Xu Hướng 6/2023 # Phân Tích Bài Thơ Cảnh Rừng Việt Bắc Của Bác Hồ # Top 13 View | Englishhouse.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Phân Tích Bài Thơ Cảnh Rừng Việt Bắc Của Bác Hồ # Top 13 View

Bạn đang xem bài viết Phân Tích Bài Thơ Cảnh Rừng Việt Bắc Của Bác Hồ được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ Cảnh Rừng Việt Bắc của Bác Hồ để nhận thấy được sự lạc quan của người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Pháp?

Bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc được Bác sáng tác vào đầu năm 1947, đây là một bài thơ tràn đầy lạc quan, tràn đầy năng lượng dù Bác sống trong hoàn cảnh hết sức khó khănở chiến khu Việt Bắc.

Tuy nhiên, dù trong hoàn cảnh thiếu thốn nhưng Bác vẫn để lòng mình hướng đến thiên nhiên hùng vĩ, cái đẹp của thiên nhiên khiến lòng người luôn lạc quan và năng lượng mới.

Bài văn phân tích bài thơ Cảnh Rừng Việt Bắc của Bác Hồ:

Bài thơ Cảnh Rừng Việt Bắc được Bác Hồ viết vào mùa xuân năm 1947, sau một năm quân ta tạm rút khỏi thủ đô Hà Nội để lên núi rừng bạt ngàn Việt Bắc, lập căn cứ làm cuộc trường kỳ kháng chiến thần thánh chín năm chống thực dân Pháp. Đây là lần thứ hai, Bác Hồ và Trung ương Đảng sống, làm việc tại căn cứ địa Việt Bắc để lãnh đạo cách mạng.

Phân tích bài thơ Cảnh Rừng Việt Bắc của Bác Hồ

Lần thứ nhất là trước Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945. Nói vắn tắt đôi lời để thấy trong bối cảnh như vậy mà vị lãnh tụ vĩ đại, nhà thơ lớn Hồ Chí Minh vẫn luôn dạt dào niềm xúc động trước cảnh sắc thiên nhiên núi rừng hùng vĩ, với một tứ thơ tức cảnh hàm xúc và tràn đầy lạc quan, mà có lẽ chỉ những người cách mạng mẫu mực như Bác Hồ mới có trong một hoàn cảnh khó khăn như vậy.     Mở đầu bài thơ, Bác đã như reo lên trước cảnh đẹp thiên nhiên kỳ vĩ: “Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay”. Nhưng lạ là ở chỗ, cái hay ấy không phải là cái gì xa vời, lại càng không phải những cái gì gợi sự tò mò, kiểu như võ sĩ vào rừng săn tìm sự lạ lùng và khơi gợi trí tò mò. Ở đây, cái hay chính là thiên nhiên,  nói cách khác, là sự gắn kết thiên nhiên với con người, con người với thiên nhiên ở một nơi thiên nhiên vẫn như còn nguyên sơ và con người vẫn nguyên vẹn tình yêu tha thiết với thiên nhiên.

Thế nên, dẫu có suốt ngày vượn hót, chim kêu mà có ai đó khó tính cảm thấy đinh tai, nhức óc, thì với Bác Hồ, đến cỏ cây hoa lá đất trời xanh cũng làm cho lòng Người rưng rưng tha thiết, thì ngày ngày được nghe tiếng vượn hót, chim kêu ấy càng như nhắc nhở, giục giã công việc và khơi gợi suy nghĩ vì non sông, đất nước. Chỉ với hai câu mở đầu đã cho người đọc thấy nhà thơ yêu thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên đến mức nào; hay nói rộng ra, lòng yêu nước ở Bác Hồ không phải là cái gì xa vời mà chính là từ tình yêu thiên nhiên, yêu những gì gắn bó,  thiết tha, gần gũi với cuộc sống thường nhật của chính mình và đồng loại, mà vì nó có thể hy sinh tất thẩy để phụng sự suốt đời. Hơn nữa, trong hoàn cảnh thực tại của cuộc kháng chiến chín năm muôn vàn khó khăn, gian khổ thì thiên nhiên ở đây không chỉ “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” (thơ Tố Hữu), mà còn thực sự góp phần giải quyết những khó khăn trong sinh hoạt đời thường, nuôi dưỡng sức lực cho quân ta đánh giặc. Cái thực tại ấy được Bác Hồ khắc hoạ bằng nét mộc mạc, giản dị, chân thực trong bốn câu thơ đặc tả sinh hoạt đời thường rất gợi:

Khách đến thì mời ngô nếp nướng, Săn về thường chén thịt rừng quay. Non xanh, nước biếc tha hồ  dạo, Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.   Chỉ bốn câu thôi, mà làm người đọc thấy được cuộc sống của những người đi kháng chiến ở núi rừng. Không phải là một cuộc sống hoàn toàn sung sướng “cơm gà, cá gỡ”, nhưng cũng không phải là một cuộc sống túng bấn đến mức “cơm không có mà ăn”, như hồi ấy có kẻ lầm tưởng những người kháng chiến ở rừng xanh núi ngàn. Cảnh sống ấy thật đơn giản mà lịch sự biết nhường nào, bởi cái tình người  với nhau chan chứa, mặn nồng, tha thiết đến cái bắp ngô, củ sắn cũng bẻ đôi:

Khách đến thì mời ngô nếp nướng, Săn về thường chén thịt rừng quay. Chỉ có thế, nhưng thật là thịnh soạn, với một từ “chén” đủ làm người đọc thấy niềm lạc quan của những người đi kháng chiến bất chấp khó khăn ở rừng xanh núi ngàn. Với niềm lạc quan ấy thì trước phong cảnh thiên nhiên kỳ thú, có thể thả bộ thư giãn sau những giây phút làm việc căng thẳng, hay ngồi ngâm nghi giây lát bên chén rượu, ấm trà cũng là điều rất hợp lẽ, rất đời thường:

Non xanh, nước biếc tha hồ dạo, Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say. Đến đây, người đọc càng thấy sự bình dị và niềm lạc quan ở Bác Hồ gấp bội phần. Nhất là ở hai câu kết:

Kháng chiến thành công ta trở lại, Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.

Thì ta càng thấy sự bình dị, lạc quan ở Bác Hồ trong một hoàn cảnh khó khăn như năm 1947 giữa núi rừng Việt Bắc biết chừng nào.

Bài Thơ: Cảnh Rừng Việt Bắc (Hồ Chí Minh

Bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc của Bác Hồ là một bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú trong bố cục: đề, thực, luận, kết, niêm, đối, hình ảnh, từ ngữ. Bài thơ còn là biểu hiện sự sáng tạo trong kết cấu bởi vậy mà đọc bài thơ ta cảm nhận được vừa cũ, vừa mới, vừa truyền thống, vừa hiện đại.

1. Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng, một nhà hoạt động chính trị, lại là một nhà thơ.

Thơ của Bác chủ yếu, phần lớn tập trung ở Nhật ký trong tù. Bác sáng tác ở nhà tù Quảng Tây (Trung Quốc) hầu hết bằng thể thơ Đường luật. Sau đó Bác còn làm cả thơ mới, thơ tự do.

Bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc là một bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú khá độc đáo.

2. Bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc là một bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú.

– Trước hết nó có tám câu, năm vần, mỗi câu bảy chữ.

– Nó có bố cục rất thông thương của một bài thơ thất ngôn bát cứ: Đề, thực, luận, kết mỗi phần hai câu.

– Khi đọc làm cho người nghe sẽ nhận biết từ ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu… của một bài thơ Đường luật bình thường, không thể trộn lẫn vào đâu được. Đó là kết quả của một quá trình học tập, kế thừa vốn cũ của cha ông, của dân tộc, của nhân loại. Nghệ thuật đối, niêm, luật chỉnh như là một khuôn mẫu.

3. Bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc lại là biểu hiện của một sự sáng tạo của người viết.

Sáu câu thơ đầu là một kết cấu diễn dịch từ khái quát đến chi tiết cụ thể.

– Câu 1: Khái quát cảnh rừng Việt Bắc “hay”

– Câu 2, 3, 4, 5, 6 là hình ảnh cụ thể chi tiết minh hoạ cho cái “hay” của Việt Bắc đó là: vượt hót, chim kêu, ngô nếp nướng, thịt rừng quay, non xanh nước biếc, rượu ngọt, chè tươi tất cả hiện lên một cách phong phú, tươi sáng, hấp dẫn, dưới ngọn bút của tác giả. Các hình ảnh miêu tả đặc sản của Việt Bắc lại càng phong phú, hấp dẫn hơn trong nghệ thuật đối rất chuẩn của tác giả. Bởi vậy cảnh rừng Việt Bắc hấp dẫn tác giả, hấp dẫn mọi người. Nó như mời gọi tất cả mỗi người hãy đến Việt Bắc. Chính vì vậy mà câu 7, câu 8 bật ra như là một tất yếu. Nay Bác và mọi người còn bận đi kháng chiến không có thời gian để thưởng ngoạn, hưởng thụ cái giàu đẹp của Việt Bắc. Kháng chiến thắng lợi Bác hẹn với lòng mình sẽ trở lại Việt Bắc để được thưởng thức cái hay, cái đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc.

– Câu 7 và câu 8 của bài thơ rất khéo vừa đóng lại lời giới thiệu về Việt Bắc lại vừa làm nhiệm vụ kết thúc bài thơ Đường luật trong tình cảm thuỷ chung, son sắt của người đi kháng chiến với chiến khu Việt Bắc.

Bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc của Bác Hồ là một bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú trong bố cục: Đề, thực, luận, kết, niêm, đối, hình ảnh, từ ngữ. Bài thơ còn là biểu hiện sự sáng tạo trong kết cấu bởi vậy mà đọc bài thơ ta cảm nhận được vừa cũ, vừa mới, vừa truyền thống, vừa hiện đại. Cái mới, cái hiện đại của bài thơ là hiện thực của Việt Bắc trong cái sự phong phú, giàu có, đẹp đẽ. Cái hiện đại của bài thơ còn là ở kết cấu theo cấu trúc diễm dịch tạo nên sự chặt chẽ. Đọc bài thơ ta có cảm tưởng như Bác Hồ vừa khen Việt Bắc giàu đẹp vừa giới thiệu với mọi người sự giàu có hấp dẫn qua bàn tay chỉ của Bác.

Bác Hồ làm bài thơ trong hoàn cảnh đoàn cán bộ cách mạng đang hành trình đến địa điểm mới phải lội suối, trèo đèo, băng rừng, leo dốc, gánh nặng, đường xa, mệt mỏi, vất vả Bác Hồ cũng là người trong hoàn cảnh ấy nhưng ở Bác là một thái độ rất lạc quan, bài thơ có tác dụng động viên mình và động viên mọi người. Bài thơ còn chứng tỏ người làm thơ có tầm quan sát từ khái quát đến cụ thể trong bút pháp miêu tả rất sinh động. Câu thơ thứ 8 là một câu thơ đẹp. Nó như là thơ Đường của các cụ ngày xưa lại rất mới trong hiện thực của cách mạng Việt Nam thời kỳ đầu kháng chiến, rất mới trong tâm hồn lạc quan của người chiến sỹ cộng sản các hình ảnh trăng xưa, hạt cũ, xuân này vừa cũ lại vừa mới trong chuẩn mực của thơ ca. Người ta nói thơ của Bác Hồ vừa kế thừa, vừa canh tân, vừa truyền thống, vừa hiện đại thì bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc là một minh chứng đầy thuyết phục.

Phân Tích Khổ Thơ Thứ Ba Bài Thơ Việt Bắc

Nhắc đến Tố Hữu người đọc không thể nào quên được những danh hiệu xứng đáng như: nhà cách mạng lão thành, nhà hoạt động chính trị xuất sắc, nhà thơ cách mạng lớn nhất của đất nước ở thế kỷ 20, nhà thơ lớn của dân tộc, nhà thơ lớn của thời đại.. Và đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của ông là bài thơ Việt Bắc. Bởi nó không chỉ thể hiện những tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với kháng chiến, cách mạng mà nó còn kết tinh trong đó những đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của Tố Hữu. Điều này được thể hiện rõ ở khổ thơ:

“Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Tào Hồng Thái mái đình cây đa”

Thật vậy, Việt Bắc là đỉnh cao để đời thơ Tố Hữu. Nó là tác phẩm trường thiên dài. Việt Bắc là quê hương của cách mạng, là căn cứ kháng chiến. Bài thơ viết vào tháng 10/1954, khi các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu việt Bắc trở về Hà Nội, để nhớ về những kỉ niệm đẹp nơi căn cứ địa ấy, ông đã chắp bút tạo nên một tác phẩm xuất sắc.

Mở đầu khổ 3 bài thơ, Tố Hữu đã khéo léo đưa ra những câu hỏi để bộc lộ tình cảm về những ngày tháng khi bên nhau giữa hai chủ thể giữa “ta” – “mình”. Nỗi nhớ ấy được bộc lộ ở trong câu từ bài thơ:

“Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”

Đó là một tâm trạng quan tâm lo lắng của người ở lại bày tỏ nỗi niềm với người ra đi. Không biết khi cán bộ về xuôi có nhớ tới những con người kỉ niệm nơi chiến khu Việt Bắc với biết bao nhiêu yêu thương đong đầy vẫn còn vẹn nguyên như mới hôm qua. Với nỗi nhớ về thiên nhiên “mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”. Câu thơ lột tả vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ nhưng đầy bí hiểm của núi rừng Việt Bắc thơ mộng. Hình ảnh “chiến khu” với “miếng cơm chấm muối” thể hiện cuộc sống chiến đấu vô cùng khó khăn thiếu thốn nhiều gian truân. Tố Hữu tinh tế khi sử dụng biện pháp tu từ hóan dụ “mối thù nặng vai” khéo léo khiến ta liên tưởng đến mối thù chung của dân tộc lúc bấy giờ xen lẫn giọng điệu nhẹ nhàng như nhắc nhở tình nghĩa luôn nồng nàn và còn mãi trường tồn theo thời gian.

Mạch cảm xúc vẫn tiếp tục tuôn chảy để ông chắp bút:

” Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng măng mai để già

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son

Mình về có nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh”

Ở đọan thơ này, Tố Hữu đã tiếp tục sử dụng biện pháp hóan dụ để diễn tả nỗi nhớ của người ở lại với cách mạng. Nỗi nhớ ấy như luôn kéo dài, nó da diết khó nói thành lời. Thiên nhiên việt Bắc như thấm nhuần nỗi nhớ. Tình cảm của người Việt Bắc lan tỏa vào cảnh vật khiến “trám bùi để rụng măng mai để già”. Đại từ “mình về” khiến rừng núi Việt Bắc bỗng trở nên trống vắng hơn. Cụm từ “nhớ những nhà” cũng gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng lo lắng không biết các bộ có nhớ tới Việt Bắc không?Từ láy “hắt hiu” kết hợp rất tài tình với hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên. Nhưng đối lập với nó là hình ảnh tấm lòng chân thành của con người. Nhân dân Việt Bắc muốn họ nhớ “núi non”, nhớ thời kì kháng chiến “kháng Nhật” “thuở còn Việt minh”. Đó đều là những khỏang thời gian hạnh phúc, nhiều kỉ niệm khi cùng sát cánh bên nhau vượt qua mọi khó khăn, cùng nhau bảo vệ quê hương đất nước trước kẻ thù.

Tình cảm của người dân Việt Bắc vẫn tiếp tục tuôn chảy. Họ còn kể về những địa danh lịch sử hào hùng:

“Mình đi mình có nhớ mình

Tân Tào Hồng Thái mái đình cây đa”

Chỉ kết ngắn gọn với hai câu thơ ở khổ 3 đặc sắc này nhưng chính 2 câu thơ này tạo điểm nhấn rất lớn cho cả khổ này. Chỉ với hai câu thơ nhưng tình cảm mà Tố Hữu gửi gắm vào nó là vô cùng nhiều. Đặc biệt, ông đã khéo léo khi chỉ một từ “mình” được ông sử dụng nhưng nó mang tới hai nghĩa vừa chỉ người dân, vừa chỉ người cán bộ cách mạng về xuôi. Nhà thơ đã hình dung ra được diễn biến tâm lí của con người sau chiến thắng. Đây là câu thơ mang tính triết lí cao. Ở câu cuối, nhà thơ đã nhắc về những địa danh lịch sử nổi tiếng ở Việt Bắc với những sự kiện quan trọng gắn liền với nó. Cây đa Tân Trào là nơi đội việt Nam tuyên truyền giải phóng quân làm lễ xuất phát còn mái đình Hồng Thái nơi Bác Hồ chủ trì cuộc họp quyết định làm cuộc cách mạng tháng tám. Tố Hữu đã đặt hai địa danh này ở cùng một câu thơ nhấn mạnh tầm quan trọng cũng như ý nghĩa lịch sử của nó.

Tóm lại, chỉ với 12 câu thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới kỉ niệm của cách mạng. Ông rất tinh tế và khôn khéo trong việc hòa quyện giữa các biện pháp tu từ quen thuộc với những địa danh, đại từ “mình – ta” đặc sắc. Giọng thơ tâm tình ngọt ngào mà sâu lắng được ông thể hiện một cách triệt để qua nhịp thơ nhẹ nhàng. Tố Hữu đã tạo ra một kiệt tác để đời bất hủ.

Phân Tích Bài Thơ “Nhớ Rừng” Của Thế Lữ

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý I. Mở bài

– Đề tài yêu nước luôn là một đề tài lớn, xuyên suốt trong văn học Việt Nam

– Đối với các nhà thơ Mới, họ thường gửi gắm nỗi niềm thầm kín trong thơ của mình và Thế Lữ cũng vậy, ông gửi gắm nỗi lòng yêu nước thông qua “Nhớ rừng”

II. Thân bài 1. (Đoạn 1+4): Cảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú

– Hoàn cảnh bị nhốt trong cũi sắt, trở thành một thứ đồ chơi

– Tâm trạng căm hờn, phẫn uất tạo thành một khối âm thầm nhưng dữ dội như muốn nghiền nát, nghiền tan

– “Ta nằm dài” – cách xưng hô đầy kiêu hãnh của vị chúa tể ⇒ Sự ngao ngán cảnh tượng cứ chầm chậm trôi, nằm buông xuôi bất lực

– “Khinh lũ người kia”: Sự khinh thường, thương lại cho những kẻ (Gấu, báo) tầm thường nhỏ bé, dở hơi, vô tư trong môi trường tù túng

⇒ Từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, giọng thơ u uất diễn tả tâm trạng căm hờn, uất ức, ngao ngán

⇒ Tâm trạng của con hổ cũng giống tâm trạng của người dân mất nước, Căm hờn và phẫn uất trong cảnh đời tối tăm.

– Cảnh tượng vẫn không thay đổi, đơn điệu, nhàm chán do bàn tay con người sửa sang ⇒ tầm thường giả dối

⇒ Cảnh tù túng đáng chán, đáng ghét

⇒ Cảnh vườn bách thú là thực tại của xã hội đương thời, thái độ của con hổ chính là thái độ cú người dân đối với xã hội đó

2. (Đoạn 2+3): Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ

– Cảnh núi rừng đầy hùng vĩ với “bóng cả cây già” đầy vẻ nghiêm thâm

– Những tiếng “gió gào ngàn”, “giọng nguồn hét núi” ⇒ Sự hoang dã của chốn thảo hoa không tên không tuổi

⇒ Những từ ngữ được chọn lọc tinh tế nhằm diễn tả cảnh đại ngàn hùng vĩ, lớn lao mạnh mẽ, bí ẩn thiếng liêng

– Bước chân dõng dạc đường hoàng ⇒ vẻ oai phong đầy sức sống

⇒ Vẻ oai phong của con hổ khiến tất cả đều phải im hơi, diễn tả vẻ uy nghi, dũng mãnh vừa mềm mại vừa uyển chuyển của vị chúa sơn lâm

– “Nào đâu … ánh trăng tan” ⇒ Cảnh đẹp diễm lệ khi con hổ đứng uống ánh trăng thật lãng mạn

– “Đâu những ngày chúng tôi đổi mới” ⇒ Cảnh mưa rung chuyển đại ngàn, hổ lãng mạn ngắm giang sơn đổi mới.

– “Đâu những bình minh…tưng bừng” ⇒ cảnh chan hòa ánh sáng, rộn rã tiếng chim ca hát cho giấc ngủ của chúa sơn lâm.

– Cảnh tượng cuối cùng cho thấy hổ là loài mãnh thú đợi màn đêm buông xuống nó sẽ là chúa tể muôn loài

⇒ Một bộ tranh tứ bình đẹp lộng lẫy, cho thấy những cảnh thiên nhiên hoang vắng đẹp rợn ngợp và con hổ với tư thế và tầm vóc uy nghi, hoành tráng

3. (Đoạn 5): Niềm khao khát tự do mãnh liệt

– Sử dụng câu cảm thán liên tiếp⇒ lời kêu gọi thiết tha ⇒ khát vọng tự do mãnh liệt nhưng bất lực

⇒ Nỗi bất hòa sâu sắc với thực tại và niềm khao khát tự do mãnh liệt

⇒ Tâm sự của con hổ chính là tâm sự của người dân Việt Nam mất nước đang sống trong cảnh nô lệ và tiếc nhớ những năm tháng tự do oanh liệt với những chiế thắng vẻ vang trong lịch sử

III. Kết bài

– Khái quát nội dung và nghệ thuật chủ đạo làm nên thành công của tác phẩm.

– Liên hệ bài học yêu nước trong thời kì hiện nay.

Bài mẫu

Bài tham khảo số 1

Thế Lữ (1907-1989) là bút danh của Nguyễn Thứ Lễ. Làm thơ, viết truyện, viết kịch, làm đạo diễn. Chủ tịch Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Phương diện nào ông cũng có thành tựu xuất sắc. Thế Lữ là thi sĩ tiên phong, được ngợi ca là “Đệ nhất thi sĩ’ trong phong trào “Thơ mới” (1932-1941). Tác phẩm thơ: “Mấy vần thơ” thể hiện một “hồn thơ rộng mở”, với cảm hứng lãng mạn dào dạt, nồng nàn, say đắm và thiết tha.

Bài thơ “Nhớ rừng” được Thế Lữ viết năm 1934, in trong tập “May vần thơ” xuất bản năm 1935. Mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn Bách thú, tác giả thể hiện tâm sự u uất, căm hờn và niềm khao khát tự do mãnh liệt của con người bị giam cầm, nô lệ.

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt.

Bị nhốt “trong cũi sắt”, căm hờn uất hận đã chứa chất thành “khối”, “gậm’ mãi mà chẳng tan, càng “gậm” càng cay đắng. Chỉ còn biết “nằm dài” bất lực, đau khổ. Bị “giễu”, bị “nhục nhằn tù hãm”, trở thành “thứ đồ chơi” cho “lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ”. Đau khổ nhất là chúa sơn lâm nay bị tầm thường hóa, vị thế bị xuống cấp:

“Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,

Với cặp báo chuồng bên vô tự lự”.

Đó là một nét tâm trạng điển hình đầy bi kịch của chúa sơn lâm khi bị sa cơ, thất thế, bị giam cầm. Trong hoàn cảnh lịch sử đất nước ta khi bài thơ ra đời (1934) thì nỗi tủi nhục, căm hờn, cay đắng của con hổ cũng đồng diệu với bi kịch của nhân dân ta trong xích xiềng nô lệ sống trong tăm tối “nhơ nhuốc lầm than”.

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ.

“Tình thương nỗi nhớ” sống mãi, chẳng bao giờ quên. Nhớ “thuở tung hoành…”, “nhớ cành sơn lâm bóng cả cây già”. Nhớ khúc nhạc rừng hùng tráng dữ dội. Chữ ” nhớ” chữ “với” và cách ngắt nhịp (4-2-2, 5-5, 4-2-2…) biến hoá, cân xứng đã làm dội lên nỗi nhớ tiếc khôn nguôi, nhớ cồn cào, nhớ da diết. Sự phong phú về nhạc điệu đã khắc họa đời sống nội tâm vô cùng mạnh mẽ của một nhân vật phi thường từng có một quá khứ oanh liệt. Một tấm thán “như sóng cuộn nhịp nhàng”. Một bước chân cao sang đầy uy lực ”dõng dạc, đường hoàng”. Một cặp “mắt thần” và khi “đã quắc”; “mọi vật đều im hơi”. Một sức mạnh của uy quyền bất khả xâm phạm.

Những vần thơ đầy nhạc điệu nói về nỗi nhớ:

“Nhớ cánh sơn lâm bóng cà cây già

Với tiếng giỏ gào ngàn, với giọng nguồn hét núi.

Với khi thét khúc trường ca dữ dội

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc

Là khiến cho mọi vật đều im hơi…”

Các động từ “gào, hét, thét” đặc tả khúc trường ca dữ dội của rừng núi, suối ngàn thiêng liêng, hùng tráng. Đó là những câu thơ tuyệt bút làm sang trọng cho Thơ mới: “Ta nằm dài”… rồi “ta sống mãi trong tình thương nồi nhớ”. Nhớ khi “ra bước chân lên…”, nhớ một thời vàng son ngự trị:

“Ta biết ta chúa tế cả muôn loài,

Giữa chốn hào hoa không tên, không tuổi”.

Một chữ “ta” vang lên đầy kiêu hãnh tự hào. Chúa sơn lâm được miêu tả được khắc hoạ trong chiều sâu của tâm linh, trong chiều cao của uy quyền được khẳng định.

Các câu hỏi tu từ liên tiếp xuất hiện như một nỗi niềm lay tỉnh và khêu gợi nỗi “nhớ’ trào lên: “nào đâu những…”, “đâu những ngày…”, “đâu những bình minh…”, “đâu những chiều…”. Nhớ mãi không nguôi, nhớ đêm trăng và suối, nhớ những ngày mưa rừng, nhớ bình minh, nhớ giấc ngủ, nhớ tiếng chim ca. Và nhớ “những chiều lênh láng máu…”. Đoạn thơ tráng lệ nói về bốn nỗi nhớ của chúa sơn lâm, nhớ triền miên ngày và đêm, sớm và chiều, mưa và nắng, thức và ngủ, lúc say mồi và lúc lặng ngắm, lúc đợi chờ… Một không gian nghệ thuật được tái hiện và mô tả qua bộ tứ bình của một nhà danh họa. Chúa sơn lâm có lúc mơ mộng giữa cảnh suối trăng, có lúc trầm ngâm trong chiêm nghiệm, có lúc nén xuống, kiên nhẫn đợi chờ để “tung hoành…” và “quắc mắt…”!

Đoạn thơ 10 câu này là đoạn thơ hay nhất trong bài “Nhớ rừng”:

“Nào đâu những đêm vùng bên bờ suối,

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan.’

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

Để ta chiếm lấy riêng phấn bí mật

– Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”

Sau nỗi nhớ một thuở vàng son, một thời oanh liệt, bỗng chúa sơn lâm chợt tỉnh mộng, trở về thực tại với cái cũi sắt, đau đớn và cay đắng vô cùng. Như một trái núi sụp đổ xuống, mãnh hổ cất lời than. Sự kết hợp giữa cảm thán với câu hỏi tu từ làm dội lên một lời thơ, một tiếng than của “hùm thiêng sa cơ”, của một kẻ phi thường thất thế. Đó cũng là tiếng thở dài của một lớp người khao khát tự do ngày ấy:

“Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu.

Lại trở về nỗi buồn đau và nỗi nhớ “cảnh nước non hùng vĩ”. Chỉ còn biết nhắn gửi thiết tha và bồn chồn:

“Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”

“Nhớ rừng” là bài thơ tuyệt bút. Nó được xếp vào loại 10 bài thơ hay nhất của Thơ mới. Hình tượng tráng lệ, kì vĩ. Lối diễn tả và sử dụng ngôn ngữ biến hóa. Chất nhạc đa thanh và phức điệu tạo nên những vần thơ du dương. Thơ nên họa nên nhạc như cuốn hút và làm mê say hồn ta.

Hình tượng chúa sơn lâm với nỗi nhớ rừng được nói đến với bao “lớp lớp sóng dồi”. Trong nỗi đau sa cơ, thất thế có niềm kiêu hãnh tự hào. Bài thơ như một lời nhắn gửi thiết tha về tình yêu thương đất nước. Tư tưởng lớn nhất của bài thơ là nói lên cái giá tự do và khát vọng tự do.

Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Bài Thơ Cảnh Rừng Việt Bắc Của Bác Hồ trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!