Bạn đang xem bài viết Soạn Bài: Kiều Ở Lầu Ngưng Bích – Ngữ Văn 9 Tập 1 được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
I. Tác giả, tác phẩm
1. Tác giả: Nguyễn Du
2. Tác phẩm
* Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
* Bố cục: Văn bản có thể chia làm 3 phần:
6 câu đầu: Khung cảnh bi kịch của nội tâm
8 câu tiếp: Nỗi nhớ người thân
8 câu cuối : Tâm trạng buồn lo của Kiều.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:
a) Đặc điểm của không gian trước lầu Ngưng Bích: không gian rộng lớn mênh mông, hoang vắng, cô đơn, bốn bề bao la bát ngát, cồn cát nằm im lìm, dãy núi nhấp nhô, ánh trăng làm bạn.
b) Thời gian qua cảm nhận của Thúy Kiều là từ sáng sớm đến đêm khuya, thời gian cứ quay vòng từ ngày này sang ngày khác.
c) Qua khung cảnh thiên nhiên, có thể thấy Thúy Kiều đang ở trong tâm trạng cô đơn, tội nghiệp, mất tự do nơi hữu tình thơ mộng và hoang vắng.
Câu 2:
Tám câu thơ tiếp theo trực tiếp nói lên nỗi nhớ thương của Kiều.
a) Trong cảnh ngộ của mình, nàng đã nhớ tới Kim Trọng, sau đó nhớ về cha mẹ. Như vậy là hợp lí, bởi với cha mẹ, nàng đã gặp trước lúc đi xa, vì đã bán thân chuộc cha nên cũng đỡ lo hơn. Còn đối với Kim Trọng, người nàng thương, trong khi chàng chưa biết tin gì về gia đình Kiều. Đặc biệt, nàng day dứt, đau đớn, cảm thấy tội lỗi khi không giữ được lời thề nguyền với Kim Trọng.
b) Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau với những lí do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau. Nghệ thuật dùng từ ngữ, hình ảnh: nhiều hình ảnh ước lệ như: chén đồng, tin sương, tấm son, quạt nồng ấp lạnh, sân lai, gốc tử,… Và việc dùng từ ngữ đã góp phần thể hiện tâm trạng đau đớn, day dứt với Kim Trọng cũng như thể hiện nỗi xót xa, lo lắng cho cha mẹ ở quê nhà.
c) Qua nỗi nhớ thương của Thúy Kiều, em thấy Kiều là một người con hiếu thảo với cha mẹ, một người tình chung thủy. Kiều luôn biết nghĩ cho người khác mặc dù mình cũng đang trong cảnh cô đơn, mất tự do.
Câu 3:
Tám câu thơ cuối miêu tả cảnh vật qua tâm trạng.
a) Cảnh vật ở đây là hư, đây là thể hiện tâm trạng chứ không phải tả cảnh thực.
Mỗi cảnh vật đều có nét riêng, đồng thời lại có nét chung để diễn tả tâm trạng Kiều:
Cánh buồm nhỏ xa xăm, vô định giống như thân phận của Kiều, cuộc đời mất tự do, mất phương hướng.
Hình ảnh cánh hoa bị vùi dập cũng giống như số kiếp bi đát của Kiều.
Nội cỏ rầu rầu một màu đơn điệu như màu sắc cuộc đời của nàng, cũng rất tẻ nhạt, vô vị.
Gió cuốn, sóng ầm ầm cũng chính là những sóng gió ập đến trong cuộc đời mà Kiều phải trải qua.
b) Cách dùng điệp ngữ trong 8 câu thơ cuối:
Điệp ngữ “Buồn trông” được lặp lại tới 4 lần và đều nằm ở vị trí đầu những câu lục và càng tạo âm hưởng trầm buồn cho câu thơ. Nó giống như những đợt sóng lòng trùng điệp, càng khiến cho nỗi buồn dằng dặc và mênh mông. Kết hợp với đó là cái nhìn từ xa đến gần, càng thu vào trong tâm tư của Kiều nỗi cô đơn, tâm trạng sầu nhớ cùng với nỗi lo sợ về tương lai phía trước.
4
/
5
(
22
bình chọn
)
Soạn Bài Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Ngữ Văn 9 Tóm Tắt
– Trong sáu câu thơ đầu, khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích với không gian, thời gian được nhìn qua góc nhìn của Thúy Kiều:
– Hoàn cảnh: Bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, cô đơn tội nghiệp
– Cảnh vật trước lầu Ngưng Bích mênh mông, rộng lớn, tô đậm tình cảnh cô đơn, trơ trọi của Kiều: non xa, trăng gần, bốn bề bát ngát xa trông, non xa, trăng gần.
– Bao quanh Kiều là không gian, thời gian tuần hoàn đến nhàm chán càng nhấn đậm tình cảnh cô đơn, buồn tủi của Kiều.
– Hoàn cảnh, kết hợp với cảnh vật khiến tâm trạng của Kiều chứa đầy uất ức, hờn tủi trước sự bế tắc không cách nào thoát ra được.
– Tám câu thơ tiếp là nỗi thương nhớ của Kiều về người yêu và gia đình.
Trình tự nỗi nhớ phù hợp với diễn biến tâm trạng của nhân vật, Kiều nhớ người yêu trước rồi nhớ tới cha mẹ.
– Trình tự nỗi nhớ hợp lý bởi vì Kiều đã hi sinh vì gia đình, vì cha mẹ. Khi Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ tới Kim Trọng bởi Kim Trọng không hề biết Kiều phải bán mình chuộc cha, Kim Trọng sẽ ngày đêm uổng công thương nhớ Kiều
– Tác giả sử dụng hình ảnh có tính biểu trưng:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”.
– “Chén đồng” hình ảnh gợi nhắc về đêm trăng thề nguyền giữa Kim Kiều. Nhưng giờ đây mỗi người một phương:
+ Kiều tưởng tượng Kim Trọng ngóng trông nàng mỏi mòn.
+ “Tấm son” tấm lòng son sắt của Kiều vẫn hướng về Kim Trọng
– Nỗi nhớ về gia đình: Sử dụng các điển tích “Sân Lai”, “Quạt nồng ấp lạnh” để nói về nỗi nhớ của Thúy Kiều về gia đình:
+ Kiều lo cha mẹ già không có ai chăm sóc khi ở nhà.
+ Kiều là người con có hiếu, biết yêu thương, quan tâm tới cha mẹ.
Cảnh vật ở đây là cảnh tưởng tượng của Kiều vì qua mỗi cảnh vật. Mỗi bức tranh thiên nhiên là một kiểu tâm trạng của Thúy Kiều:
– Nỗi nhớ cha mẹ, quê hương, Kiều trông ngóng theo “cánh buồm xa xa” buổi chiều hôm.
– Kiều nhớ người yêu, xót xa cho tình duyên lỡ dở “hoa trôi man mác biết là về đâu”.
– Kiều đau đớn buồn tủi cho thân phận mình, khi rơi vào cuộc sống bế tắc “ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.
– Cụm từ “buồn trông” lặp lại bốn lần trong tám câu thơ những đợt sóng lòng trùng điệp, càng khiến nỗi buồn dài dằng dặc, mênh mông, kết hợp với cái nhìn từ xa tới gần.
– Tác giả diễn đạt sâu sắc nội tâm nhân vật Kiều khi rơi vào cảnh bế tắc, không có lối thoát cho bản thân.
– Sóng gió nổi lên như sự báo về những đau khổ sẽ ập tới cuộc đời Kiều.
– Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là biện pháp nghệ thuật mượn cảnh vật để nói lên tâm trạng của nhân vật. Qua đó gửi gắm tâm tư, tình cảm của nhân vật hay tình cảm của chính tác giả.
– Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong tám câu thơ cuối:
+ Cánh buồm nhỏ xa xăm vô định thể hiện cho chính cuộc đời Thúy Kiều đang chìm nổ giữa dòng đời.
+ Cánh hoa bị vùi dập hay nói về số kiếp trôi nổi của nàng, không thể định đoạt được, nàng mặc kệ cho cuộc đời.
+ Nội cỏ rầu rầu một màu đơn điệu như màu sắc cuộc đời tẻ nhạt mà nàng đang chịu đựng.
+ Gió cuốn, sóng ầm ầm chính là dông tổ cuộc đời, tiếng lòng của chính nàng đang kêu cứu, đang sợ hãi trước những tai họa, hiểm nguy có thể tới bất cứ lúc nào.
Soạn Bài: Kiều Ở Lầu Ngưng Bích
Hướng dẫn soạn văn, soạn bài, học tốt bài
1. Trong sáu câu thơ đầu, khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích với không gian, thời gian được nhìn qua con mắt của nhân vật, bộc lộ hoàn cảnh tâm trạng cô đơn, tội nghiệp của Thuý Kiều:
– Vẻ mênh mông, chống chếnh của không gian tô đậm tình cảnh cô đơn, trơ trọi của Kiều: non xa, trăng gần, bốn bề bát ngát, xa trông, non xa, trăng gần… Đúng là: Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
– Hình ảnh trăng, mây sớm đèn khuya biểu đạt sự quay vòng của thời gian. Cùng với những hình ảnh gợi tả không gian, sự tuần hoàn đều đặn của thời gian càng nhấn đậm thêm tình cảnh cô đơn, buồn bã của Kiều.
2. Nỗi nhớ thương của Kiều được diễn tả sâu sắc trong tám câu thơ tiếp theo:
– Kiều nhớ tới Kim Trọng, tưởng tượng ra cảnh chàng Kim cũng đang nhớ về mình, mong ngóng mà vẫn bặt tin ( Tưởng người dưới nguyệt chén đồng – Tin sương luống những rày trông mai chờ); tâm trạng Kiều đau đớn, xót xa, tủi phận: Bên trời góc bể bơ vơ – Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
– Kiều nhớ đến cha mẹ, thương cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng tin con ( Xót người tựa cửa hôm mai), ngậm ngùi vì tuổi già trước sự khắc nghiệt của thời gian ( Sân Lai cách mấy nắng mưa – Có khi gốc tử đã vừa người ôm), day dứt vì mình không được ở bên để báo đáp công ơn sinh thành ( Quạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ).
Nguyễn Du để Kiều nhớ tới Kim Trọng trước là hoàn toàn phù hợp với diễn biến tâm lí của nhân vật trong cảnh ngộ cụ thể, đảm bảo tính chân thực cho hình tượng. Trong tình cảnh bị Mã Giám Sinh làm nhục, lại ép tiếp khách làng chơi nên hiện trạng tâm lí Kiều là nỗi đau đớn về “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, là nỗi buồn nhớ người yêu, nuối tiếc mối tình đầu đẹp đẽ. Kiều đã hi sinh thân mình vì đạo hiếu, khi lâm vào tình cảnh đáng thương, nàng lại một lòng nhớ đến Kim Trọng, nhớ thương cha mẹ, quên cả cảnh ngộ của mình. Trong đoạn trích này, Kiều hiện ra với đức vị tha cao đẹp.
3. Ở tám câu thơ cuối đoạn trích, Nguyễn Du đã cho thấy một bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Cảnh vật được miêu tả qua tâm trạng, tâm trạng nhuốm lên cảnh vật, cảnh vật thể hiện tâm trạng:
– Sắc thái của bức tranh thiên nhiên thể hiện từng trạng thái tình cảm của Thuý Kiều:
+ Nhớ thương cha mẹ, quê hương, cảnh vật là:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
+ Nhớ người yêu, xót xa cho tình duyên lỡ dở, thì cảnh là:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
+ Buồn tủi, đau đớn cho thân mình, thì cảnh là:
Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh,
Như vậy, từng chi tiết, hình ảnh khung cảnh thiên nhiên đều mang đậm trạng thái tình cảm của Thuý Kiều. Mỗi cảnh là mỗi tình, song tất cả đều buồn thương, đúng là: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
– Cụm từ Buồn trônglặp lại bốn lần trong tám câu thơ như những đợt sóng lòng trùng điệp, càng khiến nỗi buồn dằng dặc, mênh mông, kết hợp với cái nhìn từ xa đến gần, thu hẹp dần vào nội cảm con người để đến cuối đoạn thì tâm trạng cô đơn, sầu nhớ, cảm giác đau đớn trào lên. Sóng gió nổi lên như sự báo về những đau khổ ê chề rồi đây sẽ xảy ra đối với Kiều, là dự cảm cho một đoạn đời “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.”.
1. Đây là đoạn trích miêu tả cảnh Thuý Kiều ở lầu Ngưng Bích. Cảnh vật tuy đẹp nhưng lòng người vô cùng sầu não đã khiến cho cảnh vật cũng trở nên não nề.
Qua đoạn trích này, chúng ta sẽ hiểu thêm nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du, nhất là quan niệm của ông về mối quan hệ giữa cảnh và tình (“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”).
2. Khi đọc, chú ý nhấn giọng ở tám câu cuối, thể hiện tâm trạng rối bời, tuyệt vọng của Thý Kiều trong hoàn cảnh éo le.
Soạn Bài Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Trang 93 Sgk Văn 9
+ Nàng trơ trọi giữa không gian, thời gian, mênh mông, hoang vắng. Câu thơ sáu chữ, chữ nào cũng gợi lên sự rợn ngợp của không gian: “Bốn bề bát ngát xa trông”. Cảnh “non xa”, “trăng gần” như gợi lên hình ảnh lầu Ngưng Bích cao ngất nghểu, trơ trọi giữa mênh mông trời nước. Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu trơ trọi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một bóng người, không sự giao lưu giữa người với người.
+ Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Thời gian cũng như không gian giam hãm con người. Sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều “thui thủi quê người một thân”. Nàng chỉ còn biết làm bạn với mây đèn. Nàng rơi vào hoàn cảnh cô đơn tuyệt đôi.
2. Tám câu thơ tiếp theo trực tiếp nói lên tâm trạng của Kiều
a) Đầu tiên Kiều nhớ tới Kim Trọng. Điều này phù hợp với quy luật tâm lí, vừa thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ người tình là nhớ đến tình yêu nên bao giờ Kiều cũng nhớ tới lời thề đôi lứa: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Một lần khác, nàng nhớ về Kim Trọng cũng là “Nhớ lời nguyện ước ba sinh”. Nàng tưởng tượng cảnh Kim Trọng cũng đang hướng về mình, đêm ngày đau đáu chờ tin mà uổng công vô ích: “Tin sương luống những rày mong mai chờ”. Nàng nhớ về Kim Trọng với tâm trạng đau đớn xót xa. Câu thơ “Tấm son gột rửa, bao giờ cho phai” có hai cách hiểu: tấm lòng son là tấm lòng nhớ thương Kim Trọng không bao giờ nguôi quên, hoặc tấm lòng son trong trắng của Kiều bị dập vùi hoen ố, biết bao giờ gột rửa?
b) Tiếp đó Kiều nhớ đến cha mẹ. Nghĩ tới song thân, Kiều thương và xót. Nàng thương cha mẹ khi sáng, khi chiều tựa cửa ngóng tin con trông mong sự đỡ đần. Nàng xót xa lúc cha mẹ tuổi già sức yếu mà nàng không chăm nom được và hiện thời ai người săn sóc? Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, điển cố “sân Lai”, “gốc tử” đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà tất cả đã đổi thay mà sự đổi thay lớn nhất là “gốc tử đã vừa người ôm”, nghĩa là cha mẹ ngày một thêm già yếu. Cụm từ “cách mấy nằng mưa” vừa nói được thời gian cách xa bao mùa mưa nắng, vừa nói lên được sức mạnh tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đôi với cảnh vật và người. Lần nào khi nhớ về cha mẹ, Kiều củng nhớ “Nhớ ơn chín chữ cao sâu và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy con cái của cha mẹ.
c) Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích, Kiều là đáng thương nhất. Nhưng nàng đã quên cảnh ngộ của bản thân để nghĩ về Kim Trọng, ngiỏl về cha mẹ Kiều là người tình thủy chung, người con hiếu thảo, người cl tấm lòng vị tha đáng trọng.
3. Tám câu thơ cuối tả cảnh để ngụ tình
a) Diễn tả tâm trạng Kiều, Nguyền Du đã chọn cách biểu hiện “Tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”. Mồi biểu hiện của cảnh phù hợp với từng trạng thái tình cảm. Kiều nhớ cha mẹ, nhớ quê hương thì: “Buồn trông cửa bể chiều hôm – Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”. Kiều buồn nhớ người yêu và cũng là xót xa cho duyên phận thì: “Buồn trông ngọn nước mới sa – Hoa trôi man mác biết là về đâu”. Lúc buồn cho cảni ngộ chính mình thì: “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh – Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”. Cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua tâm trạng Kiều: cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh ti tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ. Ngọn gió cuôn mặt duềnh và tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi là cảnh tượng hãi hùng, như báo trước dông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều. Và, quả thực, ngay sau lúc này, Kiều đẫ mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.
b) Về mặt nghệ thuật, ta cần chú ý cụm từ “buồn trông” mở đầu cáu thơ sáu chừ, tạo âm hưởng trầm buồn. “Buồn trông” đã trở thành đièp khúc của đoạn thơ và cũng là điệp khúc của tâm trạng.
Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Bài: Kiều Ở Lầu Ngưng Bích – Ngữ Văn 9 Tập 1 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!