Bạn đang xem bài viết Soạn Bài: Ánh Trăng – Ngữ Văn 9 Tập 1 được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
I. Tác giả, tác phẩm
1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Nguyễn Duy trong SGK Ngữ văn 9 Tập 1).
2. Tác phẩm
* Xuất xứ: Bài thơ Ánh trăng được Nguyễn Duy viết vào năm 1978 tại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi đô thị của cuộc sống tiện nghi, hiện đại, nơi những người lính từ trận đánh trở về đã để lại sau lưng cuộc chiến tranh gian khổ mà nghĩa tình.
* Thể thơ: Bài thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn.
* Bố cục: Văn bản có thể được chia làm 3 phần:
Phần 1: 2 khổ thơ đầu: Vầng trăng quá khứ gắn bó với tuổi thơ
Phần 2: 2 khổ thơ tiếp: Vầng trăng hiện tại và sự bội bạc của con người trong cuộc sống hiện đại
Phần 3: 2 khổ cuối: Cảm xúc và suy ngẫm của tác giả trước vầng trăng.
II. Hướng dẫn soạn bàiCâu 1:
* Bài thơ được bố cục theo trình tự từ quá khứ đến hiện tại.
Câu 2:
* Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều tầng ý nghĩa:
Là vầng trăng của thiên nhiên, đất trời tươi đẹp, khoáng đạt
Trăng là biểu tượng cho những gì gắn bó với con người lúc gian khổ
Là tình cảm trong quá khứ, luôn hồn nhiên, tươi đẹp, sáng rọi khắp nhân gian
Trăng là phần trong sáng, tốt đẹp của con người, chiếu sáng những góc khuất mới nảy sinh khi con người sống trong nhà lầu, xe hơi, sống trong những ánh sáng của đèn điện, trong vật chất tiện nghi.
* Khổ thơ trong bài thơ thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng mang tính triết lí của tác phẩm là khổ cuối cùng.
Câu 3:
* Nhận xét về kết cấu, giọng điệu của bài thơ:
Kết cấu bài thơ độc đáo, được phát triển theo trình tự thời gian. Từ quá khứ hồn nhiên, thân thiết với vầng trăng cho đến hiện tại, trong một thành phố, một cuộc sống đầy đủ tiện nghi, vầng trăng đã bị lãng quên, bị coi như người dưng qua đường. Nhờ mất điện mà con người gặp lại vầng trăng và giật mình về thái độ sống vô tình của mình, tự soi xét lại bản thân.
Giọng điệu của bài thơ tâm tình nhờ thể thơ 5 chữ, nhịp thơ tuôn chảy tự nhiên, nhịp nhàng theo nhịp kể, khi ngân nga, trầm lắng, suy tư.
Câu 4:
* Thời điểm ra đời của bài thơ: sau đại thắng mùa xuân vào năm 1975, người lính từ chiến khu trở về thành phố, họ có một cuộc sống trong thời hòa bình, phương tiện sống hiện đại hơn, khác xa với thời chiến tranh.
* Chủ đề của bài thơ: Nhắc về những năm tháng gian lao trong cuộc đời của người lính.
* Bài thơ Ánh trăng nằm trong mạch cảm xúc “Uống nước nhớ nguồn” gợi đạo lí thủy chung tình nghĩa. Đó cũng là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
5
/
5
(
2
bình chọn
)
Soạn Bài Ánh Trăng Sbt Ngữ Văn 9 Tập 1
Giải câu 1, 2, 3, 4 trang 99 SBT Ngữ Văn 9 tập 1. Cảm nhận của em về hình ảnh vầng trăng trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy. So sánh với những trường hợp khác để chỉ rõ nét độc đáo của hình ảnh thơ này.
1. Bài thơ Ánh trăng có dáng dấp một câu chuyện kể. Phân tích sự kết hợp giữa yếu tố trữ tình với yếu tố tự sự trong bài thơ.
Trả lời:
Ánh trăng mang giọng điệu kể. Câu chuyện được kể trong bài thơ diễn biến theo trình tự thời gian, cảm xúc, suy ngẫm của nhân vật trữ tình (nhà thơ) được giãi bày men theo dòng cốt truyện. Phân tích xem quan hệ (thái độ, tình cảm) của nhà thơ với vầng trăng diễn biến qua mấy bước (giai đoạn) cơ bản.
2. Cảm nhận của em về hình ảnh vầng trăng trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy. So sánh với những trường hợp khác để chỉ rõ nét độc đáo của hình ảnh thơ này.
Trả lời:
Bài tập này yêu cầu phân tích, trình bày cảm nhận về các tầng ý nghĩa của hình ảnh vầng trăng trong bài thơ. Cần tập trung vào ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh này.
Chú ý tình huống xuất hiện của vầng trăng ở khổ thứ tư.
Căn cứ vào hai khổ thơ đầu để phân tích vẻ đẹp, ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng. Chú ý thêm hình ảnh “Trăng cứ tròn vành vạnh” qua thời gian, năm tháng ở khổ cuối.
Tìm hiểu một số bài thơ khác có hình ảnh ánh trăng để so sánh, từ đó chỉ ra nét độc đáo của hình ảnh ánh trăng trong bài thơ này (Trăng thường thể hiện vẻ đẹp thơ mộng, thanh khiết của thiên nhiên, thành người bạn tri âm tri kỉ. Ở bài thơ của Nguyễn Duy, hình ảnh này còn mang ý nghĩa biểu tượng gì gắn với một quãng đời, với hoàn cảnh sống của nhân vật trữ tình ?).
3. Phân tích khổ kết thúc bài thơ :
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình Trả lời:
Khi phân tích khổ thơ kết thúc bài nên suy nghĩ theo các câu hỏi :
– Vị trí của khổ thơ này trong mạch kết cấu của toàn bài ?
– Vẻ đẹp, ý nghĩa của hình ảnh vầng trăng ở hai câu thứ nhất và thứ ba của khổ thơ ?
– Trăng và người đối lập với nhau như thế nào qua cảm nhận, lời tự kiểm điểm của nhân vật trữ tình ?
– Tại sao nhà thơ lại “giật mình” ? Sự “giật mình” ấy cho ta hiểu gì về nhà thơ, có ý nghĩa gì đối với mỗi người đọc ?
4. Phát biểu ngắn gọn về giá trị tư tưởng của bài thơ Ánh trăng.
chúng tôi
Soạn Bài Ánh Trăng Trang 157 Sgk Ngữ Văn 9, Tập 1
Soạn bài Ánh trăng để em hiểu hơn về truyền thống đạo lí Uống nước nhớ nguồn, lối sống ân tình ân nghĩa của cha ông ta từ ngàn đời xưa, qua giọng thơ tâm tình, thủ thỉ, Nguyễn Duy gợi nhắc mỗi người chúng ta phải luôn có thái độ thủy chung với quá khứ, biết ơn những thế hệ đi trước đã tạo nên thành quả cho con cháu thừa hưởng.
Trả lời:– Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều tầng lớp ý nghĩa.+ Vầng trăng trước hết là trăng của thiên nhiên, của đất trời.+ Trăng là biểu tượng cho những gì gắn bó với con người lúc gian khổ.+ Trăng là tình cảm quá khứ hồn nhiên, tươi đẹp.+ Trăng cũng là phần trong sáng, phần tốt đẹp trong con người luôn soi rọi, chiếu sáng những góc khuất, góc tối mới nảy sinh khi con người sống với nhà lầu, cửa gương, với những tiện nghi vật chất.– Khổ thơ cuối thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng mang tính triết lý của tác phẩm”. “Trăng cứ tròn vành vạnh” như tượng trưng cho quá khứ đẹp dẽ, nguyên vẹn chẳng thể phai mờ. Quá khư đẹp đẽ vĩnh hằng trong vũ trụ : “ánh trăng im phăng phắc” như một người bạn, một nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc. Cái im lặng ấy như đang nhắc nhở nhà thơ, nhắc nhở tất cả chúng ta. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên nghĩa tình, quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt, hồn hậu và rộng lượng.
* Giọng điệu:– Giọng điệu tâm tình bằng thể thơ năm chữ, nhịp thơ khi tuôn chảy tự nhiên, nhịp nhàng theo nhịp kể, khi ngân nga, khi trầm lắng suy tư. Tất cả những điều đó góp phần quan trọng trong việc bộc lộ những cảm xúc sâu xa của một người lính khi nghĩ về chiến tranh, về quá khứ.
Trả lời:– Bài thơ viết năm 1978 sau hòa bình ba năm. Những người kháng chiến gian khổ ở rừng núi đã trở về thành phố. Họ có một cuộc sống mới thời bình. Các phương tiện sống khác xa thời chiến tranh. Câu chuyện riêng này là lời tự nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa, đối với thiên nhiên, đất nước, bình dị hồn hậu.– Bài thơ không chỉ là chuyện của riêng nhà thơ mà có ý nghĩa đối với cả một thế hệ. Hơn thế bài thơ có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời, bởi vì nó đặt ra vấn đề thái độ với quá khứ, với người đã khuất, với cả chính mình.– Bài thơ nằm trong mạch cảm xúc “Uống nước nhớ nguồn” gợi đạo lý thủy chung tình nghĩa. Đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
LUYỆN TẬPTưởng tượng mình là nhân vật trữ tình trong bài Ánh trăng, em hãy diễn tả dòng cảm nghĩ trong bài thơ thành một bài tâm sự ngắn.Gợi ý trả lời:– Về quá khứ trước đây: sự gắn bó khăng khít của nhân vật trữ tình và vầng trăng.– Hòa bình lập lại có sự thay đổi thế nào?– Sự kiện nào khiến “tôi” nhận ra những sai lầm của mình.– Rút ra bài học, ý nghĩa cho mình và những người khác.
Xem tiếp các bài soạn để học tốt môn Ngữ Văn lớp 9– Soạn bài Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ– Soạn bài Tổng kết về từ vựng (tiếp theo), bài 12
Bố cục:– Phần 1 (hai khổ thơ đầu): Tình cảm gắn bó với vầng trăng trong những tháng ngày khó khăn, gian khổ.– Phần 2 (khổ thơ tiếp theo): Trăng với người xa lạ trong những tháng ngày sống ở thành phố.– Phần 3 (những khổ thơ còn lại): Con người và trăng hội ngộ với nhau khi đèn điện thình lình tắt.
Câu 2: a. Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều tầng lớp ý nghĩa. Vầng trăng trước hết là trăng của thiên nhiên, của đất trời. Trăng là biểu tượng cho những gì gắn bó với con người lúc gian khổ. Trăng là tình cảm quá khứ hồn nhiên, tươi đẹp. Trăng cũng là phần trong sáng, phần tốt đẹp trong con người luôn soi rọi, chiếu sáng những góc khuất, góc tối mới nảy sinh khi con người sống với nhà lầu, cửa gương, với những tiện nghi vật chất.b. Khổ thơ cuối thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng mang tính triết lý của tác phẩm”
“Trăng cứ tròn vành vạnhKể chi kẻ vô tìnhÁnh trăng im phăng phắcKhiến cho ta giật mình”
“Trăng cứ tròn vành vạnh” như tượng trưng cho quá khứ đẹp dẽ, nguyên vẹn chẳng thể phai mờ. Quá khư đẹp đẽ vĩnh hằng trong vũ trụ : “ánh trăng im phăng phắc” như một người bạn, một nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc. Cái im lặng ấy như đang nhắc nhở nhà thơ, nhắc nhở tất cả chúng ta. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên nghĩa tình, quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt, hồn hậu và rộng lượng.
Câu 3: Tác phẩm có kết cấu độc đáo. Bài thơ như một chuyện nhỏ, phát triển theo thời gian. Quá khứ hồn nhiên, trần trụi với thiên nhiên, thân thiết với vầng trăng. Hiện tại, về thành phố, sống với các tiện nghi, cửa gương, điện sáng. Vầng trăng bị lu mờ coi như người dưng qua đường. Nhờ mất điện mà gặp lại vầng trăng, giật mình về thái độ sống vô tình của mình. Chính sự giật mình là một yếu tố quan trọng. Nó là sự bừng thức để soi lại bản thân, xét lại cách sống vô tình, dửng dưng, quay lưng lại với quá khứ tốt đẹp, tình nghĩa.Giọng điệu tâm tình bằng thể thơ năm chữ, nhịp thơ khi tuôn chảy tự nhiên, nhịp nhàng theo nhịp kể, khi ngân nga, khi trầm lắng suy tư. Tất cả những điều đó góp phần quan trọng trong việc bộc lộ những cảm xúc sâu xa của một người lính khi nghĩ về chiến tranh, về quá khứ.
Ý nghĩa – Nhận xét
Câu 4: Bài thơ viết năm 1978 sau hòa bình ba năm. Những người kháng chiến gian khổ ở rừng núi đã trở về thành phố. Họ có một cuộc sống mới thời bình. Các phương tiện sống khác xa thời chiến tranh. Câu chuyện riêng này là lời tự nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa, đối với thiên nhiên, đất nước, bình dị hồn hậu.Bài thơ không chỉ là chuyện của riêng nhà thơ mà có ý nghĩa đối với cả một thế hệ. Hơn thế bài thơ có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời, bởi vì nó đặt ra vấn đề thái độ với quá khứ, với người đã khuất, với cả chính mình.Bài thơ nằm trong mạch cảm xúc “Uống nước nhớ nguồn” gợi đạo lý thủy chung tình nghĩa. Đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Câu 2 (trang 157 SGK):Những năm tháng gian khổ khó nhọc của tuổi thơ, của những năm chiến tranh, ánh trăng đối với tôi như người tri kỉ. Tôi và trăng gắn bó với nhau, hồn nhiên, tình nghĩa. Nhưng kể từ khi về với cuộc sống hòa bình, êm ấm ở thành phố, ánh điện nhân tạo sáng trưng đã khiến tôi quên mất vầng trăng từng gắn bó với mình. Trăng ngày ngày đi qua trước ngõ, nhưng tôi không mảy may chú ý. Rồi đến một lần, tất cả những ánh điện nhân tạo sáng trưng kia vụt tắt, ánh sáng của trăng vẫn vằng vặc, soi chiếu xuống mặt đất. Tôi ngước lên nhìn nó, mới chợt nhận ra, lâu nay mình đã bỏ quên chính quá khứ của mình, lãng quên chính những tháng ngày gian khổ nhưng ăm ắp chan chứa tình cảm trước kia. Cuộc sống hiện đại đã khiến tôi quên mất những giá trị đẹp đẽ, vĩnh hằng trong cuộc sống của mình. Ánh trăng vẫn soi sáng như thế, khiến tôi giật mình bởi chính sự vô tình của mình.
Cảnh ngày xuân là bài học nổi bật trong Bài 6 của chương trình học theo SGK Ngữ Văn 9, học sinh cần Soạn bài Cảnh ngày xuân, đọc trước nội dung, trả lời câu hỏi trong SGK.
https://thuthuat.taimienphi.vn/soan-bai-anh-trang-38293n.aspx
Soạn Bài Ánh Trăng Ngữ Văn 9
Soạn bài Ánh Trăng Ngữ văn 9
Bài làm Bố cục của bài:
– Phần 1 (ngay ở hai khổ thơ đầu): Thể hiện được tình cảm gắn bó với vầng trăng chính trong những tháng ngày khó khăn và vô cùng gian khổ.
– Phần 2 (Ở khổ thơ tiếp theo): Hình ảnh của ánh trăng với người xa lạ trong những tháng ngày sống ở thành phố thật
– Phần 3 (Các khổ thơ còn lại): Hình ảnh con người và trăng hội ngộ với nhau khi đèn điện thình lình tắt.
Bài thơ có bố cục ba phần, ở mỗi phần có sự thay đổi giọng thơ:
– Phần 1: Ngay ở ba khổ thơ đầu, giọng kể thế rồi cũng chính nhịp thơ trôi chảy bình thường.
– Phần 2: Ngay ở khổ thơ thứ tư: Ta như nhận tháy được chính giọng thơ đột ngột rất cao, mang lại một sự ngỡ ngàng với bước ngoặt của sự việc, của sự xuất hiện vầng trăng vẫn cứ sáng trong như xưa không hề thay đổi
– Phần 3: Ở khổ năm và sáu: Ta như nhận thấy được chính giọng thơ thiết tha rồi trầm lắng cùng với những cảm xúc và cũng thạt suy tư lặng lẽ.
Câu 2: Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều tầng ý nghĩa. Hãy phân tích điều ấy. Khổ thơ nào trong bài thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng mang tính triết lí của tác phẩm?a. Có lẽ rằng cũng chính hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều tầng lớp ý nghĩa. Thế rồi cũng chính vầng trăng trước hết là trăng của thiên nhiên, vầng trăng của đất trời. Hình ảnh của ánh trăng cũng chính là biểu tượng cho những gì gắn bó với con người lúc gian khổ và vô cùng khó khăn. Hình ảnh của ánh trăng được đánh giá cũng chính là tình cảm quá khứ hồn nhiên và vô cùng tươi đẹp. Ánh trăng thực sự được xem là phần trong sáng, đó cũng chính là một phần tốt đẹp trong con người luôn soi rọi. Khi mà ánh chiếu sáng những góc khuất hay đó còn là những góc tối mới nảy sinh khi con người lúc này đang sống với nhà lầu, cửa gương, với những tiện nghi vật chất đầy đủ.
b. Ta xét với khổ thơ cuối dường như cũng đã lại thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng. Thông qua đây ta nhận được một chiều sâu tư tưởng mang tính triết lý của tác phẩm vô cùng độc đáo:
Trăng cứ tròn vành vạnh Kể chi kẻ vô tình Ánh trăng im phăng phắc Khiến cho ta giật mình
Ánh trăng cứ tròn vành vạnh thực sự cũng như tượng trưng cho quá khứ đẹp dẽ, nguyên vẹn chẳng thể phai mờ. Không những thế mà chính quá khư đẹp đẽ vĩnh hằng trong vũ trụ thì hình ảnh của ánh trăng im phăng phắc trông nó cũng thật như một người bạn, giống như một nhân chứng nghĩa tình mà cũng vô cùng nghiêm khắc. Có lẽ rằng cũng chính cái im lặng ấy như đang nhắc nhở nhà thơ, như cũng đang nhắc nhở tất cả chúng ta. Và chúng ta cũng biết dược rằng con người có thể vô tình con người cũng có thể lãng quên nhưng thiên nhiên nghĩa tình lắm, đã vậy quá khứ thì luôn tròn đầy luôn luôn bất diệt, hồn hậu và rộng lượng như cũ.
Soạn bài Ánh Trăng Ngữ văn 9
Thông qua đây ta như nhận thấy được cũng chính tác phẩm có kết cấu độc đáo. Bài thơ thực sự cũng giống như một chuyện nhỏ mà cũng lại được phát triển theo thời gian. Trong bài thơ cho thấy được quá khứ hồn nhiên, cũng lại vô cùng trần trụi với thiên nhiên luôn luôn thân thiết với vầng trăng. Thế rồi còn hiện tại, về thành phố, sống với các tiện nghi hiện đại có cửa gương, điện sáng. Lúc này đây thì chính vầng trăng bị lu mờ coi chẳng khác gì như người dưng qua đường. Cũng chính nhờ mất điện mà gặp lại vầng trăng, con người lúc này đây dường như cũng đã giật mình về thái độ sống vô tình của mình trong quãng thời gian về thành phố. Sự giật mình được đánh giá là một yếu tố quan trọng, đồng thời nó cũng chính là một sự bừng thức để có thể soi lại bản thân. Đồng thời lại còn là một các để có thể xét lại cách sống như vô tình, vô hình, dửng dưng khi quay lưng lại với quý khứ tốt đẹp tình nghĩa.
Tác giả Nguyễn Duy thật tài tình biết bao nhiêu khi sử dụng giọng điệu tâm tình bằng thể thơ năm chữ, hơn nữa lại được kết hợp bởi nhịp thơ khi tuôn chảy tự nhiên, luôn luôn nhịp nhàng theo nhịp kể, khi ngân nga. Đã vậy lại còn có khi trầm lắng suy tư. Thực sự ta nhận thấy được tất cả những điều đó góp phần quan trọng trong chính những việc bộc lộ những cảm xúc sâu xa của một người lính khi nghĩ về chiến tranh, về quá khứ của chính mình.
Chúng ta đều biết được rằng chính bài thơ viết năm 1978 sau hòa bình ba năm. Ta như nhận thấy được cũng chính với những người kháng chiến gian khổ ở rừng núi đã trở về thành phố. Những người lính này họ cũng đã có một cuộc sống mới thời bình. Dễ dàng nhận thấy nhất cũng chính là các phương tiện sống khác xa thời chiến tranh. Thực sự cũng chính câu chuyện riêng này được đánh giá cũng chính là lời tự nhắc nhở thấm thía về thái độ, về cả tình cảm đối với quá khứ gian lao mà vô cùng tình nghĩa biết bao nhiêu đối với thiên nhiên, đất nước cũng thật bình dị hồn hậu.
Bài thơ “Ánh trăng” không chỉ là chuyện của riêng nhà thơ mà nó lại còn mang được một ý nghĩa đối với cả một thế hệ. Không chỉ dừng lại ở đó ta nhận thấy được được bài thơ có ý nghĩa với nhiều người cũng lại có ý nghĩa với nhiều thời. Lý do chính bởi vì nó đặt ra vấn đề thái độ với quá khứ, thái độ với người đã khuất, với cả chính mình nữa.
Tóm lại ta nhận thấy được bài thơ nằm trong mạch cảm xúc “Uống nước nhớ nguồn” gợi đạo lý thủy chung tình nghĩa. Thực sự đó cũng chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta từ xưa cho đến nay.
Chúc các em học tốt!
Minh Minh
Soạn Bài Ánh Trăng Ngữ Văn 9 Đầy Đủ
– Bài thơ gồm 6 khổ thơ, được chia làm 3 phần:
Ba khổ thơ đầu tác giả kể lại tuổi thơ và khi đi lính làm bạn với ánh trăng, sau đó là sự thay đổi của cuộc sống trong hoà bình.
Khổ thứ 4 là sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng.
Hai khổ cuối thể hiện cảm xúc, suy tư của nhà thơ về những năm tháng tuổi thơ, năm tháng là ngưòi lính và những suy tư về cuộc đời.
– Bài thơ như một câu chuyện nhỏ kể theo một trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại nên bài thơ giàu cảm xúc trữ tình và có cả yếu tố tự sự đan xen. Qua ánh trăng thiên nhiên, tác giả đã bộc lộ cảm xúc; tâm trạng của mình về những năm tháng đã qua và năm tháng của hiện tại.
– Hình ảnh vầng trăng mang nhiều tầng ý nghĩa. Ánh trăng trở thành một biểu tượng để tác giả gửi gắm dòng cảm xúc của mình. Vầng trăng xuất hiện trong hai thời điểm khác nhau: ánh trăng gắn bó với nhà thơ hồi nhỏ, hồi chiến tranh và sự vô tình của tác giả với trăng khi về thành phố. Trong quá khứ của tuổi thơ, của cuộc đời người lính, trăng là hình ảnh thiên nhiên tươi tắn:
“Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ.”
– Khi ở núi rừng gắn bó với cuộc đời lính, ánh trăng trở thành “tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa”, vầng trăng thiên nhiên là người bạn đồng hành soi sáng nơi rừng núi, trăng vừa hồn nhiên, vừa gần gũi thân quen như cỏ cây quen thuộc. Ánh trăng được nhắc đến vừa bình dị, vừa nghĩa tình mà tác giả “ngỡ không bao giờ quên”. Song, sau khi về thành phố, sống một cuộc sống mới đầy đủ “ánh điện”, “cửa gương” tác giả đã vô tình quên mất “vầng trăng tình nghĩa” ấy. Cuộc sống hiện đại bộn bề công việc, cuốn con người đi theo, chỉ cần một sự vô tình, con người có thể quên đi những phút giây đáng nhớ hay những kĩ niệm êm đẹp một thời. Có ánh điện chiếu sáng rồi, vầng trăng không còn được chú ý đến nữa. Cuộc sống đã thay đổi, còn ánh trăng vẫn thế, vẫn chiếu sáng nơi nơi. Trăng vẫn là trăng của trời, biến, núi rừng ngày nào, nhưng giờ đây nơi cuộc sống đô thị, trăng đã thành “người dưng qua đường”. Trăng từ người “tri kỉ”, “tình nghĩa” đã trở thành “người dưng qua đường”, không có ai, kể cả tác giả, còn để ý đến vầng trăng nữa.
– Và rồi cuộc sống cứ thế trôi qua, trôi qua đến lúc thành phố mất điện, các toà nhà cao tầng bỗng tối om, vầng trăng mới đột ngột xuất hiện. Trong khoảnh khắc ấy, nhà thơ như gặp lại chính mình, gặp lại tuổi thơ, gặp lại vầng trăng tình nghĩa ngày xưa.
“mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng.”
– Ánh trăng đã ùa vào tâm trí nhà thơ với niềm cảm xúc rưng rưng. Trong mạch cảm xúc, suy tư ấy, vầng trăng mang một ý nghĩa biểu tượng đặc biệt. Trăng “cứ tròn vành vạnh”, vẫn tròn trịa đầy ân tình, vẫn trước sau thuỷ chung như một, vẫn hoàn thiện thế, vẫn đẹp, bình dị dù con người có vô tình. Để một ngày kia bất chợt nhìn lại, bản thân ta giật mình trưốc ánh trăng lặng im không nói. Ánh trăng không còn dừng lại ở hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, hồn nhiên nữa, mà là biểu tượng cho quá khứ đẹp đẽ, cho những ngày gian nan nên vầng trăng vẫn còn nguyên vẹn không thể phai mờ. Ánh trăng là một nhân chứng, một tấm gương chiếu rọi về cuộc sông, quá khứ, hiện tại và cả tương lai.
– Cuộc sống dù có đổi khác nhưng vầng trăng vẫn “tròn vành vạnh” để nhắc nhở chúng ta luôn tưởng nhớ về quá ‘khứ, về kỉ niệm của những năm tháng đã đi qua. Khổ thơ cuối trong bài thơ đã thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh trăng cũng như chiều sâu tư tưởng triết lí của tác phẩm.
– Ánh trăng là một bài thơ mộc mạc, giản dị nhưng là lời nhắc nhỏ nghiêm khắc với chúng ta về những kỉ niệm, những ân tình, những năm tháng quá khứ gian lao đã qua.
– Từ câu chuyện tâm tình của một người đã trở thành chuyện của muôn người, chuyện của cả một thế hệ. Tuổi thơ nghèo khó đã qua, những năm tháng gian lao, khắc nghiệt của cuộc chiến tranh đã đi qua, cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, với núi rừng cũng qua đi. Đất nước đã hoà bình, cuộc sống hiện đại cuốn con người đi cùng với những bề bộn công việc, con người dễ lãng quên quá khứ, quên chính bản thân mình.
– Bài thơ là lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hoà và nêu lên một đạo lí sống, lẽ sống của người Việt Nam “Có trước có sau”, “Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ, khi sung sướng không quên lúc cơ hàn.
– Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc. Thế hệ Nguyễn Duy từng trải qua những năm tháng gian lao, khắc nghiệt, từng sống giữa núi rừng thiên nhiên tình nghĩa, sông giữa tình đồng đội và tình bao bọc của nhân dân.
– Nhà thơ đứng trên mảnh đất hôm nay để ngẫm lại quá khứ đã qua, và đi từ tâm trạng riêng đến tiếng nói chung của mọi người, vầng trăng trong bài thơ mang tính biểu tượng, trăng không chỉ là thiên nhiên mà còn là quá khứ tình nghĩa. Vì vậy, bài thơ gợi nhắc mọi người nhớ về cội nguồn và trở về với lẽ sống chung thuỷ tình nghĩa.
Tuổi thơ của tôi gắn bó với làng quê, với những cánh đồng thơm hương lúa chín, với dòng sông êm đềm nơi tôi tắm mát những ngày thơ dại. Mỗi đêm, trên chiếc chõng tre, bà thường kể tôi nghe bao câu chuyện cổ tích ngọt ngào dưới ánh trăng hiền hòa. Ánh trăng như người bạn thuở thiên thiếu, đã lớn lên cùng tôi nơi làng quê thanh tịnh. Năm tháng ấy cứ êm đềm trôi qua. Rồi đất nước bỗng lâm cảnh chiến tranh loạn lạc, tôi lên đường chiến đấu theo tiếng gọi của quê hương. Nơi rừng xa thanh vắng, nơi ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Tôi nhớ làng quê, nhớ gia đình. Ngước lên ánh trăng trên cao, trăng tỏa sáng dịu hiền như muốn chia sẻ những nỗi buồn cùng tôi. Giữa cuộc sống trần trụi với thiên nhiên, cỏ cây, trăng như người bạn tri âm tri kỉ, đã cùng tôi đi qua những ngay chiến đấu gian khổ. Có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ quên được vầng trăng tình nghĩa, đã luôn đồng hành cùng tôi trong cuộc đời. Vậy mà, chiến tranh kết thúc, hòa bình lập lại. Tôi trở về thành phố, những ngôi nhà ống san sát, những ánh đèn cao áp, cuộc sống đầy đủ tiện nghi vật chất đã lôi cuốn tôi. Những kí ức năm xưa về làng quê với ánh trăng thanh bình, tôi đã dần lãng quên. Rồi một đêm tối nọ, bỗng ánh đèn khắp thành phố vụt tắt, không khí trở nên ngột ngạt hơn. Tôi đưa tay mở tung cánh cửa sổ. Lạ thay, ánh sáng chiếu vào tôi lúc nào dịu mát làm sao, đó không phải là ánh đèn điện nóng bức ngày hè. Đó là ánh trăng – vầng trăng tròn vành vạnh tỏa sáng trên bầu trời đêm. Tôi với trăng, mặt đối mặt, nhìn nhau, thật lâu. Bỗng, trong lòng tôi có cái gì đó rưng rưng, Bao nhiêu ký ức chợt ùa về. Hình ảnh của những cánh đồng bao la, những dòng sông, những hồ bể, những cánh rừng cứ hiện lên trong đầu tôi. Bao năm trôi qua, mái tóc tôi đã điểm hoa râm nhưng trăng vẫn không thay đổi, vẫn tròn vành vạnh như lúc xưa. Trăng vẫn đứng im trên bầu trời trong xanh, tỏa sáng khắp nhân gian. Trăng vẫn như chờ tôi bên ngoài cửa sổ biết bao năm nay. Tôi đã quá thờ ơ với trăng, đã vô tình quên đi những kỷ niệm đẹp đẽ giữa trăng và tôi. Trăng cứ nhìn tôi, im lặng. Tôi bỗng giật mình. Sự im lặng của trăng cứ như một lời trách móc tôi, oán hận tôi vì sao đã quên đi người bạn tri kỷ. Phải chăng tôi đã quá vô tình, sống nơi thị thành xa hoa giàu có mà đã lãng quên đi tuổi thơ nghèo khó, quên đi người bạn đã gắn bó thủy chung bên mình, quên đi bao tháng ngày tuổi trẻ. Lòng tôi nghẹn đắng, giọt nước mắt như trực trào ra. Và tôi đã hứa, lời hứa thật lòng, khắc sâu trong đầu tôi, là không bao giờ được quên đi ánh trăng – người bạn ân nghĩa, thủy chung đã gắn bó cùng tôi suốt thời thơ ấu và cả chặng đường chiến đấu gian lao vất vả trong quá khứ.
Soạn Văn 9 Bài Ánh Trăng Vnen
A. Hoạt động khởi động
Kể tên những bài thơ viết về ánh trăng mà em đã được học. Nêu cảm nhận về hình ảnh trăng trong một bài thơ.
Những bài thơ viết về ánh trăng đã học:
“Cảnh khuya” – Hồ Chí Minh
“Rằm tháng giêng” – Hồ Chí Minh
“Ngắm trăng” – Hồ Chí Minh
Cảm nhận về hình ảnh trăng trong bài thơ “Cảnh khuya” của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.”
Hai câu đầu bài thơ “Cảnh khuya” miêu tả cảnh trăng sáng trong đêm khuya. Giữa đêm rừng Việt Bắc thanh vắng, yên ả vang lên tiếng suối chảy róc rách, trong trẻo “như tiếng hát xa”. Bao trùm cả bức tranh là ánh trăng sáng hòa quyện, gần gũi và tràn đầy sức sống “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”. Ánh trăng soi chiếu xuống cây cổ thụ làm in trên mặt đất những mảng màu sắc sáng tối, tạo nên cảnh chập chùng của ánh trăng. Hình ảnh “Trăng lồng cổ thụ” mang nét đẹp cổ điển của ánh trăng trong thơ cổ, khi kết hợp với hoa, hình ảnh ấy đã tạo nên vẻ đẹp đầm ấm, quấn quýt của thiên nhiên. Hai từ “lồng” liên kết ba sự vật riêng biệt, khác hẳn nhau nhưng lại không hề tương phản mà dường như chúng lại hòa quyện, đan xen tạo nên một bức tranh sống động và vô cùng gợi cảm. Cảnh trong hai câu thơ đầy thơ mộng, trong trẻo, dịu dàng và thật ấm áp.
B. Hoạt động hình thành kiến thức 1. Đọc văn bản “Ánh trăng” 2. Tìm hiểu văn bảna) Dựa vào mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình, hãy chỉ ra bố cục của bài thơ.
Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình:
Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian, từ quá khứ đến hiện tại với các mốc sự kiện trong cuộc đời con người. Dòng cảm nghĩ trữ tình của nhà thơ cũng men theo dòng tự sự này mà bộc lộ và cuối cùng đọng lại trong cái “giật mình” ở cuối bài thơ.
Dựa theo mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình, bài thơ có thể chia theo bố cục 3 phần:
Phần 1 (hai khổ đầu): kỉ niệm của tác giả gắn bó với vầng trăng, nhịp thơ là lời tự sự nhẹ nhàng về quá khứ.
Phần 2 (hai khổ tiếp): Sự lãng quên vầng trăng khi sống trong môi trường mới và bất ngờ gặp lại vầng trăng khi đột ngột mất điện. Giọng thơ thể hiện sự đột ngột, ngỡ ngàng
Phần 3 (hai khổ cuối): Sự đối diện với vầng trăng và suy ngẫm về những ngày đã sống cùng vầng trăng. Giọng điệu trở nên trầm lắng và tha thiết hơn.
b) Trong khoảng thời gian từ hồi nhỏ cho đến “thời chiến tranh ở rừng”, nhân vật trữ tình và vầng trăng có mối quan hệ như thế nào?
Trong khoảng thời gian từ hồi nhỏ cho đến “thời chiến tranh ở rừng”, nhân vật trữ tình và vầng trăng là những người bạn tri kỉ của nhau.
Cuộc sống vất vả, gian lao nhưng con người gần gũi và gắn bó với thiên nhiên, với “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng”,… Điệp từ “với” được lặp lại ba lần nhằm diễn tả sự gắn bó chan hòa của con người với thiên nhiên, với những điều tươi đẹp của tuổi thơ. Trong những năm tháng gian lao, ác liệt của “hồi chiến tranh ở rừng”, vầng trăng đã trở thành người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ, là đồng chí, đồng đội cùng chia sẻ những vui buồn trong chiến trận với người lính.
Trăng hiện diện như là hình ảnh của quá khứ tươi đẹp và chan hòa tình nghĩa: “Trần trụi với thiên nhiên/ Hồn nhiên như cây cỏ”. Phép liên tưởng và so sánh cho ta thấy được vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, trong sáng, rất đỗi vô tư, hồn nhiên của vầng trăng.
Bài làm:
d) Điều gì khiến nhân vật trữ tình giật mình nhận ra sự thay đổi của mình?
Khi con người đã coi vầng trăng “như người dưng qua đường”, thì bỗng:
“Thình lình đèn điện tắt phòng buyn-đinh tối om vội bật tung cửa sổ đột ngột vầng trăng tròn.”
Khi “thình lình”, đột ngột “đèn điện tắt” là lúc ánh sáng hiện đại, nhân tạo mất đi. Con người “vội bật tung cửa sổ” theo bản năng, như một thói quen. Và trong khoảnh khắc từ bóng tối bước ra ánh sáng, con người đã không khỏi ngỡ ngàng khi gặp lại, đối diện với vầng trăng tròn khi xưa. Chính cái khoảnh khắc bất ngờ, đột ngột ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch cảm xúc của nhà thơ.
Con người lặng lẽ đối diện với vằng trăng trong tư thế có phần thành kính:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng. “
Đối diện với ánh trăng là sự đối diện với chính mình, với con người hiện tại và cả với con người trong quá khứ. Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Dù con người đã đổi thay thì vầng trăng vẫn “tròn vành vạnh”. “Ánh trăng im phăng phắc” như một lời nhắc nhở, trách cứ đầy nghiêm khắc khiến con người bừng tỉnh và “giật mình” nhận ra sự thay đổi bạc bẽo của mình. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự đấu tranh với chính mình để sống tốt đẹp hơn.
Bài làm:
C. Hoạt động luyện tập 1. Luyện tập đọc hiểua) Đọc văn bản “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” b) Tìm hiểu văn bản
(1) Bài thơ mang hình thức lời hát ru những em bé dân tộc Tà – ôi ở chiến khu Trị – Thiên khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt. Em hãy cho biết lời hát ru chia thành mấy khúc? Mỗi khúc được nhận ra bằng dấu hiệu nào?
Lời hát ru được chia làm 3 khúc, mỗi khúc có 2 khổ thơ:
Khúc thứ nhất: Khúc hát ru của người mẹ thương con, thương bộ đội.
Khúc thứ hai: Khúc hát ru của người mẹ thương con, thương dân làng.
Khúc thứ ba: Khúc hát ru của người mẹ thương con, thương đất nước.
Mỗi khúc được nhận ra bằng dấu hiệu:
Từng khúc đều được mở đầu bằng hai câu: “Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi – Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ” và kết thúc bằng lời ru trực tiếp của người mẹ: “Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi.”
Bài làm:
Bài làm:
(4) Em có nhận xét gì về ngôn ngữ, giọng điệu bài thơ?
Cấu trúc lặp đi lặp lại của lời ru tạo giọng điệu trữ tình, tha thiết, vừa mở rộng, vừa xoáy sâu vào trong lòng người đọc sự ngọt ngào, trìu mến.
2. Tổng kết từ vựnga) Đọc bài ca dao và thực hiện yêu cầu “Nước non lận đận một mình Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay Ai làm cho bể kia đầy Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?”
(Ca dao)
(1) Trong hai từ “nước non” và “lận đận”, từ nào là từ láy?
Trong hai từ “nước non” và “lận đận”, từ “lận đận” là từ láy.
(2) Tìm các từ thuộc trường từ vựng chỉ thiên nhiên.
Các từ thuộc trường từ vựng chỉ thiên nhiên: nước non, thác, ghềnh, bể, ao.
(3) Chỉ ra và nêu tác dụng của các cặp từ trái nghĩa.
Các cặp từ trái nghĩa:
lên – xuống: nhấn mạnh sự vất vả, gian truân trong cuộc đời.
đầy – cạn: nhấn mạnh cảnh đời ngang trái, loạn lạc, bể đầy, ao cạn.
b) Từ “chân” trong câu thơ nào sau đây được dùng theo nghĩa chuyển? Chỉ ra phương phức chuyển nghĩa của từ?
(1) Cỏ non xanh tận chân trời.
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
(2) Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
(Chính Hữu – Đồng chí)
Từ “chân” trong câu thơ “Cỏ non xanh tận chân trời” được dùng theo nghĩa chuyển.
Phương thức chuyển nghĩa là phương thức ẩn dụ.
c) Bằng hiểu biết về trường từ vựng, em hãy phân tích nét độc đáo về nghệ thuật trong bài thơ sau:
Áo đỏ em đi giữa phố đông
Cây xanh như cũng ánh theo hồng
Em đi lửa cháy trong bao mắt
Anh đứng thành tro, em biết không?
(Vũ Quần Phương, Áo đỏ)
Trong đoạn thơ, tác giả đã xây dựng hai trường từ vựng:
Trường từ vựng chỉ màu sắc: đỏ, xanh, hồng, tro.
Trường từ vựng chỉ lửa và những sự vật, hiện tượng có quan hệ liên tưởng với lửa: lửa, cháy, tro.
Các từ thuộc hai trường từ vựng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhờ nghệ thuật dùng từ, bài thơ đã xây dựng được những hình ảnh gây ấn tượng mạnh với người đọc. Qua đó thể hiện độc đáo một tình yêu mãnh liệt và cháy bỏng.
d) Đọc bài thơ và thực hiện yêu cầu
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
(Bà Huyện Thanh Quan, Thăng Long thành hoài cổ)
(1) Chỉ ra những từ Hán Việt và nhận xét về cách dùng từ trong bài thơ.
Những từ Hán Việt trong bài thơ: hí trường, tinh sương, thảo, tịch dương, tuế nguyệt, tang thương, đoạn trường.
Việc vận dụng các từ Hán Việt một cách linh hoạt đã mang đến cho bài thơ màu sắc cổ điển, trang trọng, làm nên giá trị của “Thăng Long thành hoài cổ” và đóng dấu phong cách riêng của nữ sĩ thành Thăng Long so với các nhà thơ trung đại khác cùng thời.
Bài làm:
e) Phân tích hiệu quả của biện pháp nghệ thuật so sánh và điệp ngữ trong những câu thơ miêu tả tiếng đàn của Thúy Kiều: Trong như tiếng hạc bay qua, Đục như tiếng suối mới sa nửa vời. Tiếng khoan như gió thoảng ngoài, Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
( Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Biện pháp nghệ thuật so sánh và điệp ngữ được sử dụng rất đặc sắc và tinh tế, giúp diễn tả một cách sống động và gợi cảm âm thanh tiếng đàn của Thúy Kiều. Từ những tính chất vô hình và trừu tượng như “đục” và “trong”, “khoan”, “mau”, qua biện pháp so sánh đã được cụ thể hóa, chi tiết hóa, nghệ thuật hóa một cách đặc sắc.
3. Luyện tập về sử dụng yếu tố nghị luận trong văn tự sựa) Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu
( Lỗi lầm và sự biết ơn – sgk trang 100)
(1) Trong đoạn văn trên, yếu tố nghị luận thể hiện ở những câu văn nào?
Yếu tố nghị luận thể hiện ở những câu văn:
“Những điều viết lên cát sẽ mau chóng xoá nhoà theo thời gian, nhưng không ai có thể xoá được những điều tốt đẹp đã được ghi tạc trên đá, trong lòng người.”
“Vậy mỗi chúng ta hãy học cách viết những nỗi đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa lên đá”.
(2) Nêu tác dụng của các yếu tố nghị luận trong đoạn văn.
Yếu tố nghị luận có tác dụng khiến câu chuyện trở nên sâu sắc và có ý nghĩa.
……………………………………………………………..
Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Bài: Ánh Trăng – Ngữ Văn 9 Tập 1 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!