Xu Hướng 6/2023 # Soạn Bài: Nhưng Nó Phải Bằng Hai Mày – Ngữ Văn 10 Tập 1 # Top 13 View | Englishhouse.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Soạn Bài: Nhưng Nó Phải Bằng Hai Mày – Ngữ Văn 10 Tập 1 # Top 13 View

Bạn đang xem bài viết Soạn Bài: Nhưng Nó Phải Bằng Hai Mày – Ngữ Văn 10 Tập 1 được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

Tính kịch tính trong đoạn: “Cải vội xòe năm ngón tay… bằng hai mày”:

a) Quan hệ giữa nhân vật Cải và thầy lí là mối quan hệ đã được dàn xếp. Vì đã đút lót tiền cho thầy lí nên Cải cứ nghĩ rằng mình sẽ được thắng kiện nên rất ung dung. Tuy nhiên, Cải không ngờ khi xử kiện thì mình lại bị đánh 10 roi. Từ thế chủ động chuyển sang bị động nên Cải phải chịu đòn.

b) Sự kết hợp giữa lời nói và hành động của 2 nhân vật trên: là sự kết hợp giữa 2 thứ “ngôn ngữ”. Đó là ngôn ngữ bằng lời nói (ngôn ngữ công khai), Cải và thầy lí nói cho tất cả mọi người ở đấy nghe. Còn ngôn ngữ thứ hai là thứ ngôn ngữ bằng động tác thì chỉ có Cải và thầy lí mới hiểu được.

Lẽ phải – Cải xòe năm ngón tay.

Lẽ phải được nhân đôi – thầy lí xòe năm ngón thay trái úp lên năm ngón tay phải

Câu 2:

Nghệ thuật gây cười qua lời nói của thầy lí:

Khi Cải khăng khăng “xin xét lại, lẽ phải về con mà!”, thì khi đó, thầy lí đã không hề phủ nhận điều đó nhưng thầy đưa ra lí lẽ “Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bằng hai mày!”. Và tiếng cười của người đọc bật ra từ đó. Đối với thầy lí, lẽ phải được đo bằng tiền. Tiền quyết định lẽ phải. Bởi thế năm đồng là “lẽ phải” nhưng mười đồng là “lẽ phải gấp đôi”.

Câu 3:

Như chúng ta đều thấy, nhân vật bị thất bại trong vụ kiện là nhân vật Cải. Vì bất ngờ nên Cải đã không kịp trở tay nên đã bị rơi vào một tình trạng thảm hại, vừa mất tiền lại vừa bị đánh.

Thế nhưng, ở đây, câu chuyện chính là lời phê phán cả 2 nhân vật Cải và Ngô, phê phán những tên quan lại ngày càng trở nên tráo trở hơn nếu còn có những người như Ngô và Cải. Chính hành vi tiêu cực của họ đã khiến cho họ trở nên thảm hại hơn. Nói chung, Cải và Ngô đều là những con người vừa đáng thương lại vừa đáng trách.

5

/

5

(

1

bình chọn

)

Soạn Bài Tam Đại Con Gà Và Nhưng Nó Phải Bằng Hai Mày Sbt Ngữ Văn 10 Tập 1

1. Truyện Tam đại con gà cười điều gì ở anh học trò ?

A – Sự dốt nát

B – Đã dốt lại hay nói chữ

C – Sự luống cuống khi chủ nhà hỏi

D – Sự giấu dốt

Giải thích vì sao anh (chị) chọn phương án đó.

Trả lời:

D là phương án đúng.

Ta biết được điều đó qua bản chất của anh học trò đã được giới thiệu ở đầu truyện : “dốt hay nói chữ”. Vì vậy, anh ta phải lên mặt là người văn hay chữ tốt, từ đó mà phải luôn tìm cách giấu dốt nên mới dẫn đến tấn bi hài kịch đó.

2. Trong truyện Nhưng nó phải bằng hai mày, chi tiết nào làm cho anh (chị) thích thú và bật cười ? Tác giả dân gian đã sử dụng nghệ thuật gì để tạo nên chi tiết hài hước độc đáo ấy ?

Trả lời:

Chi tiết làm ta bật cười một cách thích thú là câu nói cuối cùng của thầy lí. Để tạo nên chi tiết hài hước độc đáo ấy, tác giả dân gian đã sử dụng nghệ thuật :

– Xây dựng tình huống gây cười đặc sắc (Cải đã đút lót tiền mà vẫn bị đánh ; thầy lí đã ăn tiền đút lót mà vẫn đánh người).

– Đẩy lên cao trào cho tiếng cười “oà” ra (thầy lí “xoè năm ngón tay trái úp lên trên năm ngón tay mặt” và nói “nhưng nó lại phải bằng… hai mày”). Ở đây có ngôn ngữ nói và có cả động tác của thầy lí. Một chi tiết thật tinh tế mà thâm thuý, sâu cay khi “cười” vào mặt vị đại diện cho công lí của chính quyền phong kiến ở nông thôn trước đây.

Trả lời:

– Đặc trưng cơ bản của truyện cười :

+ Về nội dung : truyện có mâu thuẫn trái tự nhiên để gây cười.

+ Về nghệ thuật : ngắn gọn, kết cấu chặt chẽ, mâu thuẫn phát triển nhanh, kết thúc bất ngờ để bật ra tiếng cười.

– Chứng minh qua : Truyện Nhưng nó phải bằng hai mày:

+ Nội dung là mâu thuẫn trái tự nhiên :

Đã đút lót tiền mà vẫn bị đánh.

Đã ăn tiền hối lộ mà vẫn đánh người.

+ Về nghệ thuật: Truyện rất ngắn gọn, kết cấu chặt chẽ, mâu thuẫn phát triển nhanh (Cải đút tiền nhưng vẫn bị đánh – xoè năm ngón tay để thầy lí biết mình đã đút tiền nhưng thầy lí lại xoè năm ngón tay trái úp lên trên năm ngón tay mặt), kết thúc bất ngờ (câu nói của thầy lí).

Với cách phân tích này, anh (chị) có thể phân tích thêm truyện Tam đại con gà để chứng minh cho hai đặc trưng cơ bản của truyện cười.

4. Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi.

MẤT RỒI

Một người có việc đi xa, dặn con :

Sợ con mải chơi quên mất, ông ta viết mấy câu vào giấy, đưa cho con, bảo :

– Có ai hỏi thì cứ đưa cái giấy này.

Đứa con cầm giấy bỏ vào túi áo. Cả ngày chẳng thấy ai hỏi. Tối đến, nó thắp đèn, lấy giấy ra xem, chẳng may để giấy cháy mất.

Hôm sau có người khách lại chơi, hỏi:

– Bố cháu có nhà không ?

Thằng bé ngẩn ngơ hồi lâu, sực nhớ ra, sờ vào túi không thấy giấy, liền nói:

– Mất rồi.

Ông khách sửng sốt :

– Mất bao giờ ?

– Thưa… tối hôm qua.

– Sao mà mất nhanh thế ?

– Cháy ạ.

( Truyện cười dân gian Việt Nam,

NXB Văn học, Hà Nội, 1964).

a)Truyện cười trên thuộc loại truyện khôi hài hay trào phúng ? Vì sao anh (chị) có thể xác định như vậy ?

b) Những đặc trưng cơ bản của truyện cười đã được thể hiện trong truyện này như thế nào ? Hãy phân tích để làm sáng tỏ.

Trả lời:

a) Truyện cười này thuộc loại truyện khôi hài, nhằm mục đích mua vui, giải trí trong cuộc sống.

b) Những đặc trưng cơ bản của truyện cười được thể hiện trong truyện :

– Mâu thuẫn trái tự nhiên để gây cười : chuyện mất giấy mà thành chuyện người chết – một chuyện cỏn con, vô thưởng vô phạt mà thành chuyện động trời.

– Kịch tính phát triển nhanh do có sự hiểu nhầm diễn ra ở cả hai phía (ông khách và em bé) vì ai cũng đang nghĩ đến điều mà mình quan tâm.

– Truyện ngắn gọn, kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ để bật ra tiếng cười.

chúng tôi

Soạn Bài Hai Đứa Trẻ Sách Bài Tập Ngữ Văn 11 Tập 1

1. Bài tập 1, trang 101, SGK.

Cảnh vật trong truyện đã được miêu tả trong thời gian và không gian như thế nào ?

Trả lời:

Các nhân vật có thể gây ấn tượng sâu sắc là : Liên, An, chị Tí, bác Siêu, bà cụ Thi,… Những chi tiết nghệ thuật tịêu biểu là : đoàn tàu, bóng tối và ánh sáng, âm thanh, hình ảnh Hà Nội xa xăm, ngọn đèn ở hàng nước của chị Tí,…

Ví dụ, phân tích hình ảnh ngọn đèn ở hàng nước của chị Tí:

– Chị em Liên “lại cúi nhìn về mặt đất, về quầng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí”.

– “Giờ chỉ còn ngọn đèn con của chị Tí, và cả cái bếp lửa của bác Siêu, chiếu sáng một vùng đất cát; trong cửa hàng, ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ, thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa”.

– “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.

Hình ảnh ngọn đèn ở hàng nước của chị Tí “chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ” trước hết có ý nghĩa như một biểu tượng về những kiếp người nhỏ bé, sống leo lét, quẩn quanh, không tương lai, không hạnh phúc trong đêm trường tăm tối của xã hội cũ. Ngoài ra, hình ảnh này còn có tác dụng tô đậm thêm sự tối tăm, nghèo khổ của những cư dân nơi phố huyện.

2. Bài tập 2*, trang 101, SGK.

Thạch Lam đã miêu tả cuộc sống và hình ảnh những người dân phố huyện ra sao ?

Trả lời:

– Truyện Hai đứa trẻ rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam với những trang viết vừa đậm đà yếu tố hiện thực vừa phảng phất chất lãng mạn, chất thơ. Toàn bộ câu chuyện chỉ kể về nỗi buồn trước cảnh ngày tàn và tâm trạng thao thức của chị em Liên mong mỏi chờ đợi một chuyến tàu đêm, thế nhưng qua chuyện kể tưởng như quá đơn sơ, nhỏ nhặt ấy, Thạch Lam đã thể hiện khá chân thực khung cảnh nghèo nàn, đơn điệu của phố huyện nhỏ và thân phận khốn khổ, nhàm chán của những con người ở đó. Đan xen, hài hoà với chất hiện thực ấy, chất lãng mạn, chất thơ thể hiện ở cảm giác mơ hồ về thời gian, không gian, cái thăm thẳm mênh mông của vũ trụ, khung cảnh miền quê êm ả, đượm buồn, sự hồi tưởng về quá khứ và ước mơ kín đáo, xa xôi về tương lai…

– Đặc biệt, Hai đứa trẻ là minh chứng rõ nhất cho loại truyện tâm tình của Thạch Lam. Cuộc sống nghèo nàn nơi phố huyện chỉ là cái nền để tác giả nói tới quan hệ giữa những người dân mộc mạc trong cảnh sống bình thường ; cái tình người chân chất cứ nhẹ nhàng thấm sâu khắp thiên truyện, nó toả ra trong mọi mối quan hệ : giữa chị em Liên với nhau, giữa chị em Liên với chị Tí, bác Xẩm, bác Siêu, mấy đứa trẻ nhặt rác,… Ngay trong cách cư xử của chị em Liên với bà cụ Thi, người đọc cũng thấy sự ấm áp của tình thương và sự cảm thông. Khi miêu tả từng nhân vật, Thạch Lam ít quan tâm đến ngoại hình, hành động mà ông tập trung chú ý tới thế giói nội tâm, cái “hiện thực tâm hồn” với những cảm giác, cảm xúc mong manh, mơ hồ. Với nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật rất tinh tế, Thạch Lam đã khắc hoạ được những xao động trong tâm hồn cô bé Liên : lúc chiều về trên phố huyện “lòng buồn man mác” ; thấy mấy đứa trẻ bới rác mà “động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó”; sự hãnh diện với chiếc xà tích và cái khoá “vì nó tỏ ra chị là người con gái lớn và đảm đang”; cái ước mơ chập chờn “thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi”… khi đoàn tàu đã đi qua… Thạch Lam còn có giọng điệu rất riêng biệt, độc đáo – đó là giọng kể chuyện thủ thỉ như tâm sự vói người đọc, rất nhỏ nhẹ mà man mác, thi vị. Người đọc thấy ẩn hiện, kín đáo, lặng lẽ sau những hình ảnh, những dòng chữ một tâm hồn Thạch Lam đôn hậu, tinh tế, hết sức nhạy cảm với mọi biến thái của lòng người và tạo vật. Văn Thạch Lam rất tiêu biểu cho tính cách người Việt, những người “sống cảm nhiều hơn là suy nghĩ” (Hoài Thanh).

3. Anh (chị) hãy nêu nhận xét về cảm hứng thiên nhiên của Thạch Lam qua truyện ngắn Hai đứa trẻ.

Trả lời:

Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn đã thể hiện khá rõ cảm hứng về thiên nhiên:

– Tác giả đã miêu tả khá thành công nhiều bức tranh thiên nhiên thơ mộng, đầy gợi cảm. Chẳng hạn, những âm thanh, hình ảnh quen thuộc của mùa hạ lúc chiều tà : “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều” ; “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào” ; hay không khí êm đềm, tĩnh lặng khi đêm xuống ở làng quê : “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”.

– Điều đáng nói hơn là thiên nhiên và con người ở đây luôn được khắc hoạ trong sự hoà hợp với nhau. Hai đứa trẻ có thể phát hiện tinh tế những biến thái của đất trời, cây cỏ : “An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông”, “Qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”.

– Qua cảm hứng về thiên nhiên, Thạch Lam đã ít nhiều gọi được ở người đọc những tính cảm đối với quê hương xứ sở. Có lẽ đây cũng là điều góp phần tạo nên sự đặc sắc của thiên truyện này. Tiếc rằng, lâu nay cảm hứng ấy ít được chúng ta bàn tới.

4. Phân tích hình anh hai chị em Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.

Trả lời:

Đây là một đề thuộc kiểu bài phân tích nhân vật. cần phân tích hai mặt trong cuộc sống của chị em Liên :

+ Cuộc sống vật chất

+ Cuộc sống tinh thần

– Cần đặt chị em Liên vào khung cảnh chung – cuộc sống của cả phố huyện với những người cũng như Liên:

+ Nghèo khổ trong cuộc sống vật chất

+ Hạn hẹp, tù túng trong cuộc sống

– Cần nhận rõ những nét đẹp trong cách sống của chị em Liên (cách cư xử giữa hai chị em, tình cảm giữa những người nghèo). Và nhất là khát vọng tinh thần hướng về một cái gì mói lạ, về những chân trời mới tuy còn mơ hồ, mong manh.

– Thạch Lam viết văn rất tinh tế, gợi lên nhiều ấn tượng, nhiều ẩn ý hơn là nói rõ, nói trực tiếp. Vậy từ những chi tiết, những câu chữ trong văn bản có thể nói thêm những cảm nhận của mình.

5. Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.

Trả lời:

Có thể phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên theo dòng chảy của thời gian từ chiều tối cho đến đêm khuya theo các ý sau :

+ Trong buổi chiều tà : Buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn, cảm thương với lũ trẻ con nhặt rác nơi góc chợ, cảm nhận được sự gắn bó sâu sắc của chị em Liên với phố huyện nghèo, buồn tẻ, tăm tối.

+ Khi trời tối hắn : Không muốn tính tiền hàng vì chảng được bao nhiêu ; sợ bà cụ Thi điên với tiếng cười khanh khách xa dần ; không còn sợ bóng tối ; trong đêm, Liên mải mê với những bí ẩn của vũ trụ đầy trăng sao, thao thức, ngóng chờ chuyến tàu đêm đi qua phô huyện mặc dù hai chị em đã buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn gượng để thức.

+ Khi đoàn tàu đến phố: Háo hức, vui mừng, thoả thích, say sưa nhìn ngắm và liên tưởng.

+ Khi đoàn tàu rời phố. Buồn man mác, lưu luyến và hoài niệm về quá khứ.

– Ý nghĩa của việc khắc hoạ tâm trạng nhân vật Liên.

+ Cho thấy bức tranh hiện thực về cuộc sống ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.

+ Làm rõ hơn đời sống nội tâm của nhân vật để cảm thương, trân trọng hơn những khát khao, mong ước của họ.

+ Gióng lên hồi chuông báo động về nguy cơ bị nhấn chìm, bị chết mòn trong buồn chán, đói khổ, tù túng và bế tắc của những kiếp người nhỏ bé, mong manh trong xã hội cũ.

+ Khẳng định ngòi bút nhân đạo sâu sắc của Thạch Lam.

+ Chứng minh khả năng quan sát tinh tế, tâm hồn nhạy cảm của tác giả trước những biến thái của cảnh vật và lòng người.

Bài Soạn Hoạt Động Giao Tiếp Bằng Ngôn Ngữ Ở Tập 1 Ngữ Văn Lớp 10

Nội dung bài soạn Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ ở tập 1 ngữ văn lớp 10 :

b. Khi vua Trần hỏi thì các bô lão là vai người nghe, vua Trần là vai người nói ; khi các bô lão trả lời vua Trần là vai người nghe, các bô lão là vai người nói. Người nói hỏi : “Nên hòa hay nên đánh ?” Tương ứng với câu hỏi đó là câu trả lời của người nghe : “Đánh ! Đánh !”.

c. Hoạt động giao tiếp trên diễn ra tại điện Diên Hồng, vua Trần hỏi ý kiến các bô lão về cách đối phó với giặc Nguyên Mông khi nước ta đứng trước nguy cơ bị xâm lược Nguyên – Mông.

d. Hoạt động giao tiếp trên hướng vào việc bàn bạc sách lược đối phó với quân xâm lược.

e. Mục đích của cuộc giao tiếp là tìm ra một sách lược thống nhất trong cả nước, vua tôi đồng lòng trong việc đối phó với giặc Nguyên. Kết quả, mọi người đều đồng thanh xin “đánh”, đo đó có thể nói cuộc giao tiếp đã đạt được mục đích.

Câu 2: Thông qua bài “Tổng quan văn học Việt Nam”:

a. Nhân vật giao tiếp trong hoạt động giao tiếp này là tác giả của cuốn SGK (người viết) và học sinh lớp 10 (người đọc). Người viết tuổi cao, có nhiều vốn sống, có trình độ hiểu biết sâu rộng (nhất là về văn học), hầu hết là những người đã từng nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy văn học. Người đọc, trái lại còn ít tuổi, có vốn sống và trình độ hiểu biết chưa cao.

b. Hoạt động giao tiếp này được tiến hành một cách có tổ chức, có kế hoạch. Nó được tiến hành trong bối cảnh chung của nền giáo dục quốc dân.

c. Nội dung giao tiếp thuộc lĩnh vực văn học. Đề tài là những nét “Tổng quan văn học Việt Nam”.

Nội dung giao tiếp trên gồm những vấn đề cơ bản là:

Các bộ phận hợp thành của văn học Việt Nam;

Quá trình phát triển của văn học Việt Nam và con người Việt Nam trong văn học.

d. Sự giao tiếp (thông qua văn bản) nhằm mục đích :

Cung cấp một cái nhìn tổng quan về những vấn đề cơ bản của văn học Việt Nam (xét từ phía người tạo lập văn bản).

Tiếp nhận và lĩnh hội những kiến thức cơ bản về văn học Việt Nam theo tiến trình lịch sử thông qua việc học các văn bản. Đồng thời cũng qua đó rèn luyện và nâng cao các kĩ năng nhận thức, đánh giá các hiện tượng văn học và kĩ năng tạo lập văn bản (xét từ phía người nghe, người tiếp nhận).

e. Văn bản sử dụng rất nhiều các thuật ngữ chuyên ngành văn học. Câu văn phức tạp, nhiều thành phần nhưng rất mạch lạc và chặt chẽ. Về mặt cấu trúc, văn bản có kết cấu mạch lạc, rõ ràng; các đề mục lớn, nhỏ; các luận điểm,… đều được đánh dấu và trình bày sáng rõ.

Sưu Tầm

Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Bài: Nhưng Nó Phải Bằng Hai Mày – Ngữ Văn 10 Tập 1 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!