Bạn đang xem bài viết Soạn Bài Nhớ Rừng, Ngữ Văn Lớp 8 (2021) ▶️ Wiki 1 Phút ◀️ được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Soạn văn là cách các em học sinh chủ động tiếp cận với bài học trước khi tìm hiểu sâu hơn ở trên lớp, chính vì vậy, trong bài mở đầu phần Soạn văn lớp 8 kì 2 chúng tôi sẽ hướng dẫn các em tìm hiểu về văn bản Nhớ rừng của nhà thơ Thế Lữ, một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới.HOT Soạn văn lớp 8 đầy đủ, chi tiết
Nhớ rừng là một trong số các bài thơ hay, mở đường cho sự phát triển của phong trào Thơ mới đầu thế kỉ XX. Bài thơ Nhớ Rừng mượn lời chúa sơn lâm bị nhốt trong cũi sắt ở vườn bách thú để bày tỏ thầm kín nỗi chán chường hoàn cảnh tù túng tầm thường và niềm khao khát tự do, phù hợp với hoàn cảnh trong cảnh nước mất lầm than thuở ấy nên đã chạm đến tấm lòng yêu nước của con dân nước Việt. Để hiểu sâu sắc hơn về nội dung cũng như dụng ý nghệ thuật của bài thơ, mời các em cùng tham khảo bài soạn văn lớp 8 Nhớ rừng.
* Soạn bài Nhớ rừng
—————-HẾT—————–
Chi tiết nội dung phần Là người chứng kiến cảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa, em hãy kể lại câu chuyện Cô bé bán diêm của An-đéc-xen để có sự chuẩn bị tốt cho những nội dung Ngữ Văn 8.
Bên cạnh nội dung đã học, các em cần chuẩn bị trước Soạn bài Hai cây phong để nắm vững những kiến thức Ngữ Văn 8 của mình.
Soạn Bài Lớp 8: Nhớ Rừng Soạn Bài Môn Ngữ Văn Lớp 8 Học Kỳ 2
Soạn bài lớp 8: Nhớ rừng Soạn bài môn Ngữ văn lớp 8 học kỳ 2
Soạn bài lớp 8: Nhớ rừng
Giáo án Ngữ văn lớp 8 bài Nhớ rừng Phân tích hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ
I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1. Tác giả
Thế Lữ (1907-1989), tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ, sinh tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Quê quán: làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là Tiên Sơn), tỉnh Bắc Ninh.
Thuở nhỏ, Thế Lữ học ở Hải Phòng. Năm 1929, học xong bậc Thành chung, ông vào học Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương, sau đó một năm (1930), ông bỏ học. Năm 1932, Thế Lữ bắt đầu tham gia Tự lực văn đoàn và là một trong những cây bút chủ lực của báo Phong hoá, Ngày nay. Năm 1937, ông bắt đầu hoạt động sân khấu, làm diễn viên, đạo diễn, lưu diễn tại các tỉnh miền Trung… và có hoài bão xây dựng nền sân khấu dân tộc. Cách mạng tháng Tám, ông hào hứng chào đón cách mạng, và lên Việt Bắc tham gia kháng chiến.
Tác giả đã xuất bản: Mấy vần thơ (thơ, 1935); Vàng và máu (truyện, 1934); Bên đường Thiên lôi (truyện, 1936); Lê Phong phóng viên (truyện, 1937); Mai Hương và Lê Phong (truyện, 1937); Đòn hẹn (truyện, 1939); Gói thuốc lá (truyện, 1940); Gió trăng ngàn (truyện, 1941); Trại Bồ Tùng Linh (truyện, 1941); Dương Quý Phi (truyện, 1942); Thoa (truyện, 1942); Truyện tình của anh Mai (truyện vừa, 1953); Tay đại bợm (truyện vừa, 1953). Ngoài ra Thế Lữ viết nhiều kịch bản: Cụ Đạo sư ông (kịch, 1946); Đoàn biệt động (1947); Đợi chờ (1949); Tin chiến thắng Nghĩa Lộ (1952); Thế Lữ cũng là dịch giả của nhiều vở kịch của Sếch-xpia, Gơ-tơ, Sin-le và Pô-gô-đin,…
2. Tác phẩm
Thế Lữ là một trong những nhà thơ hàng đầu của phong trào Thơ mới. Bài Nhớ rừng đã gắn liền với tên tuổi của ông. Nói đến Thế Lữ không thể không nói đến Nhớ rừng.
Sự xuất hiện của phong trào Thơ mới những năm đầu thế kỉ XX đã tạo ra sự bùng nổ mãnh liệt, một cuộc cách mạng thật sự trong địa hạt văn chương, nhất là thơ. Những thể thơ cũ (tiêu biểu từ thơ Đường luật) với khuôn khổ cứng nhắc, niêm luật gò bó đã không dung chứa nổi, không còn phù hợp với những tư tưởng, cảm xúc dào dạt, mới mẻ, lúc nào cũng chỉ chực tung phá. Đổi mới thể thơ, đổi mới hình thức câu thơ, các nhà thơ mới đồng thời đưa vào đó những dòng cảm xúc dạt dào, mạnh mẽ, tựa như những dòng nham thạnh bỏng đang tuôn chảy tràn trề. Nhớ rừng là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho trào lưu mới này.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Bài thơ được ngắt làm năm đoạn. Nội dung của đoạn thứ nhất và đoạn thứ tư nói lên niềm uất hận của con hổ khi bị làm một thứ đồ chơi ngang với lũ gấu dở hơi, và cảnh tầm thường, tù túng, nhân tạo ở vườn bách thú. Đoạn thứ hai và đoạn thứ ba hồi tưởng cảnh tượng tự do, phóng khoáng nơi rừng núi thời oanh liệt. Đoạn thứ năm là hoài niệm nơi rừng núi xưa kia bằng giấc mộng ngàn.
2. a) Cảnh tượng ở vườn bách thú là cảnh tù túng. Đoạn thơ thứ nhất thể hiện tâm trạng chán ngán, căm hờn, uất ức của con hổ. Tuy bị nhốt trong cũi sắt, tuy bị biến thành một thứ đồ chơi lạ mắt, bị xếp cùng với bọn gấu dở hơi, bọn báo vô tư lự, nhưng chúa sơn lâm vẫn khinh lũ người ngạo mạn, ngẩn ngơ. Nó căm hờn sự tù túng, nó khinh ghét những kẻ tầm thường. Nó vượt khỏi sự tù hãm bằng trí tưởng tượng, sống mãi trong tình thương nỗi nhớ rừng.
Đoạn thơ thứ tư thể hiện cảnh vườn bách thú dưới con mắt của con hổ, đó là cảnh tượng nhân tạo, tầm thường, giả dối, nhàm chán “không đời nào thay đổi”.
Cảnh vườn bách thú tầm thường, giả dối, không thay đổi và tù túng đó được con hổ nhìn nhận gợi nên không khí xã hội đương thời. Thái độ ngao ngán, chán ghét cao độ với cảnh vườn bách thú cũng là thái độ của nhiều người, nhất là thanh niên thời đó với xã hội.
Đối lập với cảnh vườn bách thú là cảnh rừng nơi con hổ ngự trị ngày xưa. Rừng núi đại ngàn, cái gì cũng lớn lao, cao cả, phi thường: bóng cả, cây già, gió gào ngàn, nguồn hét núi. Giữa nơi hoang vu, cao cả, âm u, chúa sơn lâm hiện ra đầy oai phong, lẫm liệt:
Với khi thét khúc trường ca dữ dộiTa bước chân lên, dõng dạc, đường hoàngTrong hang tối, mắt thần khi đã quắcLà khiến cho mọi vật đều im hơi Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàngTa bước chân lên, dõng dạc, đường hoàngNhững cảnh sửa sang, tầm thường giả dốiHoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồngDải nước đen giả suối, chẳng thông dòng Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàngVờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan … Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ,Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa,Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núiTa bước chân lên dõng dạc, đường hoàng,Ta biết ta chúa tể của muôn loài, Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc
Những câu thơ này đã diễn tả tinh tế vẻ đẹp vừa dũng mãnh, uy nghi, vừa mềm mại uyển chuyển của chúa sơn lâm.Những câu thơ của đoạn 3 đã miêu tả bốn cảnh đẹp của núi rừng và nổi bật trên cảnh vừa lộng lẫy, dữ dội, vừa hùng tráng, thơ mộng là hình ảnh con hổ chúa tể, như một vị đế vương đầy quyền uy, đầy tham vọng. Nó uống ánh trăng tan, nó nghe chim ca, nó ngắm giang san, nó muốn chiếm lấy bí mật của vũ trụ. Đúng là một thời oanh liệt, thời huy hoàng.
b) Việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu trong đoạn thơ thứ hai và thứ ba rất đặc biệt. Một loạt những từ chỉ sự cao cả, lớn lao, hoành tráng của núi rừng: bóng cả, cây già, gào, hét, thét. Trong khi đó, hình ảnh con hổ thì khoan thai, chậm rãi, được so sánh với sóng cuộn nhịp nhàng. Diễn tả sức mạnh tuyệt đối của con hổ không phải bằng tiếng hổ gầm, mà là ánh mắt dữ dội:
Sang khổ thơ sau, hàng loạt những điệp ngữ như nhắc đi nhắc lại một cung bậc nuối tiếc, hoài niệm: Nào đâu những, đâu những, đâu những, đâu những… Sau mỗi câu này là một câu hỏi. Và kết thúc là câu hỏi thứ năm, vừa hỏi, nhưng cũng như là khẳng định: thời oanh liệt nay chỉ còn trong quá khứ, trong hồi tưởng mà thôi. Những hình ảnh đêm trăng, mưa, nắng, hoàng hôn vừa đẹp lộng lẫy, vừa dữ dội đã góp phần dựng lại một thời oanh liệt của chúa sơn lâm khi còn tự do.
c) Làm nổi bật sự tương phản, đối lập gay gắt giữa cảnh tượng vườn bách thú, nơi cầm tù, nơi tầm thường, trì đọng với nơi đại ngàn tự do, phóng khoáng, hoành tráng, bí hiểm… nhà thơ đã thể hiện tâm trạng con hổ chán ngán, khinh ghét, căm thù cũi sắt, căm thù cảnh tầm thường, đơn điệu. Và luôn luôn hoài niệm, luôn hướng về thời oanh liệt ngày xưa. Tâm sự ấy là tâm trạng lãng mạn, thích những gì phi thường, phóng khoáng, đồng thời gần gũi với tâm trạng người dân mất nước khi đó. Họ cảm thấy “nhục nhằn tù hãm”, họ nhớ tiếc thời oanh liệt của cha ông với chiến công chống giặc ngoại xâm. Tâm sự của con hổ cũng chính là tâm sự của họ. Chính vì thế mà người ta say sưa đón nhận bài thơ.
3. Tác giả mượn lời con hổ ở vườn bách thú là rất thích hợp. Nhờ đó vừa thể hiện được thái độ chán ngán với thực tại tù túng, tầm thường, giả dối, vừa thể hiện được khát vọng tự do, khát vọng đạt tới sự cao cả, phi thường. Bản thân con hổ bị nhốt trong cũi là một biểu tượng của sự giam cầm, mất tự do, đồng thời thể hiện sự sa cơ, chiến bại, mang tâm sự u uất, không bao giờ thoả hiệp với thực tại. Một điều nữa, mượn lời con hổ, tác giả dễ dàng tránh được sự kiểm duyệt ngặt nghèo của thực dân khi đó. Dù sao, bài thơ vẫn khơi gợi lòng khao khát tự do và yêu nước thầm kín của những người đương thời.
4*. Nhà phê bình Hoài Thanh đã đã ca ngợi Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được. Điều này nói lên nghệ thuật sử dụng từ ngữ điêu luyện, đạt đến độ chính xác cao. Chỉ riêng về âm thanh rừng núi, Thế Lữ cho ta nghe thấy tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, tiếng thét khúc trường ca dữ dội. Bên trên đã nói đến những điệp từ tạo ra sự nuối tiếc quá khứ oanh liệt (Nào đâu, đâu những…) Cũng có thể thấy câu thơ Thế Lữ miêu tả dáng hiên ngang, hùng dũng, mềm mại của chúa sơn lâm:
Mấy câu thơ trên có sự nhịp nhàng, cân đối, gợi hình ảnh con hổ khoan thai, mềm mại, với bước chân chậm rãi thật tài tình.Hay một đoạn khác tả cảnh tầm thường của con người bắt chước, học đòi thiên nhiên:
Câu thơ: ” Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng” được viết theo cách ngắt nhịp đều nhau, có cấu tạo chủ vị giống nhau – điều đó như mô phỏng sự đơn điệu, tầm thường của cảnh vật.
Được sáng tác trong hoàn cảnh đất nước còn đang bị kẻ thù đô hộ, giày xéo, bản thân tác giả cũng không tránh khỏi thân phận của một người dân nô lệ nhưng Nhớ rừng không rơi vào giọng điệu uỷ mị, yếu đuối. Ngược lại, nó đã thể hiện một sức sống mạnh mẽ, tiềm ẩn, chỉ có ở những con người, những dân tộc không bao giờ biết cúi đầu, luôn khao khát hướng đến tự do.
III. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
Điều đặc biệt đáng chú ý trước hết trong bài thơ này là lời đề từ: “Lời con hổ ở vườn bách thú”. Lời đề từ này có tính định hướng cho việc thể hiện giọng đọc, nhằm thể hiện “lời” của con hổ – chúa tể sơn lâm từng oai linh gầm thét, nay bị nhốt trong “vườn bách thú” chật hẹp. Nghịch cảnh thật là trớ trêu.
Điều đáng chú ý thứ hai là: Thế Lữ đã mượn lời con hổ để thể hiện nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt. Phảng phất trong bài thơ có nỗi đau thầm kín của Thế Lữ và cũng là của những người thanh niên thuở ấy trước cảnh nước mất nhà tan.
Do đó, có thể:
Đọc bài thơ bằng giọng trầm, âm điệu tha thiết mạnh mẽ, thể hiện nỗi đau âm thầm, lòng kiêu hãnh và khát vọng tự do mãnh liệt của con hổ.
Đọc nhấn mạnh các từ ngữ:
Soạn Bài Lớp 8: Nhớ Rừng
Soạn bài môn Ngữ văn lớp 8 học kỳ 2
I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1. Tác giả
Thế Lữ (1907-1989), tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ, sinh tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Quê quán: làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là Tiên Sơn), tỉnh Bắc Ninh.
Thuở nhỏ, Thế Lữ học ở Hải Phòng. Năm 1929, học xong bậc Thành chung, ông vào học Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương, sau đó một năm (1930), ông bỏ học. Năm 1932, Thế Lữ bắt đầu tham gia Tự lực văn đoàn và là một trong những cây bút chủ lực của báo Phong hoá, Ngày nay. Năm 1937, ông bắt đầu hoạt động sân khấu, làm diễn viên, đạo diễn, lưu diễn tại các tỉnh miền Trung… và có hoài bão xây dựng nền sân khấu dân tộc. Cách mạng tháng Tám, ông hào hứng chào đón cách mạng, và lên Việt Bắc tham gia kháng chiến.
Tác giả đã xuất bản: Mấy vần thơ (thơ, 1935); Vàng và máu (truyện, 1934); Bên đường Thiên lôi (truyện, 1936); Lê Phong phóng viên (truyện, 1937); Mai Hương và Lê Phong (truyện, 1937); Đòn hẹn (truyện, 1939); Gói thuốc lá (truyện, 1940); Gió trăng ngàn (truyện, 1941); Trại Bồ Tùng Linh (truyện, 1941); Dương Quý Phi (truyện, 1942); Thoa (truyện, 1942); Truyện tình của anh Mai (truyện vừa, 1953); Tay đại bợm (truyện vừa, 1953). Ngoài ra Thế Lữ viết nhiều kịch bản: Cụ Đạo sư ông (kịch, 1946); Đoàn biệt động (1947); Đợi chờ (1949); Tin chiến thắng Nghĩa Lộ (1952); Thế Lữ cũng là dịch giả của nhiều vở kịch của Sếch-xpia, Gơ-tơ, Sin-le và Pô-gô-đin,…
2. Tác phẩm
Thế Lữ là một trong những nhà thơ hàng đầu của phong trào Thơ mới. Bài Nhớ rừng đã gắn liền với tên tuổi của ông. Nói đến Thế Lữ không thể không nói đến Nhớ rừng.
Sự xuất hiện của phong trào Thơ mới những năm đầu thế kỉ XX đã tạo ra sự bùng nổ mãnh liệt, một cuộc cách mạng thật sự trong địa hạt văn chương, nhất là thơ. Những thể thơ cũ (tiêu biểu từ thơ Đường luật) với khuôn khổ cứng nhắc, niêm luật gò bó đã không dung chứa nổi, không còn phù hợp với những tư tưởng, cảm xúc dào dạt, mới mẻ, lúc nào cũng chỉ chực tung phá. Đổi mới thể thơ, đổi mới hình thức câu thơ, các nhà thơ mới đồng thời đưa vào đó những dòng cảm xúc dạt dào, mạnh mẽ, tựa như những dòng nham thạnh bỏng đang tuôn chảy tràn trề. Nhớ rừng là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho trào lưu mới này.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Bài thơ được ngắt làm năm đoạn. Nội dung của đoạn thứ nhất và đoạn thứ tư nói lên niềm uất hận của con hổ khi bị làm một thứ đồ chơi ngang với lũ gấu dở hơi, và cảnh tầm thường, tù túng, nhân tạo ở vườn bách thú. Đoạn thứ hai và đoạn thứ ba hồi tưởng cảnh tượng tự do, phóng khoáng nơi rừng núi thời oanh liệt. Đoạn thứ năm là hoài niệm nơi rừng núi xưa kia bằng giấc mộng ngàn.
2. a) Cảnh tượng ở vườn bách thú là cảnh tù túng. Đoạn thơ thứ nhất thể hiện tâm trạng chán ngán, căm hờn, uất ức của con hổ. Tuy bị nhốt trong cũi sắt, tuy bị biến thành một thứ đồ chơi lạ mắt, bị xếp cùng với bọn gấu dở hơi, bọn báo vô tư lự, nhưng chúa sơn lâm vẫn khinh lũ người ngạo mạn, ngẩn ngơ. Nó căm hờn sự tù túng, nó khinh ghét những kẻ tầm thường. Nó vượt khỏi sự tù hãm bằng trí tưởng tượng, sống mãi trong tình thương nỗi nhớ rừng.
Đoạn thơ thứ tư thể hiện cảnh vườn bách thú dưới con mắt của con hổ, đó là cảnh tượng nhân tạo, tầm thường, giả dối, nhàm chán “không đời nào thay đổi”.
Cảnh vườn bách thú tầm thường, giả dối, không thay đổi và tù túng đó được con hổ nhìn nhận gợi nên không khí xã hội đương thời. Thái độ ngao ngán, chán ghét cao độ với cảnh vườn bách thú cũng là thái độ của nhiều người, nhất là thanh niên thời đó với xã hội.
Đối lập với cảnh vườn bách thú là cảnh rừng nơi con hổ ngự trị ngày xưa. Rừng núi đại ngàn, cái gì cũng lớn lao, cao cả, phi thường: bóng cả, cây già, gió gào ngàn, nguồn hét núi. Giữa nơi hoang vu, cao cả, âm u, chúa sơn lâm hiện ra đầy oai phong, lẫm liệt:
Với khi thét khúc trường ca dữ dội Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc
Những câu thơ này đã diễn tả tinh tế vẻ đẹp vừa dũng mãnh, uy nghi, vừa mềm mại uyển chuyển của chúa sơn lâm.Những câu thơ của đoạn 3 đã miêu tả bốn cảnh đẹp của núi rừng và nổi bật trên cảnh vừa lộng lẫy, dữ dội, vừa hùng tráng, thơ mộng là hình ảnh con hổ chúa tể, như một vị đế vương đầy quyền uy, đầy tham vọng. Nó uống ánh trăng tan, nó nghe chim ca, nó ngắm giang san, nó muốn chiếm lấy bí mật của vũ trụ. Đúng là một thời oanh liệt, thời huy hoàng.
b) Việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu trong đoạn thơ thứ hai và thứ ba rất đặc biệt. Một loạt những từ chỉ sự cao cả, lớn lao, hoành tráng của núi rừng: Bóng cả, cây già, gào, hét, thét. Trong khi đó, hình ảnh con hổ thì khoan thai, chậm rãi, được so sánh với sóng cuộn nhịp nhàng. Diễn tả sức mạnh tuyệt đối của con hổ không phải bằng tiếng hổ gầm, mà là ánh mắt dữ dội:
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc Là khiến cho mọi vật đều im hơi
Sang khổ thơ sau, hàng loạt những điệp ngữ như nhắc đi nhắc lại một cung bậc nuối tiếc, hoài niệm: Nào đâu những, đâu những, đâu những, đâu những… Sau mỗi câu này là một câu hỏi. Và kết thúc là câu hỏi thứ năm, vừa hỏi, nhưng cũng như là khẳng định: thời oanh liệt nay chỉ còn trong quá khứ, trong hồi tưởng mà thôi. Những hình ảnh đêm trăng, mưa, nắng, hoàng hôn vừa đẹp lộng lẫy, vừa dữ dội đã góp phần dựng lại một thời oanh liệt của chúa sơn lâm khi còn tự do.
c) Làm nổi bật sự tương phản, đối lập gay gắt giữa cảnh tượng vườn bách thú, nơi cầm tù, nơi tầm thường, trì đọng với nơi đại ngàn tự do, phóng khoáng, hoành tráng, bí hiểm… nhà thơ đã thể hiện tâm trạng con hổ chán ngán, khinh ghét, căm thù cũi sắt, căm thù cảnh tầm thường, đơn điệu. Và luôn luôn hoài niệm, luôn hướng về thời oanh liệt ngày xưa. Tâm sự ấy là tâm trạng lãng mạn, thích những gì phi thường, phóng khoáng, đồng thời gần gũi với tâm trạng người dân mất nước khi đó. Họ cảm thấy “nhục nhằn tù hãm”, họ nhớ tiếc thời oanh liệt của cha ông với chiến công chống giặc ngoại xâm. Tâm sự của con hổ cũng chính là tâm sự của họ. Chính vì thế mà người ta say sưa đón nhận bài thơ.
3. Tác giả mượn lời con hổ ở vườn bách thú là rất thích hợp. Nhờ đó vừa thể hiện được thái độ chán ngán với thực tại tù túng, tầm thường, giả dối, vừa thể hiện được khát vọng tự do, khát vọng đạt tới sự cao cả, phi thường. Bản thân con hổ bị nhốt trong cũi là một biểu tượng của sự giam cầm, mất tự do, đồng thời thể hiện sự sa cơ, chiến bại, mang tâm sự u uất, không bao giờ thoả hiệp với thực tại. Một điều nữa, mượn lời con hổ, tác giả dễ dàng tránh được sự kiểm duyệt ngặt nghèo của thực dân khi đó. Dù sao, bài thơ vẫn khơi gợi lòng khao khát tự do và yêu nước thầm kín của những người đương thời.
4*. Nhà phê bình Hoài Thanh đã đã ca ngợi Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được. Điều này nói lên nghệ thuật sử dụng từ ngữ điêu luyện, đạt đến độ chính xác cao. Chỉ riêng về âm thanh rừng núi, Thế Lữ cho ta nghe thấy tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, tiếng thét khúc trường ca dữ dội. Bên trên đã nói đến những điệp từ tạo ra sự nuối tiếc quá khứ oanh liệt (Nào đâu, đâu những…) Cũng có thể thấy câu thơ Thế Lữ miêu tả dáng hiên ngang, hùng dũng, mềm mại của chúa sơn lâm:
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc
Mấy câu thơ trên có sự nhịp nhàng, cân đối, gợi hình ảnh con hổ khoan thai, mềm mại, với bước chân chậm rãi thật tài tình.
Hay một đoạn khác tả cảnh tầm thường của con người bắt chước, học đòi thiên nhiên:
Những cảnh sửa sang, tầm thường giả dối Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Câu thơ: ” Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng” được viết theo cách ngắt nhịp đều nhau, có cấu tạo chủ vị giống nhau – điều đó như mô phỏng sự đơn điệu, tầm thường của cảnh vật.
Được sáng tác trong hoàn cảnh đất nước còn đang bị kẻ thù đô hộ, giày xéo, bản thân tác giả cũng không tránh khỏi thân phận của một người dân nô lệ nhưng Nhớ rừng không rơi vào giọng điệu uỷ mị, yếu đuối. Ngược lại, nó đã thể hiện một sức sống mạnh mẽ, tiềm ẩn, chỉ có ở những con người, những dân tộc không bao giờ biết cúi đầu, luôn khao khát hướng đến tự do.
III. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
Điều đặc biệt đáng chú ý trước hết trong bài thơ này là lời đề từ: “Lời con hổ ở vườn bách thú”. Lời đề từ này có tính định hướng cho việc thể hiện giọng đọc, nhằm thể hiện “lời” của con hổ – chúa tể sơn lâm từng oai linh gầm thét, nay bị nhốt trong “vườn bách thú” chật hẹp. Nghịch cảnh thật là trớ trêu.
Điều đáng chú ý thứ hai là: Thế Lữ đã mượn lời con hổ để thể hiện nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt. Phảng phất trong bài thơ có nỗi đau thầm kín của Thế Lữ và cũng là của những người thanh niên thuở ấy trước cảnh nước mất nhà tan.
Do đó, có thể:
Đọc bài thơ bằng giọng trầm, âm điệu tha thiết mạnh mẽ, thể hiện nỗi đau âm thầm, lòng kiêu hãnh và khát vọng tự do mãnh liệt của con hổ.
Đọc nhấn mạnh các từ ngữ:
✅ Cách Học Môn Xác Suất Thống Kê ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐️
Thực tế, những môn học như tài chính ngân hàng hay xác suất thống kê cũng đều là các môn học khô khan, khó nhằn và hóc búa. Dĩ nhiên là học môn gì cũng có mẹo, phương pháp để có thể nắm bắt nhanh kiến thức của nó (Chúng tôi không đề cập đến những người có thể hiểu nhanh). Nếu ngay từ ban đầu mà bạn hiểu thì chuyện sẽ trở nên đơn giản hơn rất nhiều.
Theo kinh nghiệm học xác xuất thống kê của các anh chị khóa học trước, để học được môn này, bạn cần phải học từ đầu thật tốt.
Không ít trường hợp các bạn sinh viên vì một lý do nào đó lại không học những bài học đầu tiên, các bạn chỉ học từ bài thứ ba, thứ tư hay thậm chí từ giữa kì học trở đi, điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình học tập cũng như kết quả môn học bởi những bài học đầu tiên rất quan trọng bởi đó là nền tảng, cơ sở để bạn học các bài tiếp theo một cách logic.
2. Học thuộc những khái niệm
Vâng, bạn đang đọc đúng không hề nhầm chút nào. Điều đầu tiên mà bạn cần nhớ chính là học thuộc những khái niệm. Mẹo bỏ túi của xác suất thống kê là ghi nhớ khái niệm, kiến thức nền cơ bản như giải tích tổ hợp, giới hạn, tích phân, hàm nhiều biến,… Để có được điều này, bạn nên cố gắng tìm các liên hệ giữa bài tập, bài học, công thức với thực tế để có thể nắm được kiến thức vững hơn và sâu hơn.
Phải hiểu được bản chất của công thức chứ không đơn giản chỉ là thuộc công thức. Ví dụ như trong phần ước lượng, sẽ tương đối khó khăn nếu như bạn muốn học thuộc 24 công thức, nhưng nếu bạn nhớ được quy tắc xây dựng ước lượng khoảng và phân phối sắc xuất của các thống kê mẫu thì việc học phần này của bạn sẽ tương đối dễ dàng.
3. Lựa chọn phương pháp học phù hợp
Mỗi người đều có một “phong cách học tập” đặc trưng hiệu quả nhất với mình.Hãy tìm ra phương pháp phù hợp nhất cho bạn và tận dụng tối đa cách học đó. Bạn sẽ được chủ động lựa chọn phương pháp học khi ở nhà, nhưng bạn cũng có thể đề xuất giáo viên điều chỉnh cách giảng bài đa dạng và phù hợp hơn với phong cách học của mỗi học sinh.
Ví dụ, bạn có thấy mình dễ nhớ các biểu đồ hay tranh ảnh không? Có thể bạn là người học qua thị giác và nên sử dụng nhiều tranh ảnh để học. Bạn có thể tự vẽ biểu đồ để ghi nhớ các phần trong bài nói.
Bạn thấy mình tiếp thu dễ dàng hơn khi vừa học vừa nghe nhạc khe khẽ, hoặc bạn không nhớ nội dung viết trên bảng nhưng có thể “nghe thấy” những điều thầy cô nói, như thể họ đang giảng bài trong phòng bạn. Điều này có nghĩa bạn là người học qua thính giác, tức là bạn học hiệu quả hơn với âm thanh. Bạn có thể thu âm bài giảng của thầy cô để nghe lại khi làm bài tập hay ôn tập.
Có thể trong một giờ học trên lớp, bạn muốn tập trung nhưng thực sự rất cần đứng dậy hoặc di chuyển. Bạn cũng có thể có thói quen đi lại trong phòng khi học. Điều đó thể hiện bạn là người học qua vận động – bạn tiếp thu tốt hơn khi cơ thể được hoạt động. Hãy thử chơi với một miếng đất nặn trong tay khi nghe giáo viên giảng bài.
4. Về nhà ôn lại bài trên lớp
Sau nhiều năm nghiên cứu, tiến sĩ Ebbinghaus đã công bố “Đường trí quên”. Theo đó thì kiến thức bạn vừa mới học và cảm tưởng như sẽ rất nhớ, thật ra sẽ quên đi mau chóng theo thời gian. Theo đó, ngay sau khi học một ngày thôi, là bạn đã quên 80% rồi, điều đó giải thích sau một tuần bạn sẽ chỉ còn nhớ mang máng, và lúc đó bài giở ra như mới!
Hầu hết mọi người thường học khi họ đã quên.. nên cứ quên hoài. Nếu hôm nay ở lớp học môn xác xuất thống kê mà về nhà tuần sau bạn mới xem lại, thì tất nhiên là học sẽ khó vào. Do đó, cách học giỏi là ngay khi về nhà, hãy thuộc lòng các bài của ngày hôm nay luôn.
Môn xác suất thống kê có một bí quyết để học tốt chính là việc đọc càng nhiều sách sẽ càng tốt cho bạn. Cách học môn xác suất thống kê này cũng rất hiệu quả vì khi bạn đọc nhiều sách tức là bạn đang cung cấp một lượng kiến thức phong phú đồng thời bổ sung những gì bạn còn đang thiếu sót hay không được học trên ghế nhà trường.
Những cuốn sách nâng cao kiến thức cho môn xác suất thống kê còn chứa đựng nhiều kinh nghiệm thực tế đúc rút lại rất bổ ích cho bạn trong quá trình học.
6. Liên hệ với thực tiễn cuộc sống
Lý thuyết xác suất và thống kê toán là môn học rất gần gũi với thực tế bởi nó chúng mang những vấn đề thực tế vào bài toán vì vậy để tránh mơ hồ, đạt kết quả cao trong môn học, bạn cần liên hệ thực tế hay ít nhất là tưởng tượng ra được hoàn cảnh thực tế mà bài toán đặt ra. Làm được điều này sẽ giúp bạn cảm thấy gần gũi với môn học và dễ tiếp thu hơn.
7. Ôn tập trước kì thi thật sớm
Một trong những cách hữu hiệu nhất để đạt thành tích cao trong các bài kiểm tra là ôn tập và chuẩn bị càng sớm càng tốt. Tuyệt đối không để tình trạng một ngày trước khi thi mới bắt đầu ôn tập. Bài thi càng khó thì bạn càng cần ôn luyện sớm, tốt nhất là 2 hoặc 3 tuần trước khi kiểm tra.
Hướng dẫn ôn thi môn Xác suất thống kê toán
Các dạng bài tập cần nắm vững cho bài kiểm tra kết thúc học phần Lý thuyết xác suất thống kê toán:
– Sử dụng công thức xác suất cổ điển, công thức cộng xác suất, công thức nhân xác suất và xác suất có điều kiện.
– Xác suất thực nghiệm.
2. Các luật phân phối xác suất: (Tính xác suất bằng luật phân phối)
– Phân phối nhị thức
– Phân phối Poisson
– Phân phối chuẩn
3. Bài toán ước lượng khoảng tin cậy
– ước lượng khoảng tin cậy cho trung bình tổng thể: Có 3 trường hợp:
+ Khi biết độ lệch chuẩn tổng thể
+ Khi không biết độ lệch chuẩn tổng thể, cỡ mẫu n <30, biến ngẫu nhiên có phân phối chuẩn
– ước lượng khoảng tin cậy cho tỷ lệ tổng thể
– Hai bài toán tìm kích thước mẫu tối thiểu cho bài toán ước lượng trung bình tổng thể và ước lượng cho tỷ lệ tổng thể.
4. Bài toán kiểm định giả thuyết thống kê
– Kiểm giả thuyết cho trung bình tổng thể: Có 2 trường hợp:
+ Khi đã biết độ lệch chuẩn tổng thể: Ta sử dụng kiểm định z
+ Khi chưa biết độ lệch chuẩn tổng thể: Ta sử dụng kiểm định t
– Kiểm định giả thuyết cho tỷ lệ tổng thể: Ta sử dụng kiểm định t.
5. Biết cách đọc kết quả từ phần mềm SPSS
Môn học Xác suất thống kê áp dụng vào thực tế như thế nào ?
Xác suất thống kê cho chúng ta thấy được qui luật của những cái ngẫu nhiên để rồi lượng hóa chúng. Trong nghiên cứu khoa học, ta dùng xác suất thống kê để kiểm định tính chính xác của mô hình, kiểm định độ tin cậy của thang đo… Trong kinh tế, xác suất thống kê giúp ta lựa chọn phương án sao cho lợi nhuận nhiều nhất với độ rủi ro ít nhất. Xác suất thống kê cũng có vai trò quan trọng trong việc lập mô hình phân tích và dự báo trong quá trình ra quyết định kinh doanh và các quá trình khác.
Để học tốt môn Xác suất thống kê ?
Trước hết các bạn phải chuẩn bị kiến thức nền thật vững như: giải tích tổ hợp, giới hạn, tích phân, hàm nhiều biến … Trong các môn Toán thì Xác suất thống kê khá gần gũi với thực tế, vì vậy các bạn cố gắng tìm các liên hệ giữa bài tập, bài học, công thức với thực tế để có thể nắm được kiến thức vững hơn và sâu hơn. Cố gắng hiểu bản chất các công thức được học chứ không nên học thuộc hết các công thức. Ví dụ, trong phần ước lượng khoảng có 24 công thức, để nhớ hết được hết các công thức này là một vấn đề khó khăn. Nhưng các bạn phải chú ý, chỉ cần nhớ 01 qui tắc chung khi xây dựng ước lượng khoảng và phân phối xác suất của các thống kê mẫu.
Nhiều bạn nghĩ môn học Xác suất thống kê rất mơ hồ nhưng thật ra khi tìm hiểu kỹ về nó rồi thì sẽ thấy chúng gần với thực tế bởi vì chúng mang những vấn đề thực tế vào bài toán vì vậy hãy cố gắng liên hệ thực tế hay ít nhất là tưởng tượng ra được hoàn cảnh thực tế mà bài toán đặt ra cho các bạn như vậy các bạn sẽ thấy nó dễ học bởi vì cái gì gần gũi với thực tế thì dễ tiếp thu hơn mà phải không nào?
Nhận thấy đa phần các bạn không phân biệt được khi nào dùng chỉnh hợp khi nàp dùng tổ hợp đúng không? Chúng tôi sẽ mách cho bạn 1 cách để nắm vững nhanh phần này: Bạn hãy đọc lại công thức xác suất thống kê sau đó tìm xem 1 bài mẫu có lời giải và sau khi xem xong cách giải thì tự hỏi vì sao người giải lại dùng chỉnh hợp mà không dùng tổ hợp và ngược lại.
1. Bài tập xác suất thống kê có lời giải 2. Bài tập xác suất 3. Đề thi xác suất thống kê có lời giải 4. Bộ đề thi và lời giải xác suất thống kê
Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Bài Nhớ Rừng, Ngữ Văn Lớp 8 (2021) ▶️ Wiki 1 Phút ◀️ trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!