Bạn đang xem bài viết Soạn Bài: Bài Ca Ngất Ngưởng – Ngữ Văn 11 Tập 1 được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Xin chào các em! Hôm nay, Soạn Văn sẽ hướng dẫn các em soạn văn bản: Bài ca ngất ngưởng. Đây là một tác phẩm rất hay và nổi tiếng của Nguyễn Công Trứ và được biên soạn trong chương trình Ngữ Văn 11 Tập 1.
I. Tác giả, tác phẩm
1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Nguyễn Công Trứ trong SGK Ngữ Văn 11 Tập 1).
2. Tác phẩm
Bài ca ngất ngưởng là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Công Trứ. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1848 và được làm theo thể ca trù.
Bài thơ đã phô trương, khoe sự ngang tàng, sự phá cách trong lối sống của ông, lối sống ít phù hợp với khuôn khổ của đạo Nho.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:
* Trong Bài ca ngất ngưởng, từ “ngất ngưởng” được sử dụng tới 4 lần:
Từ ngất ngưởng thứ nhất: chỉ sự thao lược, tài năng và phong cách ngạo nghễ khi làm quan của Nguyễn Công Trứ.
Từ ngất ngưởng thứ hai: chỉ sự ngang tàn của tác giả ngay khi làm dân thường.
Từ ngất ngưởng thứ ba: khẳng định cái chơi ngông hơn người của Nguyễn Công Trứ, ông dẫn các cô gái trẻ lên chùa, đi hát ả đào,… và tự đánh giá cao các việc làm ấy.
Từ ngất ngưởng cuối cùng: cho thấy tác giả hơn người vì ông dám coi thường công danh phú quý, coi thường cả dư luận khen chê, thỏa thích vui chơi bất cứ thú gì, không vướng bận đến sự ràng buộc về thân phận.
Câu 2:
Nguyễn Công Trứ biết rằng việc làm quan là gò bó, mất tự do nhưng ông vẫn ra làm quan là bởi đó là phương tiện để ông có thể thể hiện tài năng và hoài bão của mình. Do vậy, ngất ngưởng thực chất là một phong cách sống tôn trọng sự trung thực, tôn trọng cá tính, cách sống tự do, phóng khoáng của chính mình.
Câu 3:
Ở bài hát nói này, Nguyễn Công Trứ tự kể về mình, ông cho mình là ngất ngưởng bởi vì: sau khi cởi mũ, cáo quan ra khỏi cuộc sống bó buộc chốn quan trường bon chen, Nguyễn Công Trứ có những hành vi kỳ quặc, lập dị đến ngất ngưởng.
Người ta cưỡi ngựa đi ngao du thiên hạ, ông lại cưỡi bò, lại còn đeo cho một cái đạc ngựa khiến cả chủ lẫn tớ đều ngất ngưởng
Ông đi thăm thú cảnh chùa mà vẫn đeo kiếm cung bên người “một đôi dì”. Rõ ràng là trong bộ dạng từ bi, Nguyễn Công Trứ vẫn vướng đầy nợ trần, vẫn đèo bòng đằng sau mấy bóng giai nhân.
Với giọng điệu tự thuật khẳng khái, đầy cá tính đã cho thấy Nguyễn Công Trứ là một người sống sòng phẳng, thẳng thắn và có ý thức về cách sống của mình.
Nguyễn Công Trứ tự hào vì đã có một cuộc sống hoạt động tích cực trong xã hội. Ông cũng tự hào vì mình dám sống cho mình, bỏ qua sự gò bó và khắt khe của lễ giáo phong kiến.
Câu 4:
So với những bài thơ Đường luật gò bó, thể hát nói có sự linh hoạt hơn rất nhiều. Mặc dù hát nói có quy định về số câu, cách chia khổ nhưng người viết hoàn toàn có thể phá cách để tạo nên một tác phẩm tự do về số câu, về cách gieo vần, nhịp điệu,…
Chính sự phóng khoáng của thể thơ nên rất thích hợp với việc truyền tải những quan niệm nhân sinh mới mẻ của tầng lớp nhà nho tài tử khao khát khẳng định mình, coi thường những ràng buộc của lễ nghi, của xã hội.
5
/
5
(
1
bình chọn
)
Soạn Bài Bài Ca Ngất Ngưởng Của Nguyễn Công Trứ Trang 37 Sgk Văn 11
1. Nguyễn Công Trứ (1778 -1858) người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là người có tính tình cương trực, phóng khoáng, thích tự do nên cuộc đời quan trường khá lận đận.
Ông để lại khoảng 50 bài thơ và 60 ca trù và một bài phú nổi tiếng Hàn nho phong vị phú, đều viết bằng chữ Hán.
2. Bài ca ngất ngưởng thuộc thể hát nói, được sáng tác sau 1848, khi ông đã cáo quan về hưu và sống cuộc đời tự do nhàn tản. Bài thơ là bản tự thuật, tự bạch về một cuộc đời, được nâng lên tầm triết lý sống. Bài thơ thể hiện rất rõ thái độ sống của Nguyễn Công Trứ giai đoạn cuối đời, sau những trải nghiệm đắng cay của cuộc sống quan trường. Đó là thái độ coi thường danh lợi, vượt lên thói thường để sống cuộc sống tự do tự tại. Giữa cái xã hội mà mọi cá tính đều bị thủ tiêu thì cái tôi “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ chẳng những bộc lộ một bản lĩnh cứng cỏi, sự thức tỉnh ý thức cá nhân mà còn thể hiện rõ một nhân sinh quan tiến bộ hiện đại. Bằng giọng điệu khoa trương, ý vị trào phúng đặc biệt của thể thơ hát nói, bài ca đã tạc nên một bức chân dung Nhà thơ – Nhà nho tài tử đầy cá tính giữa đám triều thần phàm tục.
II. SOẠN BÀI
1. Bài thơ được làm theo thể hát nói – một thể thơ “nửa hát, nửa nói, có tính chất kể chuyện”. Đây là thể thơ được các nhà Nho tài tử ưa dùng để biểu đạt cái nội tâm phóng khoáng, cái chí thoát vòng cương toả, thoát vòng danh lợi để hưởng mọi lạc thú của cuộc đời trần thế mà Nguyễn Công Trứ là một đại biểu ưu tú nhất.
Bài thơ thuộc loại hát nói dôi khổ gồm 19 câu, gieo vần theo một bài hát nói điển hình. Câu đầu tiên gieo vần chân, thanh trắc, câu 2, 3 gieo vần lưng, thanh bằng, các cặp câu cứ như thế luân phiên đến hết bài. Trong bài có xen kẽ những câu thơ chữ Hán và số lượng từ trong các câu không cố định. Điều đó là nên giọng điệu đặc trưng của bài hát nói, thể hiện được tâm trạng và tình cảm của nhân vật trữ tình.
2. Trong bài thơ tác giả đã sử dụng các từ, cụm từ mang tính chất tự xưng, đó là: Ông Hi Văn tài bộ, tay ngất ngưởng, ông ngất ngưởng, phường Hàn Phú. Những cách tự xưng này đã góp phần thể hiện cái ngất ngưởng, thái độ tự tôn, sự ngông ngạo của Nguyễn Công Trứ, làm nổi bật hình ảnh cái tôi cá nhân cao ngạo của tác giả.
3. Ngất ngưởng là một từ láy tượng hình vốn được dùng chỉ sự vật ở độ cao chênh vênh, bất ổn định. Ở bài thơ này, từ ngất ngưởng được dùng với nghĩa chỉ sự khác thường, vượt lên thói thường, coi thường dư luận. Ngoài nhan đề, từ “ngất ngưởng” được nhắc đi nhắc lại 4 lần ở cuối các khổ thơ trở thành một biểu tượng cho một phong cách sống, thái độ sống vượt thế tục, một lối chơi ngông thách thức xung quanh trên cơ sở nhận thức rõ tài năng và nhân cách cá nhân.
4. Sau khi cởi mũ, cáo quan ra khỏi cuộc sống bó buộc chốn quan trường bon chen, Nguyễn Công Trứ có những hành vi kỳ quặc, lập dị đến ngất ngưởng. Người ta cưỡi ngựa đi giao du thiên hạ thì ông cưỡi bò, lại còn đeo cho một cái đạc ngựa khiến cả chủ lẫn tớ đều ngất ngưởng. Đi thăm thú cảnh chùa mà vẫn đeo kiếm cung bên người và mang theo “một đôi dì”. Rõ ràng trong bộ dạng từ bi Nguyễn Công Trứ vẫn vương đầy nợ trần, vẫn đèo bòng đằng sau mấy bóng giai nhân. Cốt cách của một khách tài tử, văn nhân chính là ở đó… Đó là lối sống phá cách của một con người thích làm những chuyện trái khoáy ngược đời để ngạo đời, thể hiện thái độ và khát vọng sống tự do tự tại.
Không bận tâm đến những lời khen chê, những chuyện được mất. Đó là một quan niệm sống, triết lý sống phóng khoáng tự do, thoát khỏi vòng danh lợi tầm thường. Coi sự được mất là lẽ thường tình, ông đã ra khỏi vòng danh lợi để sống thảnh thơi, tự do, tự tại để hướng mọi lạc thú, cầm, kỳ, thi, tửu, giai nhân giữa cuộc đời trần thế một cách thoả thích.
Nhà thơ đã vận dụng nghệ thuật tương phản, đặt những cái đối lập nhau để thể hiện thái độ ngất ngưởng của mình.
5. Nhân vật trữ tình xuất hiện trong tác phẩm là một con người có cá tính ngông, một con người đầy tự tin, yêu thích cuộc sống tự do tự tại, coi thường danh lợi. Con người ấy tự tin vào tài năng và tin tưởng vào quan điểm sống của mình nên đã rất bản lĩnh vượt lên trên thói thường cuộc đời để sống và làm điều mình thích. Nhưng dù ngất ngưởng, ngông ngạo đến đâu, ông vẫn ý thứuc rất rõ trách nhiệm của mình đối với cuộc đời. Vì thế, sau những phút giây cao hứng, thả mình phóng túng cùng trời đất tự do, ông vẫn không quên tự nhắc: “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”. Tư tưởng ấy không hề mâu thuẫn với cái ngông ngạo, ngất ngưởng của ông. Trên thực tế Nguyễn Công Trứ là một nhà Nho có trách nhiệm với đất nước. Tuy cuộc sống quan trường gặp nhiều lận đận nhưng ông vẫn luôn một lòng trung thành với triuề đình. Dù ham cuộc sống tự do phóng túng nhưng ông vẫn nhiệt tình thực hiện trách nhiệm quân thần.
6. Cá tính sáng tạo của Nguyễn Công Trứ được thể hiện ở chỗ nhà thơ sử dụng khá nhiều khẩu ngữ trong bài thơ. Điều này tạo nên tính chất sống động, gần gũi, hóm hỉnh cho thể hát nói. Các từ ngữ mang tính chất khẩu ngữ: ông, tay, vào lồng, một đôi dì, nực cười, phường, kìa núi nọ phau phau mây trắng, nên dạng, chẳng… cũng…
– Ngôn ngữ của Bài ca ngất ngưởng vừa phù hợp với nội dung, vừa phù hợp với phong cách của Nguyễn Công Trứ. Nó phóng khoáng, tự do, có chút ngạo nghễ.
– Ngôn ngữ của Bài ca phong cảnh Hương Sơn nhẹ nhàng, thấm đẫm ý vị thiền và niềm say mê phong cảnh thiên nhiên đất nước.
IV. TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Về tác giả
– Đó là một con người giàu khát vọng tốt đẹp! Khi còn ở nhà, gia cảnh nghèo túng, ông rất chăm chỉ lao động vừa giúp gia đình, vừa quyết chí học tập để đi thi, làm quan, nhằm cống hiến tài năng và sức lực cho đất nước. Khi ra làm quan, ông rất tận tụy, thanh liêm, bất cứ việc gì, lúc nào, ông cũng làm việc hết mình, “quyết đem tất cả sở tồn làm sở dụng”, nghĩa là: luôn mong muốn mình sống có ích nhất cho dân, cho nước.
– Đó là một con người có tấm lòng tha thiết yêu nước, yêu dân. Khi còn trẻ, sức lực dồi dào, trong chức trách của mình, ông đã lập công lớn, vừa giúp triều đình dẹp những cuộc loạn để nhân dân được sống thanh bình. Rồi ông chỉ đạo dân khai khẩn đất hoang, mở rộng và nâng cao đời sống cho dân. Hàng vạn người dân đói nghèo ở các tỉnh Thái Bình, Ninh Bình, Quảng Yên, Hải Dương từng kể nhiều chuyện cảm động về tình cảm cụ Dinh điền sứ nhân từ, độ lượng. Trước nạn ngoại xâm, Nguyễn Công Trứ đã làm đơn xin đi giết giặc. Hành động ấy của một cụ già 80 tuổi thật là điều hiếm có.
– Đó là một con người có cá tính mạnh mẽ, sống rất phóng khoáng, độc đáo nhiều khi đến độ “quá cỡ”, “lập dị” như người đời thường nhận xét. Đó là một phong cách “tài tử” của một lớp nhà nho tài ba, có chí lớn, nhưng không gặp thời.
( Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường phổ thông – Phạm Thái, Nguyễn Công Trứ,
Cao Bá Quát, Nxb Giáo dục, 1997)
2. Về tác phẩm
“… Nhà nho tài tử Nguyễn Công Trứ, sau khi điểm duyệt một cách “thích trí” những hành vi “ngất ngưởng” của mình trong hành trình cuộc đời (cả lúc “vào lồng” lẫn lúc ra lồng), sơ kết, thì thấy mình đã đứng ngoài được các khuôn thức: “Không Phật, không Tiên, không vướng tục”…; thấy mình đã đi ở giữa những sự phân cực: “Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi”. Dẫn đến hệ quả: khi ông Hy Văn đến thăm chùa lễ Phật, thì vẫn có: “Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi di”, “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”… Tất cả là cái khoái cảm tự do tinh thần của một cá nhân không bị trói buộc. Toàn bộ Bài ca ngất ngưởng như một bản hồi ký tóm tắt độ ngất ngưởng ấy chính là một biểu hiện của sự thị tài. Ngất ngưởng ở các bình diện: bước vào cơ chế xã hội- “vào lồng”, như cách nói của ông- với các tước vị thì nên “tay ngất ngưởng”, rồi khi đụng chạm vào các thiết chế tinh thần của cộng đồng thì thành “ông ngất ngưởng”. Ông tự xưng là “ông” (ông Hy Văn), tự cho mình là một “tay” (tay ngất ngưởng) một cách hãnh diện: “Đời ai ngất ngưởng như ông”.”
Soạn Bài: Ca Dao Hài Hước – Ngữ Văn 10 Tập 1
Hướng dẫn học bài
Câu 1:
Bài ca dao 1:
Đây là lời đối đáp, vui đùa của nam nữ thường thấy trong ca dao. Nó mang đến cho ta một tiếng cười mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
* Việc dẫn cưới và thách cưới ở đây rất đặc biệt:
Việc dẫn cưới: Chàng trai có những dự định lớn: muốn có một hôn lễ linh đình nhưng vì những lí do khách quan mà không thể thực hiện được. Cụ thể như dẫn voi thì sợ quốc cấm, dẫn trâu thì sợ họ máu hàn, dẫn bò sợ họ co gân, nên chàng trai đã quyết định “Dẫn con chuột béo mời dân mời làng”. Lí lẽ này thật thông minh, hóm hỉnh.
Việc thách cưới: cô gái thách cưới chàng trai một “nhà khoai lang”, nghe có vẻ là dễ nhưng cô gái hiểu rõ hoàn cảnh của chàng trai không thể đáp ứng nên chỉ cần một nhà khoai lang thôi cũng là đủ rồi.
* Bài ca có giọng điệu hài hước, dí dỏm, đáng yêu là nhờ những yếu tố nghệ thuật:
Lối nói khoa trương, phóng đại: dẫn voi, dẫn trâu, dẫn bò, dẫn nhà khoai lang,…
Cách nói đối lập, phủ định: dẫn voi/ sợ quốc cấm; dẫn trâu/ sợ họ máu hàn; dẫn bò/ sợ họ co gân; dẫn lợn gà/ khoai lang
Câu 2:
Bài ca dao 2,3,4:
Tiếng cười trong bài ca dao 2,3,4 là tiếng cười đả kích, châm biếm và phê phán xã hội, phê phán nội bộ nhân dân, nhằm nhắc nhở con người ta tránh những thói hư, tật xấu.
* Bài ca dao 2:
Trong bài ca dao này, tác giả dân gian đã sử dụng nghệ thuật phóng đại cùng thủ pháp đối lập nhằm châm biếm những người đàn ông yếu đuối, không đáng sức trai, không đáng nên trai. Họ yếu đuối đến mức chỉ gánh được “hai hạt vừng”.
* Bài ca dao 3:
Tác giả dân gian đã mượn lời than thở của người vợ để làm nổi bật, đồng thời, phê phán, lên án sự lười nhác, thảm hại của ông chồng vô tích sự chỉ biết “ ngồi bếp sờ đuôi con mèo”.
* Bài ca dao 4:
Đây là bài ca dao chế giễu những người phụ nữ có tính tình đỏng đánh, vô duyên. Với nghệ thuật phóng đại tài tình, tác giả dân gian đã mang đến tiếng cười, châm biếm nhẹ nhàng với loại phụ nữ này. Bên cạnh đó, tác giả dân gian vẫn nhẹ nhàng chê thứ tình yêu mù quáng, không biết sửa chữa khiếm khuyết cho nhau “chồng yêu chồng bảo…”
Câu 3:
Những biện pháp nghệ thuật thường được sử dụng trong ca dao hài hước là:
Đối lập tương phản
Lối nói cường điệu, phóng đại
Hư cấu dựng cảnh tài tình, khắc họa nhân vật bằng những nét điển hình có giá trị khái quát cao
Có nhiều liên tưởng rất độc đáo và thú vị
Sử dụng ngôn ngữ đời thường mà hàm ý sâu xa
5
/
5
(
1
bình chọn
)
Soạn Bài Hai Đứa Trẻ Sách Bài Tập Ngữ Văn 11 Tập 1
1. Bài tập 1, trang 101, SGK.
Cảnh vật trong truyện đã được miêu tả trong thời gian và không gian như thế nào ?
Trả lời:
Các nhân vật có thể gây ấn tượng sâu sắc là : Liên, An, chị Tí, bác Siêu, bà cụ Thi,… Những chi tiết nghệ thuật tịêu biểu là : đoàn tàu, bóng tối và ánh sáng, âm thanh, hình ảnh Hà Nội xa xăm, ngọn đèn ở hàng nước của chị Tí,…
Ví dụ, phân tích hình ảnh ngọn đèn ở hàng nước của chị Tí:
– Chị em Liên “lại cúi nhìn về mặt đất, về quầng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí”.
– “Giờ chỉ còn ngọn đèn con của chị Tí, và cả cái bếp lửa của bác Siêu, chiếu sáng một vùng đất cát; trong cửa hàng, ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ, thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa”.
– “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.
Hình ảnh ngọn đèn ở hàng nước của chị Tí “chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ” trước hết có ý nghĩa như một biểu tượng về những kiếp người nhỏ bé, sống leo lét, quẩn quanh, không tương lai, không hạnh phúc trong đêm trường tăm tối của xã hội cũ. Ngoài ra, hình ảnh này còn có tác dụng tô đậm thêm sự tối tăm, nghèo khổ của những cư dân nơi phố huyện.
2. Bài tập 2*, trang 101, SGK.
Thạch Lam đã miêu tả cuộc sống và hình ảnh những người dân phố huyện ra sao ?
Trả lời:
– Truyện Hai đứa trẻ rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam với những trang viết vừa đậm đà yếu tố hiện thực vừa phảng phất chất lãng mạn, chất thơ. Toàn bộ câu chuyện chỉ kể về nỗi buồn trước cảnh ngày tàn và tâm trạng thao thức của chị em Liên mong mỏi chờ đợi một chuyến tàu đêm, thế nhưng qua chuyện kể tưởng như quá đơn sơ, nhỏ nhặt ấy, Thạch Lam đã thể hiện khá chân thực khung cảnh nghèo nàn, đơn điệu của phố huyện nhỏ và thân phận khốn khổ, nhàm chán của những con người ở đó. Đan xen, hài hoà với chất hiện thực ấy, chất lãng mạn, chất thơ thể hiện ở cảm giác mơ hồ về thời gian, không gian, cái thăm thẳm mênh mông của vũ trụ, khung cảnh miền quê êm ả, đượm buồn, sự hồi tưởng về quá khứ và ước mơ kín đáo, xa xôi về tương lai…
– Đặc biệt, Hai đứa trẻ là minh chứng rõ nhất cho loại truyện tâm tình của Thạch Lam. Cuộc sống nghèo nàn nơi phố huyện chỉ là cái nền để tác giả nói tới quan hệ giữa những người dân mộc mạc trong cảnh sống bình thường ; cái tình người chân chất cứ nhẹ nhàng thấm sâu khắp thiên truyện, nó toả ra trong mọi mối quan hệ : giữa chị em Liên với nhau, giữa chị em Liên với chị Tí, bác Xẩm, bác Siêu, mấy đứa trẻ nhặt rác,… Ngay trong cách cư xử của chị em Liên với bà cụ Thi, người đọc cũng thấy sự ấm áp của tình thương và sự cảm thông. Khi miêu tả từng nhân vật, Thạch Lam ít quan tâm đến ngoại hình, hành động mà ông tập trung chú ý tới thế giói nội tâm, cái “hiện thực tâm hồn” với những cảm giác, cảm xúc mong manh, mơ hồ. Với nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật rất tinh tế, Thạch Lam đã khắc hoạ được những xao động trong tâm hồn cô bé Liên : lúc chiều về trên phố huyện “lòng buồn man mác” ; thấy mấy đứa trẻ bới rác mà “động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó”; sự hãnh diện với chiếc xà tích và cái khoá “vì nó tỏ ra chị là người con gái lớn và đảm đang”; cái ước mơ chập chờn “thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi”… khi đoàn tàu đã đi qua… Thạch Lam còn có giọng điệu rất riêng biệt, độc đáo – đó là giọng kể chuyện thủ thỉ như tâm sự vói người đọc, rất nhỏ nhẹ mà man mác, thi vị. Người đọc thấy ẩn hiện, kín đáo, lặng lẽ sau những hình ảnh, những dòng chữ một tâm hồn Thạch Lam đôn hậu, tinh tế, hết sức nhạy cảm với mọi biến thái của lòng người và tạo vật. Văn Thạch Lam rất tiêu biểu cho tính cách người Việt, những người “sống cảm nhiều hơn là suy nghĩ” (Hoài Thanh).
3. Anh (chị) hãy nêu nhận xét về cảm hứng thiên nhiên của Thạch Lam qua truyện ngắn Hai đứa trẻ.
Trả lời:
Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn đã thể hiện khá rõ cảm hứng về thiên nhiên:
– Tác giả đã miêu tả khá thành công nhiều bức tranh thiên nhiên thơ mộng, đầy gợi cảm. Chẳng hạn, những âm thanh, hình ảnh quen thuộc của mùa hạ lúc chiều tà : “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều” ; “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào” ; hay không khí êm đềm, tĩnh lặng khi đêm xuống ở làng quê : “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”.
– Điều đáng nói hơn là thiên nhiên và con người ở đây luôn được khắc hoạ trong sự hoà hợp với nhau. Hai đứa trẻ có thể phát hiện tinh tế những biến thái của đất trời, cây cỏ : “An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông”, “Qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”.
– Qua cảm hứng về thiên nhiên, Thạch Lam đã ít nhiều gọi được ở người đọc những tính cảm đối với quê hương xứ sở. Có lẽ đây cũng là điều góp phần tạo nên sự đặc sắc của thiên truyện này. Tiếc rằng, lâu nay cảm hứng ấy ít được chúng ta bàn tới.
4. Phân tích hình anh hai chị em Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Trả lời:
Đây là một đề thuộc kiểu bài phân tích nhân vật. cần phân tích hai mặt trong cuộc sống của chị em Liên :
+ Cuộc sống vật chất
+ Cuộc sống tinh thần
– Cần đặt chị em Liên vào khung cảnh chung – cuộc sống của cả phố huyện với những người cũng như Liên:
+ Nghèo khổ trong cuộc sống vật chất
+ Hạn hẹp, tù túng trong cuộc sống
– Cần nhận rõ những nét đẹp trong cách sống của chị em Liên (cách cư xử giữa hai chị em, tình cảm giữa những người nghèo). Và nhất là khát vọng tinh thần hướng về một cái gì mói lạ, về những chân trời mới tuy còn mơ hồ, mong manh.
– Thạch Lam viết văn rất tinh tế, gợi lên nhiều ấn tượng, nhiều ẩn ý hơn là nói rõ, nói trực tiếp. Vậy từ những chi tiết, những câu chữ trong văn bản có thể nói thêm những cảm nhận của mình.
5. Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Trả lời:
Có thể phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên theo dòng chảy của thời gian từ chiều tối cho đến đêm khuya theo các ý sau :
+ Trong buổi chiều tà : Buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn, cảm thương với lũ trẻ con nhặt rác nơi góc chợ, cảm nhận được sự gắn bó sâu sắc của chị em Liên với phố huyện nghèo, buồn tẻ, tăm tối.
+ Khi trời tối hắn : Không muốn tính tiền hàng vì chảng được bao nhiêu ; sợ bà cụ Thi điên với tiếng cười khanh khách xa dần ; không còn sợ bóng tối ; trong đêm, Liên mải mê với những bí ẩn của vũ trụ đầy trăng sao, thao thức, ngóng chờ chuyến tàu đêm đi qua phô huyện mặc dù hai chị em đã buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn gượng để thức.
+ Khi đoàn tàu đến phố: Háo hức, vui mừng, thoả thích, say sưa nhìn ngắm và liên tưởng.
+ Khi đoàn tàu rời phố. Buồn man mác, lưu luyến và hoài niệm về quá khứ.
– Ý nghĩa của việc khắc hoạ tâm trạng nhân vật Liên.
+ Cho thấy bức tranh hiện thực về cuộc sống ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
+ Làm rõ hơn đời sống nội tâm của nhân vật để cảm thương, trân trọng hơn những khát khao, mong ước của họ.
+ Gióng lên hồi chuông báo động về nguy cơ bị nhấn chìm, bị chết mòn trong buồn chán, đói khổ, tù túng và bế tắc của những kiếp người nhỏ bé, mong manh trong xã hội cũ.
+ Khẳng định ngòi bút nhân đạo sâu sắc của Thạch Lam.
+ Chứng minh khả năng quan sát tinh tế, tâm hồn nhạy cảm của tác giả trước những biến thái của cảnh vật và lòng người.
Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Bài: Bài Ca Ngất Ngưởng – Ngữ Văn 11 Tập 1 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!