Bạn đang xem bài viết Phân Tích Tác Phẩm Vợ Nhặt Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
I. Tìm hiểu chung để phân tích tác phẩm Vợ nhặt.
1. Tác giả
- Kim Lân (1920 – 2007) sinh ra tại Bắc Ninh và sinh thời ông ở tại Hà Nội để học tập và làm việc.
Nhà văn Kim Lân
- Gia đình ông khá khó khăn nên phải đi làm từ nhỏ khi còn tiểu học.
- Các tác phẩm của ông mang đậm chất chân thực nông thôn Việt Nam tiêu điều, ảm đạm và cuộc sống cùng cực của người nông dân trong giai đoạn khó khăn vô cùng của dân tộc.
- Những tác phẩm nổi tiếng của ông: Vợ nhặt, Đứa con người vợ lẻ, Đứa con người cô đầu,…
2. Tác phẩm
- Vợ nhặt là một trong rất nhiều tác phẩm đặc sắc của Kim Lân phản ánh rõ nhất cuộc sống của người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945 và những giá trị tốt đẹp mà tác giả gửi gắm.
- Tác phẩm Vợ nhặt được in trong tập Con chó xấu xí (1962).
II. Phân tích tác phẩm Vợ nhặt chi tiết
1. Ý nghĩa nhan đề và phân tích tình huống truyện Vợ nhặt
– Ý nghĩa nhan đề:
+ Vợ: biểu tượng cho mái ấm hạnh phúc gia đình, có ý nghĩa lớn lao, mang vai trò thiêng liêng, trách nhiệm cao cả.
+ Nhặt: hành động quá đỗi rẻ rúng đến tầm thường như việc nhặt một món đồ người ta đã vứt bỏ, một thứ gì đó rơi rớt, vô giá trị.
– Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt: Trong thời điểm thảm khốc của nạn đói 1945, Tràng – một chàng trai có vẻ ngoài xấu xí, gia cảnh thì nghèo khổ, sống trong xóm ngụ cư, bản tính ngốc nghếch và rồi cũng vì cái nghèo mà không lấy được vợ nhưng duyên nợ đã cho chàng cái cơ may “nhặt” được vợ (vợ theo về không).
Nạn đói kinh hoàng năm 1945
2. Vẻ đẹp của nhân vật Tràng
– Xuất thân: sinh ra trong một gia đình nghèo, nhà chỉ có hai mẹ con thui thủi, ở trong xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe thuê.
– Diễn biến tâm lí:
a, Cuộc gặp gỡ định mệnh và quyết định nhặt vợ
– Lần đầu: Tràng hò bông đùa vô tư mà không có bất cứ tình ý gì với cô gái phụ đẩy xe cùng mình.
– Lần thứ 2:
+ Khi người đàn bà nhanh chóng quyết định theo chàng về: Ban đầu, Tràng lo sợ “chợn nghĩ” nhưng khát vọng hạnh phúc và tình yêu thương mãnh liệt lại lớn hơn tất cả, rồi Tràng tặc lưỡi: “chậc kệ”.
b, Trên đường về nhà
– Tràng mua dầu về thắp để căn nhà vốn tăm tối bao năm trở nên sáng sủa.
c, Khi về đến nhà
– Anh chàng xông xáo xắn tay vào dọn dẹp và ngại ngùng thanh minh cho sự bừa bộn bởi thiếu hơi đàn bà, thiếu bàn tay săn sóc, sửa sang của người phụ nữ.
– Khi ngồi chờ mẹ về, Tràng trong cảm giác “sờ sợ” đầy thấp thỏm, lo âu vì sợ rằng người vợ mà anh vừa mới nhặt được sẽ bỏ đi vì nhà anh nghèo, hoàn cảnh mẹ chiếc con côi khó khăn, cùng cực, sợ niềm hạnh phúc nhỏ bé anh mới có được sẽ tuột khỏi tay.
– Khi mẹ về, Tràng thưa chuyện với bà cụ Tứ một cách vô cùng trịnh trọng, thuyết phục mẹ lý do có vợ là “phải duyên”, và hồi hộp, căng thẳng mong mẹ tác hợp.
– Khi mẹ tỏ thái độ đồng ý vun đắp cho đôi trẻ thì Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
d, Sáng hôm sau
– Tràng thấy mọi thứ xung quanh mình khác hẳn và chính chàng cũng có sự khác biệt: “êm ái lửng lơ như người trong cõi mơ đi ra”
– “Cảm động, thấy yêu thương, gắn bó và thấy mình phải có trách nhiệm với cái gia đình này”.
3. Vẻ đẹp của nhân vật Thị
– Ngoại hình, tính cách:
+ “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, “áo quần rách như tổ đỉa”, “cái nón cà tàng che nửa khuôn mặt”, “cái ngực gầy tẹp lép nhô lên”
+ “chao chát”, “chỏng lỏn”, cong cớn, sưng sỉa, vô duyên
+ “ăn thật nhá…”, “sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc”, “ăn xong cầm dọc đũa quệt ngang miệng “Hà! Ngon!”
– Diễn biến tâm lí:
a, Gặp gỡ Tràng
+ Khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”
+ Khi thị nghe Tràng nói câu bông đùa “đằng ấy có về với tớ… cùng về”, thị đã nghĩ là thật và đồng ý theo về ngay mà chẳng bận tâm suy nghĩ, thị cũng chẳng có thông tin gì về Tràng và gật đầu đồng ý về làm vợ cũng chẳng cần sính lễ.
b, Trên đường về
– Rón rén, e thẹn đi sau Tràng
– Đầu hơi cúi xuống
c, Về đến nhà
d, Sáng hôm sau
– Hiền hậu, đúng mực chứ không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” nữa.
4. Vẻ đẹp của nhân vật bà cụ Tứ
– Hoàn cảnh: Người mẹ già nua, héo úa trong cảnh nghèo khổ, chịu nhiều thiệt thòi, sống cùng con trai.
– Diễn biến tâm lí:
a, Khi vừa về đến nhà
– Bà thực sự ngạc nhiên chưa hình dung ra câu chuyện trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch.
– Bà còn ngạc nhiên hơn trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ ở trong nhà.
– Khi hiểu ra cơ sự thì “mắt bà nhoèn đi”, vừa đau đớn, tủi cực, vừa xót xa xen lẫn vui mừng.
b, Sáng hôm sau
– Bà dậy sớm cùng nàng dâu mới chăm bẵm vườn tược, chăm lo cho ngôi nhà của mình
– “gương mặt bủm beo, u ám ngày thường rạng rỡ hẳn lên”
– Trong bữa cơm, bà nói về tương lai với sự hứng khởi, niềm lạc quan, đầy hy vọng và bảo ban các con cùng nhau làm ăn,…
III. Tổng kết phần phân tích tác phẩm Vợ nhặt
1. Gía trị nội dung
– Tác phẩm Vợ nhặt chất chứa những giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh một cách chân thực tình cảnh khốn khó của người nông dân trong nạn đói thê thảm. Bên cạnh đó, hình ảnh những người nông dân hiện lên với bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt.
2. Gía trị nghệ thuật
– Tình huống truyện tự nhiên, sáng tạo, độc đáo.
– Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố hiện thực và nhân đạo.
– Nghệ thuật độc thoại, đối thoại nội tâm.
– Cách kể chuyện gần gũi, tự nhiên.
Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật Người Vợ Nhặt Trong Tác Phẩm Vợ Nhặt Hay Nhất
Đề bài: Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong Vợ nhặt
Dàn ý mẫu I. Mở bài– Giới thiệu tác giả Kim Lân: là cây bút chuyên viết Truyện ngắn, ông am hiểu sâu sắc đời sống của người nông dân và thường tập trung viết về họ.
– Vợ nhặt là một trong số những truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân của ông. Nhân vật đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm này chính là người vợ nhặt.
II. Thân bài1. Lai lịch
– Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
– Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.
2. Chân dung
– Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
– Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
– Lần thứ hai:
+ Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
+ Khi nghe ràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ … cùng về”, thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.
– Nhận xét: cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.
3. Phẩm chất
– Có khát vọng sống mãnh liệt:
+ Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
+ Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
– Thị là người ý tứ và nết na:
+ Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
+ Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong giá đình.
+ Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
+ Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
+ Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà buồn.
– Nhận xét: cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
– Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
– Nêu cả nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.
III. Kết bài– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, xây dựng hình tượng nhân vật thành công, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, …
– Tác phẩm chứa đựng giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc: người đọc hiểu và cảm thông với cảnh ngộ thương tâm, rẻ rúng của người lao động trong nạn đói, tố cáo thực dân, phát xít, ngợi ca khát vọng sống trong cảnh cơ cực.
Ngân hàng trắc nghiệm miễn phí ôn thi THPT Quốc Gia tại chúng tôiPhân Tích Nhân Vật Thị Trong Tác Phẩm Vợ Nhặt
Ai đó từng nói rằng ” Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả sau lưng bạn”. Bởi nói như nhà văn Nguyễn Khải “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc bắt nguồn từ những gian khổ hy sinh. Ở đời không có con đường cùng chỉ có những ranh giới điều cốt yếu là phải có đủ sức mạnh để bước qua ranh giới đó”. Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân ta càng hiểu sâu sắc và thấm thía hơn chân lý đó. Ta không khỏi xót xa, ngậm ngùi thương cho hoàn cảnh éo le, mừng vui cho niềm tin của con người vào tương lai mới mà còn rưng rức trước tình cảm yêu thương của hơi ấm gia đình.Vậy điều đó thể hiện như thế nào qua hình ảnh nhân vật Thị?
Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân được viết trên nền cái đói của năm 1945. Chân dung nhân vật Tràng được Kim Lân miêu tả có ngoại hình thô kệch, xấu xí với công việc làm thuê ngật ngưỡng bước ra trong đói nghèo ấy. Thị, cô gái kém duyên đang vật lộn với cái đói. Hai người họ gặp nhau vỏn vẹn có hai lần rồi thành đôi chỉ bằng bát bánh đúc với vài câu bông đùa. Tràng dẫn Thị về trong cái nắng chiều chạng vạng trước sự bất ngờ của tất cả người dân xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ- mẹ Tràng nhìn nàng dâu mới mà lo cho con liệu có đùm bọc nhau trong cảnh nghèo, lại mừng vui hạnh phúc vì khó khăn hay đói khổ cũng không ngăn đôi lứa nên duyên. Họ cùng nhau vun vén cửa nhà, san sẻ từng bữa ăn. Trong hạnh phúc ấy, câu chuyện khép lại với hình ảnh nhân dân phá kho thóc Nhật và lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong óc Tràng.
Thị là nhân vật mang đầy đủ những nét tiêu biểu của người lao động nghèo trong nạn đói khủng khiếp. Dưới ngòi bút của Kim Lân, chân dung Thị hiện lên như một con ma đói, áo quần luộm thuộm, gương mặt lấm lem với “cái ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, không có nổi cái tên mà vỏn vẹn chữ “Thị”. Cô gái đói đến độ phải nhặt đồ rơi vãi, nghe ba câu hò mà vội chạy đến đẩy xe bò. Thị gặp Tràng nhưng không ăn trầu mà ăn bánh đúc rồi quẹt đũa ngang miệng “chà ngon”. Ta chỉ thấy chân dung Thị chao chát, chỏng lỏn. Vậy nhưng qua ngòi bút đầy tài năng của tác giả, người vợ anh Tràng hiện lên có cong cớn, rất cong cớn nhưng không nanh nọc và tính cách ấy phải chăng do dốt nát, đói nghèo, tăm tối chứ tuyệt nhiên không sinh ra từ cái ác, cái xấu. Nhân vật Thị hiện lên chua xót hơn khi cuộc hôn nhân cả đời người cũng chỉ bắt đầu bằng vài ba câu tầm phào của Tràng mà khiến người đàn bà quên hết sĩ diện, nết na, đức hạnh để xà xuống ăn hết bát bánh đúc, theo Tràng về làm vợ mà không dò hết ngọn ngành nguồn sông. Chính cái đói đã khiến thân phận con người bọt bèo, rẻ mạt đến vậy.
Khi gặp Tràng thì đanh đá, chỏng lỏn nhưng khi về làm dâu, Thị lại là người vợ đảm đang, con dâu hiếu thảo. Thị theo Tràng về như đến một chốn có thể nương tựa trong cái đói đang rình rập. Trên con đường về nhà Tràng, cô Thị đanh đá bỗng trở nên dịu dàng, e dè, ngượng ngập. Đôi mắt tư lự khi bỡ ngỡ đặt chân đến ngôi nhà mới, dáng điệu khép nép ngồi và câu chào lúng túng…tất cả làm cho Thị có cảm giác của một nàng dâu mới. Từ khi làm vợ, Thị đảm đang và dịu dàng hơn cả, cô cùng mẹ sửa sang cửa nhà, dọn dẹp vườn tược và vui vẻ trong bữa ăn loãng thếch, đắng chát. Thị kể về câu chuyện những người cướp kho thóc Nhật với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Chính nó làm lóe lên ánh sáng tia hy vọng về tương lai mới, mở ra con đường đấu tranh đi đến Cách mạng. Rõ ràng, Thị dần dần nhận được đủ đầy cảm xúc từ chữ “tình”, có ý thức về bổn phận và trách nhiệm của mình. Quả đúng, dù trong túng đói tột cùng thì tình cảm vẫn quý hơn manh áo bởi nó khiến con người được sống là chính mình, được nên người.
Truyện ngắn Vợ nhặt là lời kết tội đanh thép đối với thực dân Pháp và phát-xít Nhật cùng bọn phong kiến tay sai đã đẩy con người vào thảm cảnh chết đói khủng khiếp, mạng người như cỏ rác. Không chỉ vậy, Vợ nhặt còn mang ý nghĩa nhân bản sâu xa rằng dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết, con người vẫn yêu thương, trân trọng, đùm bọc lẫn nhau, vẫn khát khao hạnh phúc, muốn sống như một con người, sống nên người.
Nam Cao từng nói “Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm”, nó quả đúng với nhân vật Thị trong Vợ nhặt. Tôi nghĩ, đó là cái lườm yêu của cô Thị không chỉ thật xấu mà còn thật rách và còn thật đói. Nhưng có lẽ khi đong đưa con mắt, Tràng và Thị, họ đã quên đi cuộc sống ở cõi trần đang mấp mé bờ vực cõi âm, cõi âm như hòa với cõi trần, để chỉ còn nhớ đến sự thương yêu. Thật trân trọng và cảm phục biết bao trước những giản dị của hạnh phúc của đời thường!
Phân Tích Tác Phẩm Vợ Nhặt Của Nhà Văn Kim Lân
Bài làm
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, “người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợi, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái ao nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.
Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực.
Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ không phải lấy được. Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hội bấy giờ.
Hình anh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh ” thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén,e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.
Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu hiu, ảm đảm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Không còn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ dường như bị cái đói, cài nghèo đè nén đếm chìm nghỉm. Bằng ngòi bút tả thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót, đắng cay cho những phận nghèo long đong.
Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người đàn bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có lẽ là vợ Tràng, ” nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để “. Người đàn bà bắt không còn chua ngoa, đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ.
Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai con người đến với nhau, không phải tình yêu nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ cảm thông và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.
Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự chuyển đổi trong tâm tinh thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thaayscos một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiển lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.
Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu dầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con.
Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân khiến người đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn.
Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nhân vật sắc sảo,độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người với người luôn bất diệt.
Phân Tích Nhân Vật Bà Cụ Tứ Trong Tác Phẩm Vợ Nhặt
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
Hướng dẫn
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
Truyện ngắn ” Vợ nhặt ” của nhà văn Kim Lân được viết trong khoảng thời gian xảy ra nạn đói khủng khiếp (1945),ông đã lấy chất liệu của cuộc sống để tái hiện hình ảnh thê thảm của nhân dân trong cảnh bần cùng. Qua đó khắc họa rõ nét các nhân vật. Đặc biệt nhân vật bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ xuất hiện trong tác phẩm là hình ảnh một người mẹ già, nghèo với nhiều lo toan,tính toán để kiếm ăn qua ngày:Bà xuất hiện với dáng đi lọng khọng,vừa đi vừa lẩm nhẩm, tính toán. Nhưng là người mẹ nhân từ, hiền hậu.
Tràng dẫn người “vợ nhặt” về giữa ngày đói khiến cho mẹ anh ban đầu hết sức ngạc nhiên,bất ngờ: Bà lão ngạc nhiên vì có người đàn bà nào lại đứng ngay ở đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Bà nghĩ mãi không phải con cái Đục, tự nhiên bà thấy mắt mình hình như nhoèn đi thì phải. Bà hết ngạc nhiên thì lại băn khoăn không biết người đàn bà kia là ai? Sao lại chào mình bằng u?
Khi Tràng giải thích rõ với bà:” Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau…”. Nói đến đây thì bà hiểu, bà cúi đầu nín lặng, lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán,xót thương,ngậm ngùi,vừa lo lắng, xen lẫn cả mừng vui,nhưng có lẽ vui thì ít mà buồn tủi,xót xa,lo lắng thì nhiều. Bà nhìn người đàn bà một lần nữa. Bà là một người hiểu biết, có sự cảm thông,bao dung, độ lượng, bà hiểu con mình, bà hiểu hoàn cảnh của Thị. Bà biết rằng người ta có gặp bước khó khăn,đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, rồi thằng con mình mới có vợ được. Bà mừng vui vì bổn phận bà làm mẹ đã không lo nổi cho con,nay đã có được vợ nhưng bà cũng lo lắng không biết chúng có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Bà tủi thân tủi phận vì người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc gia đình ăn nên làm ra những mong sinh con đẻ cái sau này còn mình thì…
Bà không chỉ là người mẹ già, nghèo, hiểu con mà còn có tấm lòng nhân từ, cưu mang, đùm bọc, lấy niềm vui, hạnh phúc của con làm lẽ sống của mình. Bà sống vì con cái. Bà thổi lên ngọn lửa, niềm tin trong hoàn cảnh đói khát tăm tối ấy.
Bà nói với người dâu mới:” Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng “. Chỉ mấy từ giản dị: ” u cũng mừng lòng ” làm cho Thị như được an ủi, Tràng thì thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Bà còn an ủi: ” Nhà ta thì nghèo con ạ “, rồi bà đưa ra triết lý:” Ai giàu ba họ, ai khó ba đời “. Điểm ấn tượng của người mẹ già này đối với người đọc là bà đã tạo ra một không khí vui vẻ cho gia đình. Bà thổi lên ngọn lửa ấm áp trong hoàn cảnh đói khát, tăm tối. Người ta thường nói: ” trẻ tương lai – già hoài niệm ” ” người mẹ già gần đất xa trời này khi có nàng dâu mới lại toàn nói chuyện vui vẻ, bàn tính chuyện làm ăn ngày mai: sửa nhà, nuôi gà,… Bà tạo ra một không khí vui vẻ như muốn làm át đi không khí thê thảm của nạn đói khủng khiếp; những tiếng khóc hờ hững của những gia đình có người chết. Bà tiếp thêm sức mạnh, niềm tin để con cái vượt qua nạn đó, hướng đến một ngày mai tươi đẹp. Đặc biệt là bữa cơm mời nàng dâu mới, thật đạm bạc chỉ có một nồi cháo loãng, ít rau chuối thái rối, mỗi người hai lưng đã hết nhẵn, nhưng bà vẫn vui vẻ đon đả mời hai con niêu cháo cám: ” chè khoán đây ngon đáo để cơ. ” Ngay cả khi Thị bưng bát cháo cám lên mắt tối sầm lại thì mẹ già ấy vẫn đon đả tươi cười: Cám đấy mày ạ! Hì. Đúng là một người mẹ đã thắp sáng niềm tin cho các con vượt qua đói khổ, đó cũng chính là tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Kim Lân là niềm tin là sự lạc quan yêu đời của người nông dân nói chung.
Nhà văn Kim Lân đã đồng cảm sâu sắc với hoàn cảnh khốn cùng của các nhân vật, trái tim nhà văn đã thực sự đập cùng nhịp đập với trái tim người mẹ già, nghèo để nói lên những nỗi niềm, thể hiện lẽ sống vì tình thương của mình.
Phân Tích Nhân Vật Vợ Tràng Trong Tác Phẩm Vợ Nhặt Của Nam Cao
Đề bài: Phân tích nhân vật vợ Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt của Nam Cao
Trong dòng văn học hiện thực, ta đã bắt gặp Tắt đèn – Ngô Tất Tố với hình ảnh người nông dân sưu cao thuế nặng. Chí Phèo bước vào trang sách đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu của văn học hiện thực phê phán. Cùng viết về đề tài người nông dân, Kim Lân một lần nữa tái hiện cuộc sống thời kì năm 1945. Trước bờ vực của cái chết, họ vẫn muốn sống, vẫn khao khát hạnh phúc, mái ấm gia đình, vẫn yêu thương nhau. Đó là “Vợ nhặt” – một tác phẩm vừa có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Và nhân vật thể hiện rõ hai giá trị ấy chính là nhân vật Thị – vợ anh cu Tràng.
Thị xuất hiện trong trang văn của Kim Lân không có tên, không gia đình, quê hương, bị cái đói đẩy ra lề đường. “Mỗi bận qua cửa nhà kho là thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đấy”. “Họ ngồi đấy nhặt hạt rơi hạt vãi hay ai có công việc gì gọi đến thì làm”. Với ngoại hình tố cáo rõ hiện thực cái đói và tội ác của bọn phát xít thực dân. “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Thị chẳng khác gì con ma đói. Thị là nạn nhân của cái đói. Cái đói không chỉ tàn phá ngoại hình Thị mà còn cả tính cách. Cái đói ấy đã đẩy Thị trở nên chao chát, chỏng lỏn, đanh đá, liều lĩnh, mất lòng tự trọng. Khi nghe Tràng hò, “Thị cong cớn”, rồi “vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng”. “Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến”, rồi “sưng sỉa nói”. Thị lại gạ ăn: “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Thế là thị “ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở”. Thị chỉ tin vào câu nói nửa đùa nửa thật của Tràng, theo Tràng về làm vợ. Chỉ bằng bốn bát bánh đúc và những lời nói bông đùa, Thị theo không Tràng về làm vợ.
Phân tích nhân vật vợ Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt của Nam Cao
Trên đường trở về nhà Tràng, nét dịu dàng của thị được trở lại. Thị có vẻ rón rén, e thẹn, vẻ cong cớn vừa nãy biến đâu mất. “Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Khi”biết xung quanh người ta đang nhìn đổ cả về phía mình, thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Về đến nhà Tràng, thị “đảo mắt nhìn xung quanh” căn nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, “cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Thị thấy, Tràng cũng không hơn gì mình. Nhưng thị không chạy trốn. Thị chạy trốn cái đói để liều lĩnh về làm vợ Tràng. Nhưng lần này thị không chạy trốn. Có lẽ bởi khát khao mái ấm gia đình. Thị “ngồi mớm ở mép giường”, lo âu, băn khoăn, lo lắng, hồi hộp, không biết bà cụ Tứ sẽ đối xử với mình ra sao. Nhưng khi cảm nhận được tình yêu thương của bà cụ, thị đã tự nhiên hơn được một chút.
Buổi sáng hôm sau, thị dậy sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, quét tước nhà cửa. Có bàn tay thị căn nhà trở nên gọn gàng sáng sủa, đầm ấm hơn. “Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong Hai cái anh nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch”. Tràng nom thị hôm nay khá lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Thị chính là người thắp sáng trong Tràng niềm tin vào tương lai. Bây giờ “hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải ko lắng cho vợ con sau này”. “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u xám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Không chỉ thế, nhân vật Thị còn nâng cao giá trị tác phẩm ở phần kết. Cùng viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám, nếu như Tắt đèn là hình ảnh chị Dậu chạy ra trong tăm tối, Chí Phèo khao khát được làm người giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu đời mình. Các tác phẩm đều kết thúc tăm tối không lối thoát của người nông dân. Nhưng với vợ nhặt thì khác. Thị đã gợi đến chuyện người Bắc Giang không còn phải đóng thuế nữa. Kết thúc tác phẩm là lá cờ đỏ sao vàng.
Thị là nhân vật tô đậm giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. Là nạn nhân của cái đói, nhưng bên bờ vực của cái chết vẫn khát khao sống, khát khao có một mái ấm gia đình.
Thống kê tìm kiếm
phân tích nhân vật thị trong vợ nhặt
phân tích nhân vật thị
phân tích nhân vật vơ nhặt
Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Tác Phẩm Vợ Nhặt Hay Nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!