Xu Hướng 5/2023 # Soạn Bài Mấy Ý Nghĩ Về Thơ, Trang 60 Sgk Ngữ Văn 12 # Top 8 View | Englishhouse.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # Soạn Bài Mấy Ý Nghĩ Về Thơ, Trang 60 Sgk Ngữ Văn 12 # Top 8 View

Bạn đang xem bài viết Soạn Bài Mấy Ý Nghĩ Về Thơ, Trang 60 Sgk Ngữ Văn 12 được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Để có sự chuẩn bị tốt nhất cho tác phẩm Mấy ý nghĩ về thơ của tác giả Nguyễn Đình Thi, các em cần Soạn bài Mấy ý nghĩ về thơ ở nhà cũng như tìm hiểu các ý nghĩa, thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm qua bài thơ bằng cách trả lời câu hỏi trang 60 SGK Ngữ Văn 12

SOẠN BÀI MẤY Ý NGHĨ VỀ THƠ (Trích)

Nguyễn Đình Thi

Việt Bắc là bài học nổi bật trong Tuần 8 của chương trình học theo SGK Ngữ Văn 12, học sinh cần Soạn bài Việt Bắc, đọc trước nội dung, trả lời câu hỏi trong SGK.

Anh (chị) hãy phân tích những giá trị lập luận và giá trị nội dung trong văn bản Mấy ý nghĩ về thơ của Nguyễn Đình Thi.Gợi ý làm bài

1) Nguyễn Đình Thi xác định: Thơ là gì?– Tham luận được mở đầu bằng cách nhà nghiên cứu đưa ra định nghĩa về thơ. Cách định nghĩa của Nguyễn Đình Thi rất đặc biệt. Ông bắt đầu từ chỗ xác định: Thơ khởi phát từ đâu?+ Thơ khởi phát từ tâm hồn. Một tâm hồn biết rung động trước cái đẹp, cái thiện, cái hữu ích… Như thế, sự rung động đó không phải đến từ ý thức chủ quan bên trong tâm hồn mà từ chính những yếu tố bên ngoài.+ Nhưng thật quan trọng là, nếu không có tâm hồn thơ thì những sự vật hiện tượng đó cũng chỉ vô hồn mà thôi: “Mưa phùn buổi chiều gợi những câu thơ nào nhớ nhung, nhưng chính nỗi nhớ nhung gặp buổi chiều mưa mà muốn thì thầm những câu thơ chưa thành hình rõ”.+ Thơ là sự kết tinh văn hoá ở mức độ cao. Theo ý trên của Nguyễn Đình Thi, con người ta rung động trước cảnh vật đã đành mà những nét văn hoá tàng trữ trong ta hễ có dịp cũng đòi lên tiếng.+ Thơ không chỉ là tiếng lòng của một cá thể biết xao xuyến trước ngoại giới mà còn là tiếng lòng trĩu nặng những ngân vang văn hoá đợi dịp cất lên tiếng nói, điệu hồn của một dân tộc..+ Điệu hồn đó được tải qua những lớp kí hiệu. Con chữ là kí hiệu đầu tiên của thơ hay cũng chính là của tâm hồn thơ. Không có chữ, hiểu theo nghĩa là ngôn ngữ, thì sẽ không có thơ. Chữ ấy là lời, lời chuyển tải mọi trạng thái tâm lí, cảm xúc của con người.– Quá trình chuyển tải giữa cảm xúc, lời và thơ cũng được Nguyễn Đình Thi khảo sát. Ông đưa ra hàng loạt định nghĩa:+ Làm thơ tức là chữ.+ Làm thơ là đang sống.– Từ chữ” và “sống” ấy, Nguyễn Đình Thi khẳng định tác dụng của hình tượng thơ. Rõ ràng, ngôn ngữ thơ chỉ có giá trị khi nó gợi lên hoặc tạo dựng được một hình tượng nào đó. Thơ nói với người đọc bằng hình tượng.– Nhờ thế, Nguyễn Đình Thi mới có cơ sở để lập luận: “Bài thơ là những câu, những lời diễn lên, làm sống ngay lên một tình cảm, một nỗi niềm trong lòng người đọc”.– Từ “làm thơ” (tức là thao tác), Nguyễn Đình Thi chuyển sang “bài thơ” (tức là sản phẩm). Thao tác là nhằm để “thể hiện một trạng thái tâm lí đang rung chuyển khác thường”. Còn “bài thơ là sợi dây truyền tình cảm cho người đọc”.– Với các lập luận trên, Nguyễn Đình Thi trở lại tiếp tục đưa ra thêm định nghĩa về thơ:+ Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm với cuộc sống.+ Thơ phải có tư tưởng, có ý thức.+ Thơ không nói bằng ý niệm thuần túy.+ Thơ là tổng hợp, kết tinh,…– Tất cả những khái quát trên đều là những đặc trưng cơ bản của thơ. Nguyễn Đình Thi không hề có tham vọng đưa ra một định nghĩa cuối cùng về thơ. Nhưng rõ ràng ông nắm rất sâu về bản chất thơ. Thơ nói bằng hình ảnh, bằng cảm xúc. Không có cảm xúc, không có thơ: “Tóe lên ở những nơi giao nhau của tâm hồn và ngoại vật, trước hết là những cảm xúc. Cảm xúc là phần thịt xương hơn cả của đời sống tâm hồn”.2) Thơ là chữ, cảm xúc, tư tưởng, hình ảnh…– Ở ngoài đời, Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đa tài, một con người khôn khéo, có cá tính mạnh mẽ. Cứ xem cái cách ông để cho một chàng trai trong kháng chiến ôm một cô gái là đủ thấy sự khôn khéo ấy như thế nào: “Anh ôm chặt em Và ôm cá khẩu súng trường bốn vai em” (Chia tay trong đêm Hà Nội),– Thơ ông và cả tiểu luận của ông cũng mang đậm cá tính sáng tạo ấy. Một mặt, ông có nói hết, cố diễn tả bằng hình ảnh sinh động bằng cách liên hệ so sánh, lấy dẫn chứng từ trong sách vở (Truyện Kiều) và cả ngoài đời (mỗi chữ như một ngọn nến đang cháy). Mặt khác, diễn từ của ông vẫn luôn kín đáo, có khả năng che giấu nhiều điều, đọc thấy hấp dẫn, nhưng không thể hiểu hết ngay được.– Nguyễn Đình Thi nhấn mạnh vai trò của “chữ” trong sáng tạo thơ. Chữ chuyển tải cảm xúc, tư tưởng, hình ảnh thơ. Chữ chuyển tải nhịp điệu, nhạc điệu cho thơ. Chữ không chỉ trình xuất ý niệm về sự vật hiện tượng mà quan trọng hơn, chữ tạo nên “sức gợi”. Nguyễn Đình Thị ví nó như ánh sáng ngọn nến: “ánh sáng không những ở đầu ngọn nến, nó ở tất cả xung quanh những ngọn nến. Ý thơ không những trong những chữ, nó vây bọc xung quanh”.– Phát hiện khả năng phản ánh vô biên của diễn từ thơ, Nguyễn Đình Thi còn khám phá được sức mạnh của thơ ở những khoảng lặng: “Ngay những khoảng lung linh giữa chữ, những khoảng im lặng cũng là nơi trú ngụ kín đáo của sự xúc động”. Đây là một phát hiện đáng ghi nhận. Điều này còn cho thấy cách lập luận chặt chẽ của Nguyễn Đình Thi, từ sức gợi của thơ, ông đề cập đến các khoảng lặng trong thơ. Để từ đó ông tiếp tục triển khai mạch lập luận tiếp nhận của mình.3) Con đường đi của thơ– Đề cập đến bất kì một đặc điểm nào của thơ, Nguyễn Đình Thi cũng chú ý đến sự tiếp nhận. Thành công lớn nhất của văn bản là ở mặt này.– Đa số những luận điểm Nguyễn Đình Thi đưa ra có thể không mới nhưng cách lập luận đan xen, thống nhất về cả ba phương diện: đặc trưng thơ – cách sáng tạo – cách tiếp nhận đã khiến thiên tiểu luận đạt đến tầm mẫu mực của lập luận nghị luận.– Chẳng hạn khi đề cập đến “chữ”, Nguyễn Đình Thi chỉ ra “chữ” có đời sống nội tại của nó (giá trị ý niệm), khi được vận dụng trong thơ “chữ” tạo nên một vầng nghĩa bao bọc xung quanh, vầng nghĩa này được hiểu, được khám phá khi có sự tiếp nhận của người đọc. Tương tự, tự tưởng, cảm xúc, hình ảnh thơ đều được tri nhận theo cách ấy.– Từ những lập luận trên, Nguyễn Đình Thi đi đến ba kết luận:+ Thơ là “tổng hợp, kết tinh”.+ Thơ “luôn luôn đòi hỏi sự toàn bích”.+ “Đường đi của thơ là con đường đưa thẳng vào tình cảm, không quanh co, qua những chặng, những trung gian, những cột cây số”.4) Thế nào là thơ tự do?– Vẫn dựa trên cách lập luận khôn khéo, gợi nhiều hơn nói rõ, Nguyễn Đình Thi cho rằng việc tranh luận về thơ có vần hay không vần không quan trọng, quan trọng là “để cho tìm tòi thử thách”.– Nguyễn Đình Thi chấp nhận quy luật đổi mới sáng tạo của thơ ca. Ông cho rằng luật lệ thơ, vần điệu,… là “vũ khí rất mạnh trong tay người làm thơ”. Thiếu vũ khí đó thì quả thật là gay go, “nhưng người làm thơ vẫn có thể thắng”.– Quả là một nhận định sáng suốt. Thực tiễn sáng tạo thơ ca đã kiểm nghiệm sự đúng đắn từ nhận định này. Ngày nay, thi đàn thơ ca Việt Nam hướng nhiều đến khả năng biểu lộ cảm xúc, hơn là đẽo gọt câu chữ, vần điệu.5) Thời đại mới cần một hình thức thơ mới– Nguyễn Đình Thi khẳng định: “một thời đại mới của nghệ thuật thường bao giờ cũng tạo ra một hình thức mới”. Bước đầu của hình thức mới ấy có thể còn chệch choạc ít nhiều nhưng qua thời gian, nó sẽ ổn định: “Thơ nảy nở trong những hình thức trong sáng đã tìm thấy”.– Điều này không có nghĩa là phủ nhận sạch trơn quá khứ, mà phal luôn có tính kế thừa. Sự sáng tạo nảy sinh trên sự kế thừa. Điều này không chỉ đúng đối với sáng tạo thơ ca mà còn đúng với mọi sáng tạo nghệ thuật nói chung.– Tuy nhiên, tối kị trong sáng tạo thơ là sự “buông thả, bừa bãi”. Thơ phải tuân theo một “kỉ luật sắt”. Kỉ luật ấy không thể áp đặt từ bên ngoài vào mà là “sự tự kiểm soát, tự chủ từ bên trong sự sáng tác mà ra”. Thơ ca có sức sống nội tại của nó._ Những luận điểm này khẳng định sự tự do, dân chủ của sang tạo và nghệ thuật. Bản thân chúng mang tính định hướng rất lớn.– Nguyễn Đình Thi tôn trọng: “luật lệ bản thân của nghệ thuật”. Ông xem đó là lẽ sống còn của sáng tạo thơ: “Đạp đổ bức tường giam trước mặt rồi, giới hạn chỉ còn do sức đi xa của mình”. Như thế, thơ có phát triển được hay không là do chính sức mạng nội tại của những người làm thơ.

Trong chương trình học Ngữ Văn 12 phần Soạn bài Thực hành một số biện pháp tu từ cú pháp là một nội dung quan trọng các em cần chú ý chuẩn bị trước.

Ngoài nội dung ở trên, các em có thể tìm hiểu thêm phần Nghị luận xã hội về ước mơ khát vọng nhằm chuẩn bị cho bài học này.

https://thuthuat.taimienphi.vn/soan-bai-may-y-nghi-ve-tho-38492n.aspx

Soạn Bài Mấy Ý Nghĩ Về Thơ

Nhà văn Nguyễn Đình Thi sinh năm 1924 và mất năm 2003. Quê gốc của ông ở Hà Nội, nhưng từ nhỏ cùng gia đình sinh sống tại Luông Pha-bang của Lào.

Đến năm 1931, Nguyễn Đình Thi theo gia đình về nước.

Năm 1941, nhà văn tham gia phong trào Việt Minh hoạt động cách mạng

Từ năm 1942, ông tham gia viết sách báo, đồng thời hoạt động tích cực trong phong trào học sinh, sinh viên chống phát xít, và là thành viên của Hội Văn hóa cứu quốc.

Năm 1945, Nguyễn Đình Thi trở thành đại biểu của Hội văn hóa cứu quốc tham dự Đại hội ở Tân Trào. Từ đây, ông cũng trở thành thành viên của Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam.

Từ sau Cách mạng, ông tiếp tục giữ nhiều trong trách của Hội văn học – nghệ thuật nước nhà

Từ năm 1958, Nguyễn Đình Thi trở thành Tổng thư kí hội nhà văn Việt Nam.

Ông được nhận giải thưởng về Văn học nghệ thuật trong đợt I của năm 1996.

Nguyễn Đình Thi được biết đến là con người đa tài, đặc biệt trong lĩnh vực nghệ thuật ông tỏ ra là người có năng khiếu và miệt mài lao động cống hiến. Từ viết văn, làm thơ, sáng tác nhạc, làm báo… ông đều thông tỏ và dù trong lĩnh vực nào, Nguyễn Đình Thi cũng được công chúng yêu mến.

Một số tác phẩm chính của Nguyễn Đình Thi cần kể đến như: Xung kích (tiểu thuyết, 1951), Vào lửa (tiểu thuyết, 1966), Người chiến sĩ (thơ, sáng tác 1956), Bài thơ hắc hải (1958), Dòng sông trong xanh (thơ, 1974)… Các tác phẩm kịch như Con nai đen (1961) và Hoa và Ngần (1975). Bên cạnh đó, Nguyễn Đình Thi còn nổi tiếng với các tập tiểu luận như Mấy vấn đề về văn học (1956) và Công việc của người viết tiểu thuyết (1964)….

Đôi nét về nhà văn Nguyễn Đình Thi

Thể loại: Tiểu luận

Hoàn cảnh ra đời: Tác phẩm được ra đời vào tháng 9 năm 1949 tại Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc. Sau đó, được đăng trên Văn nghệ số 10 trong năm 1949. Về sau, bài viết được đưa vào tập “Mấy vấn đề về văn học”. Khi soạn bài Mấy ý nghĩ về thơ, ta cần lưu ý đến hoàn cảnh ra đời tác phẩm để hiểu đúng nhất về nội dung.

Tiểu luận “Mấy ý nghĩ về thơ” đã cho thấy quan điểm đúng đắn, mới mẻ, có chiều sâu về thơ của Nguyễn Đình Thi. Bên cạnh đó là những đề xuất táo bạo của tác giả trong hoàn cảnh năm 1949 lúc bấy giờ.

Giới thiệu tác phẩm Mấy ý nghĩ về thơ

Bài tiểu luận Mấy ý nghĩ về thơ nêu lên những suy nghĩ, những quan điểm độc đáo và mới mẻ đồng thời là những đề xuất của tác giả Nguyễn Đình Thi về thơ. Nhà văn khẳng định thơ chính là tâm hồn, là tiếng nói tâm tình của con người. Tuy nhiên, đó phải là tâm hồn có chiều sâu của tư tưởng, và phải được biểu đạt qua hình ảnh, qua nhạc điệu, nhịp điệu và ngôn ngữ.

Đường đi của nghệ thuật nói chung, của thơ nói riêng là từ tình cảm, từ trái tim nhà thơ đến với bạn đọc. Thơ là sự cô đọng kết tinh, là sự tổng hợp tất cả những tinh túy trong ngôn ngữ. Nguyễn Đình Thi đã làm một phép đối sánh để làm bật lên sự nổi trổi của thơ: Nếu văn xuôi cho phép không mười phân hoàn hảo, thì thơ lại luôn đòi hỏi sự toàn bích.

Đối với thơ không vần, thơ tự do, Nguyễn Đình Thi đã bày tỏ quan điểm mới mẻ và đầy táo bạo như sau “không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần hay không vần, chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ …” Đây được xem như là sự phá cách trong suy nghĩ cũng như tư duy đối với thơ truyền thống, đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm đến chất lượng thơ của tác giả Nguyễn Đình Thi.

Một tác phẩm nghệ thuật dù xuất sắc và nổi bật đến đâu, để được yêu thích bởi đọc giả thì nó cần được phân tích và tìm hiểu cụ thể. Và tác phẩm này cũng không phải là ngoại lệ. Do vậy, việc phân tích và soạn bài Mấy ý nghĩ về thơ giúp người đọc hiểu được vẻ đẹp và giá trị của toàn tác phẩm

Bố cục Mấy ý nghĩ về thơ

Khi soạn bài Mấy ý nghĩ về thơ, chúng ta nhận thấy tác phẩm có thể chia làm bốn phần riêng biệt:

Phần 1 – Từ đầu đến “là thơ”: Nhà văn nêu ra những định nghĩa về thơ, đồng thời khẳng định không có một định nghĩa đầy đủ

Phần 2 – Tiếp theo đến “ngọn lửa”: Sự đồng cảm tự nhiên giữa nhà thơ và bạn đọc là sự rung động

Phần 3 – Tiếp theo đến “biết nhìn”: Vấn đề hình ảnh trong thơ cũng sự sự kì diệu của nó

Phần 4 – Tiếp theo đến “toàn bích”: Thơ tự do và thơ không vần

Phần 5 – Đoạn còn lại của tác phẩm: Thơ trong thời đại mới

Đặc trưng cơ bản của thơ là biểu hiện của tâm hồn con người

Câu hỏi tu từ đã ngầm khẳng định “đầu mối của thơ ca có lẽ ta đi tìm bên trong tâm hồn con người chăng?”. Như vậy, Nguyễn Đình Thi đã khẳng định rõ ràng để có những vần thơ giá trị thì phải xuất phát từ tâm hồn con người, phải có những rung động thơ, sau đó mới có thể làm thơ.

Thơ và con người cần có sự tác động và qua lại lẫn nhau. Làm thơ chính là cách để con người bộc lộ tình cảm, trạng thái và tâm lý.

Làm thơ giúp thể hiện sự rung động tâm hồn dù bằng lời hay những dấu hiệu thay lời nói.

Bên cạnh đó, một số đặc trưng khác của thơ ca được nhà văn đề cập đến mà chúng ta cần lưu ý khi soạn bài Mấy ý nghĩ về thơ:

Hình ảnh thơ: vốn là những hình ảnh thực bắt nguồn từ trong tâm hồn khi người ta sống trong một trạng thái hoặc hoàn cảnh nào đó.

Tư tưởng thơ: Trong thơ, tư tưởng cần phải gắn liền với cuộc sống đời thường.

Cảm xúc trong thơ: Thơ có giá trị phải có cái hồn, phải chứa đựng được cảm xúc và tư tưởng của tác giả. Tác giả Nguyễn Đình Thi khẳng định cảm xúc trong thơ gắn liền với tính chân thật và những hình ảnh từ cuộc sống

Cái thực trong thơ: Thể hiện cảm xúc và những gì chân thực trong suy nghĩ của người viết

Quan điểm của nhà văn về thơ tự do và thơ không vần

“Thơ tự do, thơ có vần và thơ không có vần, chỉ có vấn đề thơ thật và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ…” Đó là quan điểm độc đáo và khác biệt của Nguyễn Đình Thi. Đây cũng là những định hướng về cách hiểu thơ, vấn đề cốt lõi trong quan niệm về thơ của tác giả. Nhìn chung, khi soạn bài Mấy ý nghĩ về thơ, chúng ta thấy đây là một quan niệm tiến bộ và đúng đắn.

Sự khác biệt giữa ngôn ngữ thơ và các thể loại khác: Theo Nguyễn Đình Thi, ngôn ngữ trong thơ sẽ có nhiều khác biệt so với những thể loại văn học khác. Nhà văn cũng chỉ rõ, nếu ngôn ngữ kịch chủ yếu là đối thoại, ngôn ngữ truyện và kí chủ yếu là tự sự thì ngôn ngữ của thơ lại mang tính nhịp điệu. Điểm đặc biệt trong thơ ca chính là sự kết hợp tinh tế giữa hình ảnh, nhịp điệu và cảm xúc để tạo nên những sự ngân vang mãi trong lòng bạn đọc.

Nhận xét về nghệ thuật lập luận của nhà văn trong tác phẩm

Soạn bài Mấy ý nghĩ về thơ, chúng ta có thể thấy nghệ thuật lập luận của nhà văn có thể được tóm tắt như sau:

Phong cách chính luận kết hợp trữ tình và nghị luận.

Hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng, lập luận sắc sảo đanh thép chặt chẽ

Vận dụng linh hoạt các phương thức lập luận, phân tích, so sánh, bác bỏ…

Ngôn ngữ phong phú chọn lọc, từ ngữ đa dạng được vận dụng linh hoạt và đầy sáng tạo.

Tác phẩm của Nguyễn Đình Thi hướng đến những suy nghĩ mới mẻ và đầy tính gợi mở, chứ không bó buộc và khép kín trong một định nghĩa nhất định về thơ. Soạn bài Mấy ý nghĩ về thơ, người đọc sẽ nhận ra đây thực sự là một bài phát biểu giàu giá trị thể hiện quan điểm đúng đắn về thơ.

Phần đầu tác phẩm, Nguyễn Đình Thi đối thoại cùng bạn đọc về một số khái niệm và định nghĩa về thơ từng chi phối quan niệm và cách sáng tạo nên những tác phẩm của đại bộ phận các thi nhân đương thời. Sau đó, nhà văn đưa ra ba cách nhìn nhận về thơ.

Sang phần tiếp theo của bài luận, nhà văn đã miêu tả sinh động trạng thái tâm hồn con người khi có những rung động thơ, đồng thời cũng nhắc đến vai trò của bài thơ trong việc thể hiện và làm lan truyền sự rung động ấy. Theo Nguyễn Đình Thi, thơ có một khả năng tuyệt vời là bảo lưu sống động trạng thái tâm hồn của nhà thơ, thông qua việc thể hiện những “chữ”, những “lời”.

Tác giả khẳng định rõ nét “thơ không nói bằng ý niệm thuần túy” mà “thơ phải có tư tưởng và ý thức”. Con đường thơ ca mang lại có sức lay động tâm hồn, vì vậy nó cần phải có hình ảnh và giai điệu. Nhà văn sử dụng những hình ảnh cụ thể để diễn đạt tư tưởng của mình chính là “tia lửa” “bó sáng”. Soạn bài Mấy ý nghĩ về thơ, người đọc cần lưu ý đến cách thể hiện tư tưởng và suy nghĩa mà nhà văn Nguyễn Đình Thi đã sử dụng.

Nhắc đến “tiếng” và “chữ” trong thơ, nhà văn khẳng định nó không chỉ có giá trị “ý niệm”. Nguyễn Đình Thi đã có những hình ảnh rất đẹp và đầy đắt giá như “mỗi chữ như một ngọn nến đang cháy. Ánh sáng không những ở đầu ngọn nến mà nó còn ở tất cả những vùng xung quanh ngọn nến”. Do đó, ý thơ không chỉ dừng lại ở câu chữ, mà nó ở tất cả những gì được vây bọc xung quanh.

Bên cạnh đó, “nhịp điệu” chính là yếu tố quan trọng được nhà văn đề cập đến trong bài viết của mình. Do đó, soạn bài Mấy ý nghĩ về thơ, chúng ta không thể không nhắc đến vai trò và sức mạnh của nhịp điệu trong thơ.

Phần cuối của tác phẩm, Nguyễn Đình Thi bàn luận về thể thơ tự do và thơ không vần. Ở đây, nhà văn cho rằng một nền thơ không chỉ có một sự lựa chọn duy nhất đối với một hình thức thơ nào đó. Và dù được viết theo thể thơ nào đi chăng nữa, điều quan trọng miễn là thơ cần phản ánh đúng tâm hồn của con người mới ngày nay, thể hiện được tâm tư cũng như suy nghĩ của người viết.

Nguyễn Đình Thi cũng khẳng định, nghệ thuật có những kỉ luật và quy tắc riêng của nó, nhưng điều đó không có nghĩa là sự trói buộc hay là những lề lối sẵn mang tính lối mòn. Bỏ đi những luật lệ máy móc và giới hạn chỉ còn trong sức đi xa của mình. Đến đây khi soạn bài Mấy ý nghĩ về thơ, chúng ta nhận thấy quan điểm về nghệ thuật nói chung, về thơ ca nói riêng của Nguyễn Đình Thi đã đạt đến một bước tiến mới, riêng biệt và có sức độc đáo.

Mấy ý nghĩ về thơ là một bài viết điển hình cho phong cách nghệ thuật sáng tác cũng như tư tưởng và quan điểm của Nguyễn Đình Thi trong suốt quá trình hoạt động văn nghệ của mình. Tiếp cận với tác phẩm ta trân trọng những đột phá trong suy nghĩ của nhà văn, đồng thời cũng trân trọng những ý nghĩa sáng tạo này. Do đó, soạn bài Mấy ý nghĩ về thơ, chúng ta cần lưu tâm đến sự đổi mới trong quan điểm thơ của tác giả để từ đó nắm được giá trị của tác phẩm.

Theo chúng tôi

Kiến Thức Cơ Bản Bài Mấy Ý Nghĩ Về Thơ

Để học tốt môn Ngữ văn lớp 12, mời các em tham khảo bài tổng hợp những kiến thức cơ bản bài Mấy ý nghĩ về thơ – Nguyễn Đình Thi được tổng hợp bởi Đọc Tài Liệu:

Tóm tắt kiến thức bài Mấy ý nghĩ về thơ đầy đủ nhất

1. Tiểu dẫn

– Nhà văn Nguyễn Đình Thi sinh năm 1924 và mất năm 2003. Quê gốc của ông ở Hà Nội, nhưng từ nhỏ cùng gia đình sinh sống tại Luông Pha-bang của Lào.

Đến năm 1931, Nguyễn Đình Thi theo gia đình về nước.

Năm 1941, nhà văn tham gia phong trào Việt Minh hoạt động cách mạng

Từ năm 1942, ông tham gia viết sách báo, đồng thời hoạt động tích cực trong phong trào học sinh, sinh viên chống phát xít, và là thành viên của Hội Văn hóa cứu quốc.

Năm 1945, Nguyễn Đình Thi trở thành đại biểu của Hội văn hóa cứu quốc tham dự Đại hội ở Tân Trào. Từ đây, ông cũng trở thành thành viên của Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam.

Từ sau Cách mạng, ông tiếp tục giữ nhiều trong trách của Hội văn học – nghệ thuật nước nhà

Từ năm 1958, Nguyễn Đình Thi trở thành Tổng thư kí hội nhà văn Việt Nam. Ông được nhận giải thưởng về Văn học nghệ thuật trong đợt I của năm 1996.

Nguyễn Đình Thi được biết đến là con người đa tài, đặc biệt trong lĩnh vực nghệ thuật ông tỏ ra là người có năng khiếu và miệt mài lao động cống hiến. Từ viết văn, làm thơ, sáng tác nhạc, làm báo… ông đều thông tỏ và dù trong lĩnh vực nào, Nguyễn Đình Thi cũng được công chúng yêu mến.

– Một số tác phẩm chính của Nguyễn Đình Thi cần kể đến như: Xung kích (tiểu thuyết, 1951), Vào lửa (tiểu thuyết, 1966), Người chiến sĩ (thơ, sáng tác 1956), Bài thơ hắc hải(1958), Dòng sông trong xanh (thơ, 1974)… Các tác phẩm kịch như Con nai đen (1961) và Hoa và Ngần (1975). Bên cạnh đó, Nguyễn Đình Thi còn nổi tiếng với các tập tiểu luận như Mấy vấn đề về văn học (1956) và Công việc của người viết tiểu thuyết (1964)…

2. Văn bản

Bài tiểu luận nêu lên những quan niệm mới mẻ, có chiều sâu về thơ, trong đó có những suy nghĩ, đề xuất của tác giả có thể gọi là táo bạo trong hoàn cảnh năm 1949 lúc bấy giờ. Tác giả khẳng định thơ là tiếng nói tâm hồn của con người, nhưng tâm hồn đó phải có tư tưởng và được biểu hiện bằng hình ảnh, nhịp điệu, nhạc điệu và ngôn ngữ. Đường đi của thơ là con đường đi thẳng vào tình cảm, từ trái tim nhà thơ đến với trái tim người đọc.

Thơ là tổng hợp, kết tinh. Văn xuôi cho phép không mười phân hoàn hảo, nhưng thơ thì luôn luôn đòi hỏi sự toàn bích. Về thơ tự do, thơ không vần, tác giả có một quan niệm mới mẻ, táo bạo: “không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần và thơ không vần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ”. Đây là một sự phá cách đối với thơ truyền thống nhưng lại cho ta thấy sự quan tâm đến chất lượng thơ của Nguyễn Đình Thi.

1. Đọc văn bản 2. Tìm hiểu văn bản

– Thể loại: Tiểu luận

– Hoàn cảnh ra đời

+ Tác phẩm được ra đời vào tháng 9 năm 1949 tại Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc. Sau đó, được đăng trên Văn nghệ số 10 trong năm 1949. Về sau, bài viết được đưa vào tập “Mấy vấn đề về văn học”. Khi soạn bài Mấy ý nghĩ về thơ, ta cần lưu ý đến hoàn cảnh ra đời tác phẩm để hiểu đúng nhất về nội dung.

+ Tiểu luận ” Mấy ý nghĩ về thơ ” đã cho thấy quan điểm đúng đắn, mới mẻ, có chiều sâu về thơ của Nguyễn Đình Thi. Bên cạnh đó là những đề xuất táo bạo của tác giả trong hoàn cảnh năm 1949 lúc bấy giờ.

– Bố cục

Phần 1 – Từ đầu đến “là thơ”: Nhà văn nêu ra những định nghĩa về thơ, đồng thời khẳng định không có một định nghĩa đầy đủ

Phần 2 – Tiếp theo đến “ngọn lửa”: Sự đồng cảm tự nhiên giữa nhà thơ và bạn đọc là sự rung động

Phần 3 – Tiếp theo đến “biết nhìn”: Vấn đề hình ảnh trong thơ cũng sự sự kì diệu của nó

Phần 4 – Tiếp theo đến “toàn bích”: Thơ tự do và thơ không vần

Phần 5 – Đoạn còn lại của tác phẩm: Thơ trong thời đại mới

– Nội dung

+ Bài tiểu luận Mấy ý nghĩ về thơ nêu lên những suy nghĩ, những quan điểm độc đáo và mới mẻ đồng thời là những đề xuất của tác giả Nguyễn Đình Thi về thơ. Nhà văn khẳng định thơ chính là tâm hồn, là tiếng nói tâm tình của con người. Tuy nhiên, đó phải là tâm hồn có chiều sâu của tư tưởng, và phải được biểu đạt qua hình ảnh, qua nhạc điệu, nhịp điệu và ngôn ngữ.

+ Đường đi của nghệ thuật nói chung, của thơ nói riêng là từ tình cảm, từ trái tim nhà thơ đến với bạn đọc. Thơ là sự cô đọng kết tinh, là sự tổng hợp tất cả những tinh túy trong ngôn ngữ. Nguyễn Đình Thi đã làm một phép đối sánh để làm bật lên sự nổi trổi của thơ: Nếu văn xuôi cho phép không mười phân hoàn hảo, thì thơ lại luôn đòi hỏi sự toàn bích.

+ Đối với thơ không vần, thơ tự do, Nguyễn Đình Thi đã bày tỏ quan điểm mới mẻ và đầy táo bạo như sau “không có vấn đề thơ tự do, thơ có vần hay không vần, chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ và không thơ…”. Đây được xem như là sự phá cách trong suy nghĩ cũng như tư duy đối với thơ truyền thống, đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm đến chất lượng thơ của tác giả Nguyễn Đình Thi.

3. Đặc sắc nghệ thuật

– Bài nghị luận về quan niệm thơ được viết ra với những suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ, có ý nghĩa cách tân, in đậm bản lĩnh và những trải nghiệm về thơ của Nguyễn Đình Thi, lại được viết bằng một tư duy trong sáng, một lập luận chặt chẽ và một cách viết tài hoa.

– Thơ là một lĩnh vực khá trừu tượng, khó nắm bắt nhưng cách viết của tác giả lại dễ hiểu, cuốn hút người đọc vào vấn đề để cùng trao đổi, đối thoại. Văn lí luận của Nguyễn Đình Thi giàu hình ảnh, mang hơi thở của cuộc sống và nhiệt tình của người viết: đó là những yếu tố làm nên nét riêng và sức hấp dẫn của bài tiểu luận này.

Phong cách chính luận kết hợp trữ tình và nghị luận.

Hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng, lập luận sắc sảo đanh thép chặt chẽ

Vận dụng linh hoạt các phương thức lập luận, phân tích, so sánh, bác bỏ…

Ngôn ngữ phong phú chọn lọc, từ ngữ đa dạng được vận dụng linh hoạt và đầy sáng tạo.

Soạn Bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc Trang 60 Sgk Ngữ Văn 11

Soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 60 SGK Ngữ văn 11

1. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc.

SOẠN BÀI I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc.

Năm 1861, vào đêm 14-12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại. Bài văn tế tuy được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, song chính là những tình cảm chân thực của Đồ Chiểu dành cho những người đã xả thân vì nghĩa lớn.

2. Văn tế (ngày nay gọi là điếu văn) là thể văn thường dùng để đọc khi tế, cúng người chết, nó có hình thức tế – tưởng. Bài văn tế thường có các phần: Lung khởi (cảm tưởng khái quát về người chết); Thích thực (hồi tưởng công đức của người chết); Ai vãn (than tiếc người chết); Kết (nêu lên ý nghĩa và lời mời của người đứng tế đối với linh hồn người chết). Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có kết cấu đủ bốn phần như vậy.

3. Với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ – người nông dân nghĩa sĩ chống giặc, cứu nước. Đó là những con người vốn hiền lành chất phác chỉ quen với chuyện “ruộng trâu ở trong làng bộ” nhưng khi đất nước đứng trước nạn ngoại xâm họ đã dám đứng lên chống lại kẻ thù mạnh hơn họ rất nhiều.

II. RÈN KĨ NĂNG

1.Bố cục bài văn gồm bốn phần:

Lung khởi (Từ đầu đến tiếng vang như mõ) là cảm tưởng khái quát về cuộc đời những người sĩ Cần Giuộc.

Thích thực (Từ Nhớ linh xưa… đến tàu đồng súng nổ) làhồi tưởng cuộc đời và công đức của người nghĩa sĩ.

Ai vãn (Từ Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng đến cơn bóng xế dật dờ trước ngõ là lờithương tiếc người chết của tác giả và người thân của các nghĩa sĩ.

Kết (còn lại) là tình cảm xót thương của người đứng tế đối với linh hồn người chết.

3. Để khắc họa hình tượng người nông dân nghĩa sĩ, tác giả đã chú ý đến việc khắc họa hình thức bên ngoài, phẩm chất hiền lành chất phác mà anh dũng kiên cường, tinh thần tự giác đánh giặc, xả thân vì đất nước với nhiều biện pháp nghệ thuật như so sánh ( Ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ), đặc tả (Đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không…; Xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có), đối ngẫu (đối ý, đối thanh: chưa quen cung ngựa – chỉ biết ruộng trâu; nào đợi – chẳng thèm, đối hình ảnh: bữa thấy bòng bong – ngày xem ống khói). Người nghĩa sĩ trở thành hình tượng nghệ thuật trung tâm của tác phẩm.

Vẻ đẹp bên ngoài bình dị, đời thường: Ngoài cật một manh áo vải… Trong tay một ngọn tầm vông…

Vẻ đẹp bên trong là lòng dũng cảm, là tinh thần xả thân vì nghĩa. Họ vốn là những người dân hiền lành chất phác:

Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó. Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ. Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm; tập khiên tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

Nhưng khi đất nước đứng trước nạn xâm lăng, họ đã vùng đứng lên bằng một tinh thần quật khởi đáng tự hào với một lòng căm thù giặc sâu sắc: … ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ; … muốn tới ăn gan, … muốn ra cắn cổ… Họ đánh giặc bằng những thứ vũ khí đơn giản nhưng với một sức mạnh tinh thần vô cùng mạnh mẽ. Họ đã không thể chờ đợi những người có trách nhiệm. Nhà văn đã miêu tả tinh thần anh dũng của những người nghĩa sĩ bằng những hình ảnh:

Hỏa mai đánh bằng …. Kẻ đâm ngang, người chém ngược…

Để xây dựng hình tượng nghệ thuật về những người nghĩa sĩ, tác giả đã dùng hệ thống hình ảnh và ngôn ngữ bình dị, giàu cảm xúc, những từ ngữ giàu sức gợi. Hệ thống ngôn từ và hình ảnh đó đã góp phần làm cho hình tượng người nông dân nghĩa sĩ hiện lên với vẻ đẹp bình dị, gần gũi mà thiêng liêng cao quý.

4. Thái độ cảm phục và niềm xót thương vô hạn của tác giả đối với người nông dân nghĩa sĩ được tập trung thể hiện ở đoạn Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng… đến hết. Đặc biệt là các chi tiết, hình ảnh và giọng điệu lời văn giàu cảm xúc.

Những người nông dân vốn hiền lành chất phác, yêu cuộc sống bìh yên nơi thôn dã nhưng đã sẵn sàng đứng lên cầm giáo cầm mác để đánh đuổi xâm lăng. Họ đã chịu bao gian khổ anh dũng hi sinh, dù thất bại nhưng họ đã khẳng định tinh thần bất khuất kiên cường không cam tâm làm nô lệ của con người Việt Nam. Các chi tiết nổi bật: xác phàm vội bỏ, nào đợi gươm hùm treo mộ, tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta, sống làm chi theo quân tà đạo…, thà thác mà dặng câu địch khái…

Các hình ảnh ước lệ tượng trưng có ý nghĩa khái quát, thể hiện một cách trang trọng nỗi đau và sự mất mát của cả dân tộc trước sự hi sinh anh dũng của những nghĩa sĩ: sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng, chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ. Hình ảnh những người thân của người nghĩa sĩ đã tạo nên giá trị biểu cảm sâu sắc cho bài văn Đa u đớn bấy !… cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.

Một loạt các từ ngữ biểu cảm, hình thức đối ngẫu được sử dụng thể hiện nỗi xót thương của tác giả đồng thời làm nổi bật phẩm chất của người nghĩa sĩ: đoái – nhìn, chẳng phải – vốn không, thà thác – cũng vinh.

5. Chủ đề của bài văn tế là ca ngợi lòng yêu nước tinh thần quả cảm của những người nghĩa sĩ – nông dân Cần Giuộc, từ đó khẳng định lòng yêu nước, tinh thần sẵn sàng xả thân vì nghĩa của con người Việt Nam, đồng thời thể hiện tấm lòng tác giả đối với những con người ấy. Tấm lòng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu cũng ngời sáng như tấm gương những người nghĩa sĩ.

Với hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ – người nông dân nghĩa sĩ chống giặc, cứu nước. Nguyễn Đình Chiểu đã đóng góp cho văn học Việt Nam một bài văn tế hay, xúc động nhất về tinh thần yêu nước chống ngoại xâm.

III. LUYỆN TẬP Bài làm

Để làm sáng tỏ ý kiến của Giáo sư Trần Văn Giàu: “Cái sống được cha ông ta quan niệm là không thể tách rời với hai chữ nhục, vinh. Mà nhục hay vinh là sự đánh giá theo thái độ chính trị đối với cuộc xâm lược của Tây: đánh Tây là vinh, theo Tây là nhục”, có thể dẫn ra và phân tích các câu văn như:

– Sống làm chi theo quán tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chỉ ỏ lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.

– Thà thác mà dặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ. – Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng dinh miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ. IV. TƯ LIỆU THAM KHẢO

“Khi giặc mới đánh vào Bến Nghé, Nguyễn Đình Chiểu có lời kêu gọi:

Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng, Nỡ để dân đen mắc nạn này!

(Chạy giặc)

Nhưng rồi chính những người “dân đen” đã tự mình vùng dậy và họ lại là những người đầu tiên được Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi trong một bài văn hay vào bậc nhất trong văn học Việt Nam, bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam chúng ta được nghe một lời ca như vậy, một lời ca chan chứa tình anh em ruột thịt và lòng kính phục vô biên đối với những người nông dân nghèo khổ. Ngay đến mấy mươi năm về sau cũng chưa có được một lời ca nào như thế:

Nhớ linh xưa; Côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó…

Bao nhiêu yêu thương trong một chữ côi cút. Những con người hiền lành và có gì như tội nghiệp ấy, Nguyễn Đình Chiểu đã nói lên rất đúng tấm lòng yêu nước của họ, một tấm lòng yêu nước với những sắc thái riêng, rất cụ thể, rất sâu sắc, một sự gắn bó có thể nói là máu thịt với từng tấc đất ngọn rau, từng vùa hương, bát nước. Một khi giặc động đến là những con người rất hiền lành ấy bỗng thay đổi hẳn. Họ sẵn sàng xông tới ăn gan, cắn cổ. Và mặc dầu chẳng ai đòi ai bắt, mặc dầu không biết võ nghệ, không đọc binh thư, trang bị lại hết sức sơ sài:

Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nào sắm dao tu, nón gõ.

Họ đã lăn xả vào đồn địch, bất chấp các thứ súng đạn và đã chiến đấu anh dũng tuyệt vời:

Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục… … trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ!

Chiến đấu trong khi sống và có thể chiến đấu cả sau khi chết: “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia…”. Nhiều người Pháp viết về các trận đánh hồi bấy giờ cũng thừa nhận nghĩa quân của ta can đảm phi thường, nhưng họ lại cho là một thứ can đảm mù quáng.

Nhưng Nguyễn Đình Chiểu không nghĩ như thế. Ông nhận thấy:

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

Rõ ràng không phải hy sinh vô ích.”

Hoài Thanh

( Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn, một

tấm gương chói ngời tinh thần bất khuất,

Mấy vấn đề về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, Sđd, tr.32-34)

“Ngoài việc góp phần mưu lược với Trương Định, Đồ Chiểu còn sáng tác văn thơ có tác dụng tuyên truyền. Tác phẩm đầu tiên cũng là một kiệt tác: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Ngoài loại truyền miệng của nhiều cố lão kể lại, mấy bằng chứng rõ rệt, bài văn đã lan ra tận Huế. Người công giáo cộng tác với Pháp như Huỳnh Tinh Của, Trương Vĩnh Kí cũng phải chép lại bài văn. Của in văn tế trong quyển Quốc âm thi tập. Kí chép trong Trương Vĩnh Kí di chỉ, đã nói lên sự phổ biến bài văn rất sâu rộng trong nhân dân, và có những tác dụng tuyên truyền động viên quần chúng căm thù giặc, làm nghĩa vụ giết giặc, đuổi giặc ra khỏi đất nước. Những câu: “… mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm… Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm, manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó “, gợi cảnh nước mất, nhà tan, khơi căm thù quân địch cướp tấc đất, ngọn rau, bát cơm, manh áo, nguồn sống của nhân dân. Phải sống chết với quân giặc cướp: giết giặc mới còn nguồn sống, mới sống được. Vì lẽ sống mà “Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình”, người nông dân tự nguyện, hăng hái, liều mình giết giặc: “Chi nhọc quan quản gióng trống trì, trống giục, đạp rào, lướt tới coi giặc cũng như không”. Giặc Tây dù có tàu, có súng nhưng bất cứ dân ấp, dân lân miễn là mến nghĩa “làm quân chiêu mộ” quyết tâm giết giặc thì “mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn”, “nào đợi mang bao tấu, bao ngòi”, cũng giết được giặc dễ dàng:

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

Lời văn rất hiện thực, nêu lên sự thực rõ ràng những kinh nghiệm sống: nghĩa quân đã tự nguyện tòng ngũ, đã say đánh giặc, đã đốt được nhà dạy đạo, giết được thằng quan hai, có tác dụng tuyên truyền rằng bất cứ ai cúng đánh Tây được, không khó khăn gì. Mà cũng dựa vào sự thực, tuần phủ Đỗ Quang quyết định cho thống quân Bùi Quang Diệu (người cộng tác với Trương đánh trận ở Cần Giuộc) làm lễ truy điệu, đồng thời gửi sớ về triều đình xin lệ tập ấm cho gia đình nghĩa sĩ tử trận. Tác giả đề cao vinh cực của người chết vì nước, nhằm tuyên truyền rằng con người ai cũng chết, nhưng chết như người nghĩa sĩ thì “danh nổi như phao, tiếng vang như mõ”. Câu sau đây rất có tác dụng tuyên truyền cổ võ tinh thần hi sinh giết giặc, vừa đúng sự thực, vừa thích ứng hệ thống tình cảm của người nông dân như tục ngữ đã ví: “Hùm chết để da, người ta chết để tiếng”.

Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ. Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.

Một số vần thơ khác điếu nghĩa sĩ, liệt sĩ cũng góp phần vào việc tuyên truyền kháng Pháp. Những câu trong Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh bổ sung thêm những lời trong các bài hịch, khơi sâu thêm mối căm thù địch đã giết hại đồng bào:

Từ thuở Tây qua cướp đất, xưng tân trào gây nợ oán cừu. Phạt cho đến người hèn kẻ khó, thâu của quay treo, Tội chẳng tha con nít đàn bà, đốt nhà bắt vật. Kể mười mấy năm trời khốn khó, bị khảo, bị tù, bị đày, bị giết, trẻ già nghe nào xiết đếm tên. Khá thương thay! Dân sa nước lửa bầy chầy, giặc ép mỡ dầu hết sức. chúng tôi

Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Bài Mấy Ý Nghĩ Về Thơ, Trang 60 Sgk Ngữ Văn 12 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!