Xu Hướng 6/2023 # Soạn Bài: Tam Đại Con Gà – Ngữ Văn 10 Tập 1 # Top 12 View | Englishhouse.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Soạn Bài: Tam Đại Con Gà – Ngữ Văn 10 Tập 1 # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Soạn Bài: Tam Đại Con Gà – Ngữ Văn 10 Tập 1 được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

I. Tìm hiểu chung

* Truyện cười là những truyện dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, kể về những sự việc, hành vi trái với tự nhiên của con người, có tác dụng gây cười, nhằm mục đích giải trí và phê phán xã hội.

* Văn bản Tam đại con gà thuộc thể loại truyện trào phúng, hướng sự châm biếm, đả kích vào những kẻ “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”. Cái xấu, cái dốt càng che đậy thì càng dễ lộ ra và đáng cười hơn rất nhiều lần.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

Mâu thuẫn trái tự nhiên của nhân vật “thầy” (anh học trò dốt làm thầy dạy trẻ):

“Thầy” liên tiếp bị đặt vào các tình huống khó xử:

Là anh học trò học hành dốt nát mà lại làm thầy đồ đi dạy học trò, dạy chữ nhưng lại “thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì”. Học trò hỏi gấp, thầy đáp liều.

Chủ nhà phát hiện “thầy” dạy sai thì ra sức bao biện và giấu dốt

“Thầy” đã giải quyết những tình huống đó như sau:

Tình huống 1: “thầy” chọn cách “nói liều”, sợ sai bảo học trò đọc nhỏ rồi sau đó thay vì hỏi người giỏi “thầy” lại khấn thổ công.

Tình huống 2: khi chủ nhà phát hiện dạy sai, “thầy” vẫn bao biện, “lí sự cùn”, giấu dốt, không chịu thừa nhận cái sai của mình.

Trong quá trình giải quyết các tình huống, từ đầu đến cuối “thầy” đều ra sức giấu dốt. Dù có bị đặt vào các tình huống khó xử như thế nào thì “thầy” vẫn cố gắng che giấu, để rồi càng che thì bản chất thật sự càng lộ ra. Đây cũng là mâu thuẫn cơ bản nhất và là yếu tố chính để gây cười. Ở đây, ta thấy được sự phi lí trong cả lời nói và hành động của “thầy”. Đây chính là một thủ pháp nghệ thuật được sử dụng.

Câu 2:

Ý nghĩa phê phán của truyện:

Truyện không chỉ phê phán anh học trò dốt mà còn phê phán tật xấu là giấu dốt và không chịu học hỏi, không chịu tiếp thu của một bộ phận nhân dân. Qua câu chuyện cũng khuyên mọi người chúng ta khi đang đi học thì không nên giấu dốt, hãy biết thừa nhận cái sai của mình và biết lắng nghe, biết học hỏi từ người khác.

Ngoài ra, cái gây cười trong truyện ngắn này chủ yếu vẫn mang tính chất giải trí. Chúng ta cười sự ngây ngô và liều lĩnh của thầy đồ, chứ không có tính đả kích gay gắt.

5

/

5

(

1

bình chọn

)

Soạn Bài Tam Đại Con Gà Trang 78 Sgk Ngữ Văn 10

Soạn bài Tam đại con gà trang 78 SGK Ngữ văn 10

Tam đại con gà vạch rõ bản chất của nhân vật “Thầy” qua những việc gây cười và ý nghĩa phê phán sâu sắc. Là truyện cười chỉ trích thói “sĩ diện hão” của những thầy đồ dốt mà hay giấu dốt, từ đó nêu một bài học cho muôn đời về sự chân thành trong học hỏi.

KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Về thể loại truyện cười

a. Truyện cười là những câu chuyện có mục đích giải trí hoặc phê phán thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân, cũng như để chế giễu, đả kích các thế lực thống trị lỗi thời… Truyện cười có hai loại:

– Truyện khôi hài: nhằm mục đích giải trí, mua vui vì ít nhiều có tính giáo dục.

– Truyện trào phúng: Phê phán những kẻ thuộc giai cấp quan lại bóc lột (trào phúng thù), phê phán thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân (trào phúng bạn).

b. Truyện cưòi rất ít nhân vật. Nhân vật chính trong truyện là đốì tượng chủ yếu của tiếng cười, vả lại truyện cưòi không kể về số phận, cuộc đời nhân vật, như truyện cổ tích. Mọi chi tiết trong truyện đều hướng về tình huống gây cười, (cái cười và bản chất cái cười).

2. Tam đại con gà vạch rõ bản chất của nhân vật “Thầy” qua những việc gây cười và ý nghĩa phê phán sâu sắc. Là truyện cười chỉ trích thói “sĩ diện hão” của những thầy đồ dốt mà hay giấu dốt, từ đó nêu một bài học cho muôn đời về sự chân thành trong học hỏi.

3. HS thấy được những đặc sắc của nghệ thuật truyện cười: truyện rất ngắn gọn, tạo được những yếu tố bất ngờ, những cử chỉ, lời nói gây cười, nghệ thuật phóng đại…

SOẠN BÀI Câu 1. Phân tích mâu thuẫn trái tự nhiên trong truyện Tam đại con gà qua ba khía canh SGK đã gợi ý (SGK, trang 79)

– Miêu tả liên tiếp những tình huống và cách xử trí của anh học trò dốt nát nhưng hay khoe khoang lại liều lĩnh để làm bật lên tiếng cưòi phê phán.

Cần phải hiểu rằng bản thân cái dốt của học trò không có gì đáng cười. Cái đốt của người thất học, nhân dân cảm thông. Ở đây là cưòi kẻ dốt hay khoe, hay nói chữ, cả gan hơn dám nhận đi dạy trẻ. Cái xấu của anh ta không dừng ở lời nói mà đã thành hành động. Cái cười được thể hiện qua nhiều lần:

– Lần thứ nhất: Chữ “kê” thầy không nhận ra mặt chữ. Học trò hỏi gấp, thầy nói liều “Dủ dỉ là con dù dì”. Dủ dỉ đâu phải là chữ Hán, mà trên đòi này làm gì có con vật nào là dủ dỉ, dù dì. Anh học trò này đã đi đến tận của sự dốt nát thảm hại và liều lĩnh. Cái dốt đã được định hướng. Anh ta vừa dốt kiến thức sách vở, vừa dốt kiến thức thực tế.

– Tình huống thứ hai: Ta cười về sự giấu dốt và sĩ diện hão của anh học trò làm thầy dạy học “Thầy xấu hổ mới bảo trò đọc khe khẽ”. Rõ ràng anh học trò làm thầy liều lĩnh bao nhiêu thì lại thận trọng bấy nhiêu trong việc giấu dốt. Anh ta vừa dùng cái láu cá vặt để gỡ bí. Đó là cách giấu đốt.

– Lần thứ ba: ta cười khi thầy tìm đến Thổ công. Thổ công cũng được “khoèo” vào với anh chàng học trò láu cá này. Cái dốt ngửa ra cả ba đài âm dương. Thầy đắc ý “Bệ vệ ngồi lên giường bảo trẻ đọc to”. Bọn trẻ gào to “Dủ dỉ là con dù dì”. Cái dốt là được khuếch đại và nâng lên.

– Lần thứ tư: Là sự chạm trán với chủ nhà. Thói giấu dốt bị lật tẩy. Cái dốt của Thổ công được chính thầy nhạo báng “Mình đã dốt, Thổ công nhà nó còn dốt hơn.” Thầy đã lòi cái đuôi dốt vẫn gượng gạo giấu dốt. “Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà”. Đúng là tam đại con gà. Làm gì có con dù dì, vả lại con công đâu phải cùng nguồn gốc với con gà. Cái dốt nọ lồng cái dốt kia.

Câu 2. Ý nghĩa phê phán của truyện

Tiếng cười mang ý nghĩa phê phán, nó hóm hỉnh, sâu sắc và mang đậm chất dân gian. Truyện có ý nghĩa đánh giá các hạng thầy trong xã hội phong kiến suy tàn, trong đó có thầy đồ dạy chữ. Mặt khác, truyện không chỉ phê phán các ông đồ phong kiến năm xưa mà còn nhắc nhở, cảnh tỉnh những kẻ hôm nay cũng mắc bệnh ấy.

LUYỆN TẬP Phân tích hành động, lời nói của “thầy” để thầy thủ pháp gây cười của truyện.

Dựa vào hành động, lời nói của anh thầy đồ trong truyện để chứng minh thủ pháp gây cười chủ yếu trong truyện là dựa trên mâu thuẫn mang tính hài hước, đã dốt lại ra vẻ ta đây là giỏi, cuối cùng vẫn lộ cái dốt của nhân vật anh thầy đồ.

chúng tôi

Soạn Bài: Tam Đại Con Gà

Soạn bài (truyện cười)trang 78 – 79 SGK ngữ văn lớp 10 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Tam đại con gà, sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.

TAM ĐẠI CON GÀ

(Truỵên cười) TIỂU DẪN

Truyện cười có hai loại: truyện khôi hài và truyện trào phúng. Truyện khôi hài chủ yếu nhằm mục đích giải trí (song vẫn có ý nghĩa giáo dục). Truyện trào phúng có mục đích phê phán. Đối tượng phê phán phần lớn là các nhân vật thuộc tầng lớp trên trong xã hội nông thôn Việt Nam xưa. Cũng có khá nhiều truyện cười phê phán thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân.

Tam đại con gà và Nhưng nó phải bằng hai mày là những truyện cười thuộc loại trào phúng, phê phán thầy đồ dốt và quan lại tham nhũng.

VĂN BẢN

Xưa, có anh học trò học hành dốt nát, nhưng trò đời “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ (1)”, đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt.

Có người tưởng anh ta hay chữ thật, mới đón về dạy trẻ.

Một hôm, dạy sách Tam thiên tự (2), sau chữ “tước” là chi sẻ, đến chữ “kê” là gà, thầy thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì, học trò lại hỏi gấp, thầy cuống, nòi liều: “Dủ dỉ là con dù dì (3).” Thầy cũng khôn, sợ nhỡ sai, người nào biết thì xấu hổ, mới bảo học trò đọc khẽ, tuy vậy, trong lòng vẫn thấp thỏm.

Nhân trong nhà có bàn thờ thổ công (4), thầy mới đến khấn thầm xin ba đài âm dương (5) để xem chữ ấy có phải thật là “dù dì” không. Thổ công cho ba đài được cả ba

Thấy vậy, thầy lấy làm đắc trí lắm, hôm sau bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc cho to. Trò vâng lời thầy, gân cổ lên gào:

– Dủ dỉ là con dù dì… Dủ dỉ là con dù dì…

Bố chúng đang cuốc đất ngoài vườn, nghe tiếng học, ngạc nhiên bỏ cuốc chạy vào, giở sách ra xem, hỏi thầy:

– Chết chửa! Chữ “kê” là gà, sao thầy lại dạy ra “dủ dỉ” là con “dù dì”?

Bấy giờ thầy mới nghĩ thầm: “Mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa”, Nhưng nhanh trí thầy vội nói gỡ:

Tôi vẫn biết chữ ấy là chữ “kê”, mà “kê” nghĩa là “gà”, nhưng tôi dạy thế này là dạy cho cháu biết đến tận tam đại (6) con gà kia.

Nhà chủ càng không hiểu hỏi:

– Tam đại con gà là nghĩa làm sao?

– Thế này nhe! Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà!

(Theo Trương Chính – Phong Châu, Tiếng cười dân gian Việt Nam,

NXB Khoa học xã hội. Hà Nội, 1986)

Chú thích:

(1) Nói chữ: nói bằng từ Hán. Người xưa học chữ Hán chứ không được học chữ quốc ngữ như bây giờ.

(2) Tam thiên tự: ba nghìn chữ, sách dạy chữ Hán cho trẻ em thời xưa.

(3) Dù dì: loài chim ăn thịt, cùng họ với cú nhưng lớn hơn, có tiếng kêu “thù thì, thù thì”.

(4) Thổ công: thần cai quản đất đai trong một khu vực.

(5) Đài âm dương: cái đế tiện bằng gỗ, cao khoảng 20 – 30 cm, trên để một cái đĩa có hai đồng tiền chinh (tiền cổ của Việt Nam), quy định một mặt là ngửa, một mặt là sấp. Khi xin âm dương, người xin phải thắp hương khấn, sau đó cầm hai đồng tiền giơ lên thả cho rơi vào lòng đĩa, nếu một ngửa, một sấp là được thần ưng thuận. Mỗi lần xin như vậy gọi là một đài. Người xin âm dương chỉ được phép xin ba lần (tức ba đài). Về sau, không cần đài, người ta chỉ dùng đĩa để thả đồng xu nhưng vẫn gọi là xin đài âm dương.

(6) Tam đại: ba đời.

Hướng dẫn soạn bài – Tam đại con gà

I. Bố cục

– Phần 1 (từ đầu đến “trong lòng vẫn thấp thỏm”): Sự dốt nát của anh học trò.

– Phần 2 (tiếp theo đến “dủ dỉ là con dù dì”?): Sự dốt nát của anh hoc trò suýt bị lật tẩy.

– Phần 3 (đoạn còn lại): Hành động dấu dốt, lấp liếm của anh học trò.

II. Tóm tắt Xưa có anh học trò dốt nát nhưng cứ lên mặt văn hay chữ tốt. Có hôm đang dạy học trò, gặp chữ không biết, anh nói liều rồi bảo học trò đọc khẽ. Sau xin được đài âm dương, anh mới bảo trẻ đọc to. Người nhà thấy anh dạy chữ “kê” sai liền thắc mắc, anh tìm kế chối quanh: “tôi dạy cháu thế là để nó biết tận tam đại con gà kia”!

Tam đại con gà là câu chuyện cười, phê phán sự dốt nát và hành động dấu dốt của một anh học trò nọ. Từ đó, tác giả dân gian nhằm phê phán, chỉ trích thói “sĩ diện hão” của những thầy đồ dốt mà hay giấu dốt, từ đó nêu một bài học cho muôn đời về sự chân thành trong học hỏi.

III. Hướng dẫn soạn chi tiết bài Tam đại con gà

Giải câu 1 (Trang 79 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Tìm hiểu mâu thuẫn trái tự nhiên ở nhân vật “thầy” (anh học trò dốt làm thầy dạy trẻ) qua việc phân tích ba khía cạnh sau:

– “Thầy” liên tiếp bị đặt vào những tình huống nào?

– “Thầy” đã giải quyết các tình huống đó ra sao?

– Trong quá trình giải quyết các tình huống, “thầy” đã tự bộc lộ cái dốt của mình như thế nào?

– “Thầy” không biết chữ nhưng phải dạy học cho học trò.

– Nói liều với học trò, bảo học trò đọc khẽ vì sợ người khác biết.

– Không hiểu biết những vẫn nói bừa, làm bừa.

– “Thầy” khấn thổ công, thổ công cho ba quẻ đều được.

– Mê tín làm theo, tự tin cho học trò đọc lớn.

– Đã dốt nát lại còn ngu muội, không cố gắng tìm hiểu mà dựa vào vận may.

– Bố của học trò thắc mắc về bài học.

– Thầy lấp liếm, che đi cái dốt của mình.

– Sự dốt nát đi cùng với hành động khôn lỏi.

Giải câu 2 (Trang 79 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Hãy chỉ ra ý nghĩa phê phán của truyện. (Có phải chỉ phê phán một đối tượng cụ thể la anh học trò dốt không?)

Truyện không chỉ phê phán một đối tượng là anh học trò dốt nát mà phê phán thói xấu của con người trong cuộc sống: không có kiến thức nhưng lại không tìm hiểu, học hỏi mà lại tìm hết cách này đến cách khác để dấu dốt, che đậy sự thiết sót của bản thân.

Soạn phần luyện tập bài Tam đại con gà

Giải câu hỏi – Luyện tập (Trang 79 SGK ngữ văn 10 tập 1)

Phân tích hành động và lời nói của nhân vật “thầy” để làm sáng tỏ thủ pháp gây cười trong truyện.

– Hành động:

+ Bảo học trò đọc khẽ.

+ Khấn xin âm dương thổ công.

+ Bệ vệ ngồi trên giường bảo trẻ đọc thật to.

⇒ Hai hành động đầu tiên là biểu hiện cho sự thận trọng muốn che giấu cái dốt của mình. Hành động thứ ba, ngược lại là biểu hiện của sự đắc chí, sự yên tâm tuyệt đối vào mình và vào thổ công. Và chính vì vậy hành động thứ ba là hành động có khả năng bộc lộ rõ nhất bản chất nhân vật và khiến tiếng cười bật ra một cách thoải mái nhất.

– Lời nói:

+ Dủ dỉ là con dù dì.

+ Dạy cho cháu biết đến tận tam đại con gà.

+ Dủ dỉ là chị con công, con công là ông con gà…

⇒ Các lời nói càng về sau càng chứa đựng nhiều sự phi lý, ngô nghê, vô nghĩa, thế nhưng nhân vật đem ra làm vũ khí để ngụy biện, chống chế, che giấu cái dốt của mình. Vì thế sự dốt nát lộ càng rõ, càng đầy đủ.

⇒ Như vậy hành động và lời nói của nhân vật càng về sau càng đáng cười. Thủ pháp tăng tiến trong miêu tả hành động và lời nói của nhân vật là thủ pháp gây cười trong truyện.

Câu 1. Tìm hiểu mâu thuẫn trái tự nhiên ở nhân vật “thầy” (anh học trò dốt làm thầy dạy trẻ) qua việc phân tích ba khía cạnh sau:

– “Thầy” liên tiếp bị đặt vào những tình huống nào?

– “Thầy” đã giải quyết các tình huống đó ra sao?

– Trong quá trình giải quyết các tình huống, “thầy” đã tự bộc lộ cái dốt của mình như thế nào?

Mâu thuẫn trái tự nhiên ở nhân vật “thầy” (anh học trò dốt làm thầy dạy trẻ):

– “Thầy” liên tiếp bị đặt vào các tình huống khó xử:

+ Là anh học trò học hành dốt nát mà lại làm thầy đồ đi dạy học trò, dạy chữ nhưng lại “thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì”. Học trò hỏi gấp, thầy đáp liều.

+ Chủ nhà phát hiện thầy dạy sai thì ra sức bao biện, giấu dốt.

– Cách giải quyết của “thầy”:

+ Tình huống thứ nhất: “thầy” chọn cách “nói liều”, sợ sai bảo học trò đọc nhỏ rồi sau đó thay vì hỏi người giỏi “thầy” lại khấn thổ công.

+ Tình huống thứ hai: khi chủ nhà phát hiện dạy sai, “thầy” vẫn bao biện, “lí sự cùn”, giấu dốt, không chịu thừa nhận cái sai của mình.

– Dù cho cái dốt bị đặt vào các tình huống khó xử thì thầy vẫn cố gắng che giấu để rồi càng che giấu thì bản chất càng lộ ra. ở đây ta thấy được sự phi lí trong cả lời nói và hành động của “thầy”. Đây là một thủ pháp nghệ thuật được sử dụng.

Câu 2. Hãy chỉ ra ý nghĩa phê phán của truyện. (Có phải chỉ phê phán một đối tượng cụ thể la anh học trò dốt không?)

Ý nghĩa phê phán của truyện:

Câu truyện không chỉ phê phán anh học trò dốt mà phê phán tật xấu giấu dốt, không chịu học hỏi của một bộ phận nhân dân. Câu truyện còn khuyên mọi người đặc biệt là những người đi học: chớ nên giấu dốt, hãy thừa nhận cái sai của mình và mạnh dạn học hỏi từ người khác.

Truyện chỉ dừng lại ở mức phê phán nên tạo ra tiếng cười mang tính chất sảng khoái, không có tính đả kích gay gắt.

Soạn phần luyện tập bài Tam đại con gà (trang 79 SGK ngữ văn 10 tập 1)

(BAIVIET.COM)

Soạn Bài Tam Đại Con Gà (Siêu Ngắn)

Soạn bài Tam đại con gà

I. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 79 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

– Trong truyện Tam đại con gà, “ông thầy” liên tiếp bị đưa vào hai tình huống;

+ Thầy đồ đi dạy học trò nhưng “thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì, học trò lại hỏi gấp, thầy cuống, nói liều…”

+ Khi bị người nhà phát hiện dạy sai, thầy ra sức bao biện để chối tội và giấu dốt.

– Tình huống 1: “ông thầy” giải quyết bằng cách nói liều và còn viện đến thổ công để “chứng giám” một cách hú họa cho sự dốt nát của mình.

– Tình huống 2: “ông thầy” đã giải quyết để bào chữa cho mình bằng một cái “lí sự cùn”

– Qua hai tình huống, cái bản chất “dốt” của thầy đồ đã được bộc lộ rõ. Dốt nhưng vẫn ham khoe giỏi và nhất quyết bao biện cho mình bằng một cái “lí sự cùn” hoàn toàn không thể tin tưởng được.

Câu 2 (trang 79 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

Truyện Tam đại con gà phê phán một loại người, một thói tật xấu trong xã hội: muốn giấu dốt và cố tình che giấu cái dốt một cách liều lĩnh.

II. Luyện tập

Gợi ý:

– Các hành động của thầy đồ:

+ Bảo học trò đọc khe khẽ (thận trọng).

+ Xin đài âm dương (thận trọng).

+ Ngồi bệ vệ trên giường bảo học trò đọc to (đắc chí).

– Các lời nói của thầy chứa đựng sự phi lí:

+ Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà.

+ Dạy học trò biết đến tận tam đại con gà.

Bài giảng: Tam đại con gà – Cô Trương Khánh Linh (Giáo viên VietJack)

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k5: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Bài: Tam Đại Con Gà – Ngữ Văn 10 Tập 1 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!