ruột rà: “xót tình máu mủ” để làm một cồng việc tình nghĩa sâu nặng: “thay lời nước non”.
– Cuối cùng, Thúy Kiều lấy cả cái chết của bản thân ra để ủy thác (“Chị dù thịt nát xương mòn/Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”)
* Với chính mình
Như vậy, Nguyễn Du đã để cho Kiều nói bằng ngôn ngữ của lí trí còn rất tỉnh táo. Kiều không để Vân có cơ hội từ chối, cứ sau một giây thăm dò Kiều lại viện thêm lí lẽ, lí lẽ nào cũng vừa có tình có lí, trên hết vẫn là tình, cách nói, lời nói, cử chỉ thiết tha, cầu khẩu như vậy khiến Thúy Vân không thể từ chối.
Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung
– Tâm trạng Thúy Kiều phải trải qua những giằng xé mâu thuẫn, đau đớn đặc biệt trong thời khắc trao kỉ vật cho Thúy Vân:
Mâu thuẫn nằm trong hai chữ “của chung”. Mới đọc tưởng Kiều nói của em với Kim Trọng nhưng lắng nghe từ trong đau khổ của con tim rớm máu sẽ thấy “của chung” có một phần của Kiều, về lí trí Kiều muốn em nên vợ nên chồng, về tình cảm Kiều không thể nói đoạn tuyệt là đoạn tuyệt. Kỉ vật là hiện thân của mối tình vàng đá. Với Thúy Vân nó chỉ là vật đầu đời, cầm kỉ vật là kỉ niệm sống dậy. Nhưng kỉ vật còn đó mà mối tình đành trao, kỉ vật chỉ gợi xót xa, đau khổ mà thôi.
* Với Kim Trọng
Với Kiểu, mất tình yêu là mất mát quá lớn đối với nàng không gì có thể bù đắp được. Kiều rơi vào bi kịch đau thương tang tóc. Nàng đã nghi đến cái chết. Kiều tự coi mình là kẻ đã chết bởi trao duyên là trao cả trái tim mình thì dù có sống cũng như chết. Nỗi đau trong tâm hồn đến cùng cực, nàng mong với sự trở về (dù là hồn ma) có thể gặp Kim Trọng nhưng cả sự trở về ấy cũng không thể an ủi được khiến nàng càng đau đớn hơn.
Tám câu cuối của đoạn trích, Kiều quay sang tâm sự với Kim Trọng trong tưởng tượng. Lời tâm sự chứa đầy mâu thuẫn, đối lập giữa khát vọng tình yêu mãnh liệt và hiện thực phũ phàng. Khát vọng là “kể làm sao xiết muôn vàn ái ân” còn hiện thực là “trâm gãy gương tan”, là “tơ duyên ngắn ngủi”, là “phận bạc như vôi”, đau đớn tan nát hiện thực đã trùm lên khát vọng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Hai câu cuối:
ND chính
Đoạn trích là những dòng thơ lâm li, đau đớn bậc nhất trong Truyện Kiều biểu hiện bi kịch tình yêu tan vỡ mà thực chất là bi kịch của một số phận bất hạnh, sự hi sinh của Kiều khiến nàng trở nên cao thượng. Nỗi đau đớn xót xa của nàng lại cho thấy cái giá của sự hi sinh. Mối quan hệ giữa tình cảm và lí trí, nhân cách và thân phận của Kiểu đã được Nguyễn Du thể hiện một cách sâu sắc, tinh tế.
chúng tôi
Kiều yêu Kim Trọng tha thiết. Nhưng vì chữ “hiếu” nàng buộc phải chọn và nàng đã hi sinh tình yêu. Về lí trí, Kiều nhận thức được tính tất yếu của việc trao duyên cho Thúy Vân, nhưng về tình cảm, nàng yêu với tình yêu sâu sắc, mãnh liệt. Kiều phải thuyết phục bằng mọi cách để Thúy Vân nhận lời; nhưng Kiều vẫn không sao ngăn được nỗi thổn thức, đau đớn, Kiều sẽ thanh thản về lí trí nhưng trái tim thì rớm máu. Mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm chính là mâu thuẫn giữa các phạm trù đạo đức thời phong kiến với tâm hồn con người. Với Thúy Kiều, cả lí trí và tình cảm đều sâu nặng, tạo nên nhân cách của nàng. Đó là một nhân cách trong sáng, đẹp đẽ, cao thượng, sâu sắc…
– Phần 1: 12 câu đầu: Thúy Kiều tìm cách thuyết phục, trao duyên cho Thúy Vân.
– Phần 2: 14 câu tiếp: Thúy Kiều trao kỉ vật cho em và dặn dò em.
– Phần 3: 8 câu còn lại: Tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều.
Việc bán mình thu xếp xong xuôi, Kiều ngồi thao thức trắng đêm nghĩ đến thân phận và tình yêu lỡ dở của mình. Nàng khẩn khoản nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho chàng Kim.
Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Bài: Truyện Kiều Phần 2 – Trao Duyên trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!