Bạn đang xem bài viết Hướng Dẫn Soạn Văn Khái Quát Văn Học Việt Nam Ngắn Gọn được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
I. Tìm hiểu chung để
s
oạn văn khái quát văn học Việt Nam
1. Lịch sử văn học Việt Nam
– Ở hậu kỳ trung đại, các tác phẩm văn học Việt Nam được viết chủ yếu bằng chữ Hán và một số ít bằng chữ Nôm.
– Sau này, văn học Việt Nam thống nhất viết bằng bằng một loại chữ là chữ quốc ngữ.
Cuốn sách in bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của nước Việt Nam
– Văn học dân gian là cái nôi của văn học viết và đặt nền móng đầu tiên cho nền văn học.
2. Các thể loại văn học Việt Nam
- Văn học dân gian thể hiện những sáng tác nghệ thuật mang tính chủ yếu là truyền miệng trong quần chúng nhân dân, phát sinh từ thời xưa cho tới bây giờ.
– Văn học viết vào thời kỳ đầu chủ yếu là thơ ca với hai loại cổ thể và cận thể – giữ nguyên khuôn phép chuẩn mực của thơ ca Trung Quốc.
II.
Soạn văn khái quát văn học Việt Nam chi tiết
Câu 1:
– Những nét tiêu biểu về tình hình văn hóa, xã hội, lịch sử có những tác động, ảnh hưởng tới sự phát triển văn học Việt Nam:
+ Cuộc cách mạng tháng Tám thành công vang dội đã mở ra một kỉ nguyên độc lập, tự do mới cho dân tộc.
+ Nền văn học đã có những thống nhất về tư tưởng, quan niệm, tổ chức.
– Từ 1945- 1975 là giai đoạn đất nước ta trải qua khá nhiều những biến cố, những chuỗi sự kiện lớn, tác động nhiều tới đời sống vật chất, tinh thần:
+ Phải kể đến hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ hào hùng.
+ Một cuộc cải tổ xây dựng CNXH miền Bắc.
Câu 2:
– Văn học từ 1945 – 1975 chia làm 3 giai đoạn:
+ Văn học thời kỳ chống Pháp (1945 – 1954).
+ Văn học thời kỳ tiến lên xây dựng XHCN (1955 – 1964).
+ Văn học thời kỳ chống Mỹ (1965 – 1975).
* Thành tựu
– Văn học thời kỳ chống Pháp: gắn liền với những cuộc cách mạng dân tộc, hướng tới đại chúng, ca ngợi tinh thần dân tộc, tạo hy vọng và niềm tin tương lai trong các cuộc kháng chiến.
+ Những truyện ngắn và kí nổi bật trong giai đoạn này: Một lần tới thủ đô (Trận Phố Ràng – Trần Đăng); Kí sự Cao Lạng (Nguyễn Huy Tưởng), Đôi mắt (Nam Cao); Làng (Kim Lân); Xung kích (Nguyễn Đình Thi) …
Tác phẩm truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân
+ Thơ ca cũng đóng góp với nhiều tuyệt tác: Cảnh khuya, Rằm tháng Giêng (Hồ Chí Minh), Đồng chí (Chính Hữu), Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm); …
+ Kịch ngắn: Những người ở lại (Nguyễn Huy Tưởng), Bắc Sơn,…
+ Những tác phẩm về lý luận, nghiên cứu, phê bình văn học: Nhận đường, Nói chuyện thơ ca kháng chiến (Hoài Thanh); Mấy vấn đề về nghệ thuật (Nguyễn Đình Thi), …
– Văn học 1955- 1964: trong giai đoạn này văn học tập trung thể hiện và tôn vinh hình ảnh người lao động, ngợi ca những đổi thay của đất nước và của con người trong nền XHCN:
+ Văn xuôi: Đi bước nữa (Nguyễn Thế Phương); Anh Keng (Nguyễn Kiên); Mùa lạc (Nguyễn Khải); …
Viết về kháng chiến chống Pháp đã qua: Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng); Trước giờ nổ súng (Lê Khâm); Cao điểm cuối cùng (Hữu Mai) …
Hiện thực trước cách mạng: Mười năm (Tô Hoài); Cửa biển (Nguyên Hồng); Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi); …
Hợp tác hóa XHCN miền Bắc: Mùa lạc (Nguyễn Khải); Cái sân gạch (Đào Vũ) …
+ Thơ ca với hai cảm hứng nổi bật:
Hiện thực hóa cuộc sống và vẻ đẹp của con người trong CNXH bằng ngòi bút: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, … (Huy Cận); Ánh sáng và phù sa (Chế Lan Viên); Gió lộng (Tố Hữu); ….
+ Kịch nói: Chị Nhàn, Nổi gió (Đào Hồng Cẩm); Ngọn lửa (Nguyên Vũ), …
+ Sáng tác miền Nam: Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi); Hòn đất (Anh Đức); Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) …
+ Truyện kí: Mẫn và tôi (Phan Tứ); Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng) …
Tác phẩm Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng
+ Thơ ca: Ra trận, Máu và hoa (Tố Hữu); Đầu súng trăng treo (Chính Hữu); Những bài thơ đánh thắng giặc (Chế Lan Viên) …
+ Kịch: Đôi mắt (Vũ Dũng Minh); Đại đội trưởng của tôi (Đào Hồng Cẩm) …
Câu 3:
Soạn văn khái quát văn học Việt Nam lớp 12 chúng ta cần làm rõ những đặc điểm cơ bản:
– Nền văn học luôn đề cao việc hướng về đại chúng:
+ Nhân dân chính là đối tượng phản ánh và tiếp nhận những sáng tác. Đôi khi họ cũng chính là người sáng tác ra các tác phẩm để đời.
+ Nhân dân cũng là đối tượng gây ảnh hưởng và chi phối khá nhiều hình thức nghệ thuật, quan điểm thẩm mĩ.
– Nền văn học vận động theo khuynh hướng cách mạng hóa:
+ Ba mươi năm chiến tranh ác liệt đã hun đúc nên những kiểu: nhà văn- chiến sĩ, nhận thức được sứ mệnh văn học.
– Đề tài chính văn học 1945- 1975:
+ Đề tài tổ quốc: bảo vệ, giữ gìn, xây dựng, đấu tranh, giải phóng. Người chiến sĩ luôn trở thành nhân vật trung tâm văn học và được khai thác trên nhiều khía cạnh thú vị khác nhau.
+ Đề tài XHCN: những phẩm chất tốt đẹp của con người. Sự kết hợp giữa cái chung và cái riêng.
– Nền văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn:
+ Văn học mang đậm nét sử thi: phản ánh rõ nét những vấn đề lớn quyết định tới vận mệnh đất nước, sự đoàn kết dân tộc.
+ Văn học thấm đẫm cảm hứng lãng mạn: ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thể hiện phương diện lý tưởng của cuộc sống và vẻ đẹp của con người.
Câu 4:
Căn cứ vào hoàn cảnh xã hội, văn hóa và lịch sử để soạn văn khái quát văn học Việt Nam lớp 12 với những nét chính như sau:
– Công cuộc tiến hành đổi mới do Đảng Cộng Sản lãnh đạo dần chuyển sang nền kinh tế thị trường và là bước đệm tạo điều kiện tiếp xúc văn hóa.
+ Văn học dịch, văn hóa báo chí và các phương tiện truyền thông ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển đất nước nói chung, và sự phát triển của văn học nói riêng.
+ Nền văn học phát triển theo khuynh hướng phù hợp với sự nghiệp đổi mới và hoàn cảnh khách quan.
Câu 5:
Thành tựu văn học giai đoạn từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX:
– Thơ ca: không có quá nhiều sự hấp dẫn, ấn tượng nhưng có những đổi mới, mở rộng hơn về đề tài sáng tác và cả nội dung lẫn hình thức.
– Văn xuôi: có những khởi sắc nhất định, những tiểu thuyết nêu cao vấn đề chống tiêu cực, truyện ngắn về cuộc đời và thế sự.
– Phóng sự điều tra xoáy sâu vào hiện thực.
Hướng Dẫn Soạn Bài : Khái Quát Văn Học Dân Gian Việt Nam
Hướng dẫn soạn bài : Khái quát văn học dân gian Việt Nam
1. Về khái niệm văn học dân gian
Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng được tập thể sáng tạo, nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho những sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.
2. Các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian
– Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng.
Thực chất của quá trình truyền miệng là sự ghi nhớ theo kiểu nhập tâm và phổ biến bằng miệng cho người khác. Văn học dân gian khi được phổ biến lại, đã thông qua lăng kính chủ quan (bộ não người) nên thường được sáng tạo thêm. Văn học dân gian thường được truyền miệng theo không gian (từ vùng này qua vùng khác), hoặc theo thời gian (từ đời trước đến đời sau).
Quá trình truyền miệng thường được thực hiện thông qua diễn xướng – tức là hình thức trình bày tác phẩm một cách tổng hợp (nói, hát, kể).
– Văn học dân gian là kết quả của những quá trình sáng tác tập thể.
Tập thể là tất cả mọi người, ai cũng có thể tham gia sáng tác. Nhưng quá trình này, lúc đầu do một người khởi xướng lên, tác phẩm hình thành và được tập thể tiếp nhận. Sau đó những người khác (địa phương khác, thời đại khác) tham gia sửa chữa, bổ sung cho tác phẩm biến đổi dần. Quá trình bổ sung này thường làm cho tác phẩm phong phú hơn, hoàn thiện hơn.
Mỗi cá nhân tham gia vào quá trình sáng tác này ở những thời điểm khác nhau. Nhưng vì truyền miệng nên lâu ngày, người ta không nhớ được và cũng không cần nhớ ai là tác giả. Tác phẩm dân gian vì thế đã trở thành của chung, ai cũng có thể tùy ý thêm bớt, sửa chữa.
– Văn học dân gian gắn bó và phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.
Sinh hoạt cộng đồng là những sinh hoạt chung của nhiều người như lao động tập thể, vui chơi ca hát tập thể, hội hè… Trong những sinh hoạt này, tác phẩm văn học dân gian thường đóng vai trò phối hợp hoạt động, tạo nhịp điệu cho hoạt động (những bài hò : hò chèo thuyền, hò đánh cá,…).
Không những thế, văn học dân gian còn gây không khí để kích thích hoạt động, gợi cảm hứng cho người trong cuộc (ví dụ những câu chuyện cười được kể trong lao động giúp tạo ra sự sảng khoái, giảm bớt sự mệt nhọc trong công việc).
3. Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam
Dựa vào những đặc điểm giống nhau cơ bản về nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm trong cùng một nhóm, có thể thấy văn học dân gian Việt Nam gồm những thể loại chính như sau : thần thoại, sử thi dân gian, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, tục ngữ, câu đố, ca dao – dân ca, vè, truyện thơ, các thể loại sân khấu (chèo, tuồng, múa rối, các trò diễn mang tích truyện).
4. Những giá trị cơ bản của văn học dân gian
– Văn học dân gian là kho trí thức vô cùng phong phú về đời sống của các dân tộc (kho trí khôn của nhân dân về mọi lĩnh vực của đời sống tự nhiên, xã hội, con người). Kho tri thức này phần lớn là những kinh nghiệm lâu đời được nhân dân ta đúc kết từ thực tế. Vào trong các tác phẩm, nó được mã hoá bằng những ngôn từ và hình tượng nghệ thuật tạo ra sức hấp dẫn người đọc, người nghe, dễ phổ biến, dễ tiếp thu và có sức sống lâu bền cùng năm tháng.
– Văn học dân gian ngợi ca, tôn vinh những giá trị tốt đẹp của con người. Vì thế, nó có giá trị giáo dục sâu sắc về truyền thống dân tộc (truyền thống yêu nước, đức kiên trung, lòng vị tha, lòng nhân đạo, tinh thần đấu tranh chống cái ác, cái xấu,…). Văn học dân gian cũng vì thế mà góp phần hình thành những giá trị tốt đẹp cho các thế hệ xưa và nay.
– Văn học dân gian có giá trị to lớn về nghệ thuật. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nền văn học dân nước nhà. Nó đã trở thành những mẫu mực để đời sau học tập. Nó là nguồn nuôi dưỡng, là cơ sở của văn học viết.
1. Những đặc điểm chính của từng thể loại văn học dân gian Việt Nam:
2. Sự tương đồng và khác biệt giữa các thể loại văn học dân gian :
Văn học dân gian Việt Nam cũng như văn học dân gian của nhiều dân tộc khác trên thế giới có những thể loại chung và riêng. Điều đáng lưu ý là ngay trong hệ thống thể loại văn học dân gian của từng dân tộc lại có thể tìm thấy những điểm tương đồng và khác biệt.
– Sự khác biệt : Tuy nhiên mỗi thể loại văn học dân gian lại có một mảng đề tài và một cách thức thể hiện nghệ thuật riêng(ví dụ Ca dao quan tâm đến đời sống tâm hồn của con người và thể hiện nó bằng bút pháp trữ tình ngọt ngào, lãng mạn…trong khi đó, Thần thoại lại giải thích quá trình hình thành thế giới, giải thích các hiện tượng tự nhiên,… bằng hình ảnh các thần. Sử thi lại khác, chủ yếu quan tâm phản ánh những sự kiện lớn lao có tính quyết định tới số phận của cộng đồng Sử thi thể hiện nội dung bằng nghệ thuật miêu tả với những hình ảnh hoành tráng và dữ dội…). Sự khác nhau của các thể loại văn học dân gian cho thấy sự đa dạng về nghệ thuật. Đồng thời nó cũng cho thấy khả năng chiếm lĩnh phong phú hiện thực cuộc sống của nhân dân ta.
Soạn Khái Quát Văn Học Dân Gian Việt Nam Siêu Ngắn
Trả lời câu 1 trang 19 SGK Ngữ văn tập 1
+ Tính truyền miệng: VHDG được sáng tác, tồn tại, lưu hành theo phương thức truyền miệng (trong quá trình diễn xướng dân gian hào hứng và sinh động).
+ Tính tập thể: VHDG được sáng tác, tiếp nhận, sử dụng, sửa chữa, bổ sung bởi tập thể người lao động và là tài sản của tập thể.
Câu 2 Trả lời câu 2 trang 19 SGK Ngữ văn tập 1
+ Thần thoại: tác phẩm tự sự dân gian kể về các vị thần để giải thích và thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên, phản ánh quá trình sáng tạo văn hóa của người cổ đại (VD: Thần trụ trời,…)
+ Sử thi: tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng kể về một hoặc nhiều biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng cư dân cổ đại (VD: Đăm Săn, Xinh Nhã, Đẻ đất đẻ nước…).
+ Truyền thuyết: tác phẩm tự sự dân gian kể về các sự kiện và nhân vật lịch sử theo hướng lí tưởng hóa, từ đó thể hiện quan điểm và thái độ của nhân dân đối với những người có ảnh hưởng đến lịch sử địa phương hoặc dân tộc (VD: Thánh Gióng, An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy,…).
+ Truyện cổ tích: tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện vầ hình tượng được hư cấu kể về số phận con người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân (Tấm Cám, Thạch Sanh, Sọ Dừa…).
+ Truyện cười: tác phẩm tự sự dân gian ngắn, kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, kể về những việc xấu, trái tự nhiên có tác dụng gây cười nhằm giải trí hoặc phê phán (VD: Nhưng nó phải bằng hai mày, Lợn cưới áo mới, Cháy…).
+ Tục ngữ: những câu nói ngắn gọn, có hình ảnh, vần, nhịp, đúc kết kinh nghiệm của nhân dân (VD: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng…).
+ Câu đố: bài văn vần/câu nói có vần mô tả vật đố bằng ẩn dụ hoặc hình ảnh, hình tượng khác lạ để người nghe tìm lời giải, nhằm mục đích giải trí, rèn tư duy, cung cấp tri thức về đời sống (VD: Một đàn cò trắng phau phau/Ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm – đố về cái bát).
+ Ca dao: tác phẩm thơ trữ tình dân gian, kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, diễn tả nội tâm con người (VD: Thân em như tấm lụa đào/Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai).
+ Vè: tác phẩm tự sự dân gian bằng văn vần, có lối kể mộc mạc, phần lớn nói về các sự việc, sự kiện của làng, của nước mang tính thời sự.
+ Truyện thơ: tác phẩm tự sự dân gian bằng thơ phản ánh số phận và khát vọng của con người về hạnh phúc lứa đôi và công bằng xã hội (VD: Tiễn dặn người yêu…).
+ Chèo: kịch hát dân gian, kết hợp trữ tình và trào lộng để ca ngợi những tấm gương đạo đức và phê phán, đả kích cái xấu trong xã hội (VD: Lưu Bình Dương Lễ, Quan âm thị kính…).
Câu 3 Trả lời câu 3 trang 19 SGK Ngữ văn tập 1
+ VHDG là kho tri thức, kho kinh nghiệm lâu đời, phong phú về mọi lĩnh vực (tự nhiên, xã hội, con người), thể hiện trình độ, quan điểm, nhận thức của nhân dân 54 dân tộc ở nước ta.
+ VHDG có giá trị giáo dục sâu sắc về đạo lí làm người như bồi đắp tình yêu thương đồng loại, đề cao tinh thần đấu tranh giải phóng con người khỏi bất công, tin tưởng vào chiến thắng của chính nghĩa, góp phần hình thành những phẩm chất tốt đẹp như tình yêu quê hương đất nước, tinh thần bất khuất, đức kiên trung, tính vị tha…
+ VHDG có giá trị thẩm mĩ to lớn, góp phần quan trọng tạo nên bản sắc riêng cho nền văn học dân tộc: nhiều tác phẩm đạt đến trình độ nghệ thuật mẫu mực. Khi chưa có văn học viết, VHDG đóng vai chủ đạo. Tiếp đó, VHDG trở thành nền tảng và nguồn nuôi dưỡng để phát triển văn học viết, cùng văn học viết làm rạng rỡ nên văn học dân tộc.
Soạn Bài Khái Quát Văn Học Dân Gian Việt Nam Siêu Ngắn
Câu 1 trang 19 SGK Ngữ văn tập 1
+ Tính truyền miệng: VHDG được sáng tác, tồn tại, lưu hành theo phương thức truyền miệng (trong quá trình diễn xướng dân gian hào hứng và sinh động).
+ Tính tập thể: VHDG được sáng tác, tiếp nhận, sử dụng, sửa chữa, bổ sung bởi tập thể người lao động và là tài sản của tập thể.
Câu 2 trang 19 SGK Ngữ văn tập 1
+ Thần thoại: tác phẩm tự sự dân gian kể về các vị thần để giải thích và thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên, phản ánh quá trình sáng tạo văn hóa của người cổ đại (VD: Thần trụ trời,…)
+ Sử thi: tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng kể về một hoặc nhiều biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng cư dân cổ đại (VD: Đăm Săn, Xinh Nhã, Đẻ đất đẻ nước…).
+ Truyền thuyết: tác phẩm tự sự dân gian kể về các sự kiện và nhân vật lịch sử theo hướng lí tưởng hóa, từ đó thể hiện quan điểm và thái độ của nhân dân đối với những người có ảnh hưởng đến lịch sử địa phương hoặc dân tộc (VD: Thánh Gióng, An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy,…).
+ Truyện cổ tích: tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện vầ hình tượng được hư cấu kể về số phận con người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân (Tấm Cám, Thạch Sanh, Sọ Dừa…).
+ Truyện cười: tác phẩm tự sự dân gian ngắn, kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, kể về những việc xấu, trái tự nhiên có tác dụng gây cười nhằm giải trí hoặc phê phán (VD: Nhưng nó phải bằng hai mày, Lợn cưới áo mới, Cháy…).
+ Tục ngữ: những câu nói ngắn gọn, có hình ảnh, vần, nhịp, đúc kết kinh nghiệm của nhân dân (VD: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng…).
+ Câu đố: bài văn vần/câu nói có vần mô tả vật đố bằng ẩn dụ hoặc hình ảnh, hình tượng khác lạ để người nghe tìm lời giải, nhằm mục đích giải trí, rèn tư duy, cung cấp tri thức về đời sống (VD: Một đàn cò trắng phau phau/Ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm – đố về cái bát).
+ Ca dao: tác phẩm thơ trữ tình dân gian, kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, diễn tả nội tâm con người (VD: Thân em như tấm lụa đào/Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai).
+ Vè: tác phẩm tự sự dân gian bằng văn vần, có lối kể mộc mạc, phần lớn nói về các sự việc, sự kiện của làng, của nước mang tính thời sự.
+ Truyện thơ: tác phẩm tự sự dân gian bằng thơ phản ánh số phận và khát vọng của con người về hạnh phúc lứa đôi và công bằng xã hội (VD: Tiễn dặn người yêu…).
+ Chèo: kịch hát dân gian, kết hợp trữ tình và trào lộng để ca ngợi những tấm gương đạo đức và phê phán, đả kích cái xấu trong xã hội (VD: Lưu Bình Dương Lễ, Quan âm thị kính…).
Câu 3 trang 19 SGK Ngữ văn tập 1
+ VHDG là kho tri thức, kho kinh nghiệm lâu đời, phong phú về mọi lĩnh vực (tự nhiên, xã hội, con người), thể hiện trình độ, quan điểm, nhận thức của nhân dân 54 dân tộc ở nước ta.
+ VHDG có giá trị giáo dục sâu sắc về đạo lí làm người như bồi đắp tình yêu thương đồng loại, đề cao tinh thần đấu tranh giải phóng con người khỏi bất công, tin tưởng vào chiến thắng của chính nghĩa, góp phần hình thành những phẩm chất tốt đẹp như tình yêu quê hương đất nước, tinh thần bất khuất, đức kiên trung, tính vị tha…
+ VHDG có giá trị thẩm mĩ to lớn, góp phần quan trọng tạo nên bản sắc riêng cho nền văn học dân tộc: nhiều tác phẩm đạt đến trình độ nghệ thuật mẫu mực. Khi chưa có văn học viết, VHDG đóng vai chủ đạo. Tiếp đó, VHDG trở thành nền tảng và nguồn nuôi dưỡng để phát triển văn học viết, cùng văn học viết làm rạng rỡ nên văn học dân tộc.
Khái Quát Văn Học Dân Gian Việt Nam
Hướng dẫn soạn bài: Luyện tập phỏng vấn và trả lời phỏng vấn I. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Về khái niệm văn học dân gian
Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng được tập thể sáng tạo, nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho những sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.
2. Các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian
Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng.
Thực chất của quá trình truyền miệng là sự ghi nhớ theo kiểu nhập tâm và phổ biến bằng miệng cho người khác. Văn học dân gian khi được phổ biến lại, đã thông qua lăng kính chủ quan (bộ não người) nên thường được sáng tạo thêm. Văn học dân gian thường được truyền miệng theo không gian (từ vùng này qua vùng khác), hoặc theo thời gian (từ đời trước đến đời sau).
Quá trình truyền miệng thường được thực hiện thông qua diễn xướng – tức là hình thức trình bày tác phẩm một cách tổng hợp (nói, hát, kể).
Văn học dân gian là kết quả của những quá trình sáng tác tập thể.
Tập thể là tất cả mọi người, ai cũng có thể tham gia sáng tác. Nhưng quá trình này, lúc đầu do một người khởi xướng lên, tác phẩm hình thành và được tập thể tiếp nhận. Sau đó những người khác (địa phương khác, thời đại khác) tham gia sửa chữa, bổ sung cho tác phẩm biến đổi dần. Quá trình bổ sung này thường làm cho tác phẩm phong phú hơn, hoàn thiện hơn.
Mỗi cá nhân tham gia vào quá trình sáng tác này ở những thời điểm khác nhau. Nhưng vì truyền miệng nên lâu ngày, người ta không nhớ được và cũng không cần nhớ ai là tác giả. Tác phẩm dân gian vì thế đã trở thành của chung, ai cũng có thể tùy ý thêm bớt, sửa chữa.
Văn học dân gian gắn bó và phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.
Sinh hoạt cộng đồng là những sinh hoạt chung của nhiều người như lao động tập thể, vui chơi ca hát tập thể, hội hè… Trong những sinh hoạt này, tác phẩm văn học dân gian thường đóng vai trò phối hợp hoạt động, tạo nhịp điệu cho hoạt động (những bài hò : hò chèo thuyền, hò đánh cá,…).
Không những thế, văn học dân gian còn gây không khí để kích thích hoạt động, gợi cảm hứng cho người trong cuộc (ví dụ những câu chuyện cười được kể trong lao động giúp tạo ra sự sảng khoái, giảm bớt sự mệt nhọc trong công việc).
3. Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam
Dựa vào những đặc điểm giống nhau cơ bản về nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm trong cùng một nhóm, có thể thấy văn học dân gian Việt Nam gồm những thể loại chính như sau : thần thoại, sử thi dân gian, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, tục ngữ, câu đố, ca dao – dân ca, vè, truyện thơ, các thể loại sân khấu (chèo, tuồng, múa rối, các trò diễn mang tích truyện).
4. Những giá trị cơ bản của văn học dân gian
Văn học dân gian là kho trí thức vô cùng phong phú về đời sống của các dân tộc (kho trí khôn của nhân dân về mọi lĩnh vực của đời sống tự nhiên, xã hội, con người). Kho tri thức này phần lớn là những kinh nghiệm lâu đời được nhân dân ta đúc kết từ thực tế. Vào trong các tác phẩm, nó được mã hoá bằng những ngôn từ và hình tượng nghệ thuật tạo ra sức hấp dẫn người đọc, người nghe, dễ phổ biến, dễ tiếp thu và có sức sống lâu bền cùng năm tháng.
Văn học dân gian ngợi ca, tôn vinh những giá trị tốt đẹp của con người. Vì thế, nó có giá trị giáo dục sâu sắc về truyền thống dân tộc (truyền thống yêu nước, đức kiên trung, lòng vị tha, lòng nhân đạo, tinh thần đấu tranh chống cái ác, cái xấu,…). Văn học dân gian cũng vì thế mà góp phần hình thành những giá trị tốt đẹp cho các thế hệ xưa và nay.
Văn học dân gian có giá trị to lớn về nghệ thuật. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nền văn học dân nước nhà. Nó đã trở thành những mẫu mực để đời sau học tập. Nó là nguồn nuôi dưỡng, là cơ sở của văn học viết.
II. RÈN KĨ NĂNG 1. Những đặc điểm chính của từng thể loại văn học dân gian Việt Nam:
Nội dung
Kể lại sự tích các vị thần sáng tạo thế giới tự nhiên và văn hoá, phản ánh nhận thức của con người thời cổ đại về nguồn gốc của thế giới và đời sống con người.
Nội dung
Kể lại những sự kiện lớn có ý nghĩa quan trọng đối với số phận cộng đồng.
Nội dung
Nội dung
Kể về số phận của những con người bính thường trong xã hội(người mồ côi, người em, người dũng sĩ, chàng ngốc,… ; thể hiện quan niệm và mơ ước của nhân dân về hạnh phúc và công bằng xã hội.
Nội dung
Kể lại các sự việc, hiện tượng gây cười nhằm mục đích giải trí và phê phán xã hội.
Nội dung
Kể lại các câu chuyện trong đó nhân vật chủ yếu là động vật và đồ vật nhằm nêu lên những kinh nghiệm sống, bài học luân lí, triết lí nhân sinh.
Nội dung
Đúc kết kinh nghiệm của nhân dân về thế giới tự nhiên, về lao động sản xuất và về phép úng xử trong cuộc sống con người.
Nội dung
Trữ tình, diễn tả đời sống nội tâm của con người
Nội dung
Nội dung
Kết hợp trữ tình và tự sự, phản ánh số phận của người nghèo khổ và khát vọng về tình yêu tự do, về sự công bằng trong xã hội
Nội dung
Diễn tả những cảnh sinh hoạt và những kiểu mẫu người điển hình trong xã hội nông nghiệp ngày xưa.
2. Sự tương đồng và khác biệt giữa các thể loại văn học dân gian :
Văn học dân gian Việt Nam cũng như văn học dân gian của nhiều dân tộc khác trên thế giới có những thể loại chung và riêng. Điều đáng lưu ý là ngay trong hệ thống thể loại văn học dân gian của từng dân tộc lại có thể tìm thấy những điểm tương đồng và khác biệt.
Sự khác biệt : Tuy nhiên mỗi thể loại văn học dân gian lại có một mảng đề tài và một cách thức thể hiện nghệ thuật riêng(ví dụ Ca dao quan tâm đến đời sống tâm hồn của con người và thể hiện nó bằng bút pháp trữ tình ngọt ngào, lãng mạn…trong khi đó, Thần thoại lại giải thích quá trình hình thành thế giới, giải thích các hiện tượng tự nhiên,… bằng hình ảnh các thần. Sử thi lại khác, chủ yếu quan tâm phản ánh những sự kiện lớn lao có tính quyết định tới số phận của cộng đồng Sử thi thể hiện nội dung bằng nghệ thuật miêu tả với những hình ảnh hoành tráng và dữ dội…). Sự khác nhau của các thể loại văn học dân gian cho thấy sự đa dạng về nghệ thuật. Đồng thời nó cũng cho thấy khả năng chiếm lĩnh phong phú hiện thực cuộc sống của nhân dân ta.
Soạn Bài Khái Quát Văn Học Dân Gian Việt Nam
Sau khi học xong bài học Khái quát văn học dân gian Việt Nam, các em học sinh cần nắm được các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian và khái niệm về các thể loại của văn học dân gian Việt Nam. Hiểu rõ vị trí, vai trò và những giá trị to lớn của văn học dân gian trong mối quan hệ với văn học viết và đời sống văn hoá dân tộc và cũng là tiền đề để học các tác phẩm văn học dân gian trong chương trình Ngữ văn 10 sau đó.
Có thể tóm tắt ngắn gọn như sau:
I. Đặc trưng cơ bản của văn học dân gian
– Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng (tính truyền miệng): Truyền miệng là phương thức sáng tác và lưu truyền của văn học dân gian. Đó là nhu cầu sáng tác và thưởng thức văn học dân gian một cách trực tiếp, là hình thức giao tiếp trực tiếp giữa các thành viên với cộng đồng. Phương thức truyền miệng tạo nên hình thức diễn xướng của văn học dân gian.
– Văn học dân gian là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể (tính tập thể): Tập thể là một biểu hiện khác của phương thức sáng tác và lưu truyền của văn học dân gian. Quá trình ấy bắt đầu do một cá nhân diễn xướng, tác phẩm hình thành và được tập thể tiếp nhận; sau đó tiếp tục được lưu truyền và được hoàn thiện về mọi mặt.
II. Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam
1. Thần thoại: tác phẩm tự sự dân gian thường kể về các vị thần, nhằm giải thích tự nhiên, thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên và phản ánh quá trình sáng tạo văn hoá của con người thời cổ đại.
2. Sử thi: tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hoặc nhiều biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng của cư dân thời cổ đại.
4. Truyện cổ tích: tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định, kể về số phận con người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động.
6. Truyện cười: tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, kể về những sự việc xấu, trái tự nhiên trong cuộc sống, có tác dụng gây cười, nhằm mục đích giải trí, phê phán.
7. Tục ngữ: câu nói ngắn gọn, hàm súc, phần lớn có hình ảnh, vần, nhịp, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn, thường được dùng trong ngôn ngữ giao tiếp hằng ngày của nhân dân.
8. Câu đố: bài văn vần hoặc câu nói thường có vần, mô tả vật đố bằng ẩn dụ hoặc những hình ảnh, hình tượng khác lạ để người nghe tìm lời giải, nhằm mục đích giải trí, rèn luyện tư duy và cung cấp những tri thức về đời sống.
9. Ca dao: tác phẩm thơ trữ tình dân gian, thường kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm diễn tả thế giới nội tâm của con người.
10. Vè:
tác phẩm tự sự dân gian bằng văn vần, có lối kể mộc mạc, phần lớn nói về các sự việc, sự kiện của làng, của nước mang tính thời sự.
11. Truyện thơ: tác phẩm tự sự dân gian bằng thơ, phản ánh số phận và khát vọng của con người về hạnh phúc lứa đôi và sự công bằng xã hội.
12. Chèo: tác phẩm kịch hát dân gian, kết hợp các yếu tố trữ tình và trào lộng để ca ngợi những tấm gương đạo đức và phê phán, đả kích cái xấu trong xã hội.
III. Những giá trị cơ bản của văn học dân gian Việt Nam
– Là kho tri thức vô cùng phong phú về đời sống các dân tộc: tri thức về tự nhiên, xã hội và con người đa dạng, phần lớn là kinh nghiệm lâu đời được nhân dân đúc kết từ thực tiễn thể hiện trình độ và quan điểm nhận thức của nhân dân.
– Có giá trị giáo dục sâu sắc về đạo lí làm người: lòng yêu nước, tinh thần bất khuất, kiên trung, vị tha, …
– Có giá trị thẩm mĩ to lớn, góp phần quan trọng tạo nên bản sắc riêng cho nền văn học dân tộc: được mài giũa, chắt lọc qua không gian và thời gian trở thành viên ngọc sáng trong kho tàng văn hóa Việt Nam, là nền tảng cho văn học viết hình thành và phát triển, làm cho nền văn học Việt Nam trở nên phong phú, đa dạng và đậm đà.
B- HƯỚNG DẪN SOẠN BÀIKHÁI QUÁT VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAMĐọc tài liệu tổng hợp những bài soạn văn Khái quá văn học dân gian Việt Nam lớp 10 ngắn gọn, đầy đủ và những cách trả lời câu hỏi trang 19 SGK Ngữ văn 10 tập 1 cho các em tham khảo.
Soạn Khái quát văn học dân gian Việt Nam ngắn nhất
Câu 1 trang 19 SGK Ngữ văn 10 tập 1
Trình bày các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian.
Trả lời:
Các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian:
– Tính truyền miệng:
+ Truyền miệng là sự ghi nhớ theo kiểu nhập tâm, phổ biến bằng lời nói, hoặc trình diễn cho người khác nghe, xem.
+ Văn học dân gian tồn tại, lưu hành theo phương thức truyền miệng.
+ Truyền miệng thể hiện trong quá trình diễn xướng.
– Tính tập thể:
+ Tập thể là tất cả mọi người.
+ Quá trình sáng tác tập thể: từ một người khởi xướng, tác phẩm hình thành và được tập thể tiếp nhận, sau đó người khác tiếp tục lưu truyền.
+ Tác phẩm văn học dân gian là tài sản chung của tập thể, mỗi người có thể tiếp nhận, sử dụng, sửa chữa, bổ sung.
+ Văn học dân gian gắn bó trực tiếp, phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt.
Câu 2 trang 19 SGK Ngữ văn 10 tập 1
Văn học dân gian có những thể loại nào? Hãy định nghĩa ngắn gọn và nêu ví dụ (tên tác phẩm) theo từng thể loại.
Trả lời:
Văn học dân gian có những thể loại:
1. Thần thoại: kể về các vị thần, nhằm giải thích tự nhiên, thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên và phản ánh quá trình sáng tạo văn hóa của con người thời cổ đại. ( Con rồng cháu tiên, Thần trụ trời)
2. Sử thi: có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng. ( Đăm Săn, Đẻ đất đẻ nước).
3. Truyền thuyết: kể về sự kiện và nhân vật lịch sử phần lớn theo xu hướng lí tưởng hóa, qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân đối với người có công với đất nước, dân tộc hoặc cộng đồng cư dân của một vùng. ( Thánh Gióng, Sự tích Hồ Gươm).
4. Truyện cổ tích: Cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định, kể về số phận con người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động. ( Tấm Cám, Sọ Dừa).
6. Truyện cười: ngắn, có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, kể về những sự việc xấu, trái tự nhiên trong cuộc sống, có tác dụng gây cười, nhằm mục đích giải trí, phê phán. ( Lợn cưới áo mới)
7. Tục ngữ: câu nói ngắn gọn, hàm súc, phần lớn có hình ảnh, vần, nhịp, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn, thường được dùng trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày của nhân dân.
8. Câu đố: bài văn vần hoặc câu nói thường có vần, mô tả vật đố bằng ẩn dụ hoặc những hình ảnh, hình tượng khác lạ để người nghe tìm lời giải, nhằm mục đích giải trí, rèn luyện tư duy và cung cấp những tri thức về đời sống. ( Đố về mưa, Cây chuối, Đèn kéo quân,..).
9. Ca dao: tác phẩm thơ trữ tình dân gian, thường kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm diễn tả thế giới nội tâm của con người.( Ca dao than thân, yêu thương, tình nghĩa,…)
10. Vè: văn vần, có lối kể mộc mạc, phần lớn nói về các sự việc, sự kiện của làng, của nước mang tính thời sự.( Vè chàng Lía, Vè Thất thủ kinh đô).
11. Truyện thơ: phản ánh số phận và khát vọng của con người về hạnh phúc lứa đôi và sự công bằng xã hội.( Tiễn dặn người yêu – dân tộc Thái).
12. Chèo: tác phẩm kịch hát dân gian, kết hợp các yếu tố trữ tình và trào lộng để ca ngợi những tấm gương đạo đức, phê phán, đả kích cái xấu trong xã hội. ( Quan Âm Thị Kính).
Câu 3 trang 19 SGK Ngữ văn 10 tập 1
Tóm tắt nội dung các giá trị của văn học dân gian.
Trả lời:
– Văn học dân gian là kho tri thức vô cùng phong phú về đời sống các dân tộc: Văn học dân gian vừa chưa đựng những tri thức về tự nhiên và xã hội, đem lại những giá trị nhân văn và bản sắc văn hóa của các dân tộc.
– Văn học dân gian có giá trị giáo dục sâu sắc về đạo lí làm người: Văn học dân gian mang đến những bài học nhẹ nhàng mà sâu sắc về đạo lí nhân sinh để giáo dục con người, giúp chúng ta phân biệt thiện – ác thể hiện khát vọng hạnh phúc, giúp cuộc sống có ý nghĩa hơn.
– Văn học dân gian góp phần quan trọng tạo nên bản sắc riêng cho nền văn học dân tộc: Trải qua hàng ngàn năm, Văn học dân gian là nơi lưu giữ những giá trị thẩm mĩ to lớn của mỗi vùng miền, tạo bản sắc riêng biệt là cơ sở cho nền văn học sau này.
Soạn Khái quát văn học dân gian Việt Nam hay nhất
Bài 1 trang 19 SGK Ngữ văn 10 tập 1
Trình bày các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian.
Trả lời: 1. Tính truyền miệng
– Văn học dân gian thường được truyền miệng theo không gian (từ vùng này qua vùng khác), hoặc theo thời gian (từ đời trước đến đời sau).
– Quá trình truyền miệng thường được thực hiện thông qua diễn xướng – tức là hình thức trình bày tác phẩm một cách tổng hợp (nói, hát, kể).
– Ảnh hưởng:
+ Làm cho tác phẩm văn học dân gian được trau chuốt, hoàn thiện, phù hợp hơn với tâm tình của nhân dân lao động.
+ Tạo nên tính dị bản (nhiều bản kể) của văn học dân gian.
2. Tính tập thể
– Quá trình sáng tác tập thể: Cá nhân khởi xướng – tập thể hưởng ứng (tham gia cùng sáng tạo hoặc tiếp nhận) cùng tu bổ, sửa chữa, thêm bớt cho phong phú, hoàn thiện.
– Trong khi tham gia lao động sản xuất, mọi người thường có những câu ca hay những câu chuyện hay kể cho cả một tập thể nghe. Đã có những câu hò hay những điệu nhạc reo vang, nó trở thành những tác phẩm vẻ vang trong thời kì lịch sử .
Ngoài ra, văn học dân gian còn có tính thực hành, là sự gắn bó và phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.
– Ví dụ:
+ Bài ca lao động: Hò sông Mã, hò giã gạo,…
+ Bài ca nghi lễ: Hát mo Đẻ đất đẻ nước của người Mường,…
Bài 2 trang 19 SGK Ngữ văn 10 tập 1
Văn học dân gian có những thể loại nào? Hãy định nghĩa ngắn gọn và nêu ví dụ (tên tác phẩm) theo từng thể loại.
Trả lời: 1. Truyện thần thoại
– Thần thoại là hình thức tự sự dân gian, thường kể về các vị thần xuất hiện chủ yếu ở thời công xã nguyên thủy nhằm giải thích các hiện tượng tự nhiên, thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên, quá trình sáng tạo văn hóa của người Việt cổ.
– Do quan niệm của người Việt cổ, mỗi hiện tượng tự nhiên là một vị thần cai quản như thần sông, thần núi, thần biển…. nhân vật trong thần thoại là thần khác hẳn những vị thần trong thần tích, thần phả.
VD: Sơn Tinh – Thủy Tinh, Thần trụ trời…
2. Sử thi dân gian
– Là những tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hoặc nhiều biến cố lớn lao diễn ra trong đời sống cộng đồng của nhân dân thời cổ đại.
Ví dụ: sử thi “Đẻ đất đẻ nước” của người Mường dài 8530 câu thơ tả lại sự việc trần gian từ khi hình thành vũ trụ đến khi bản Mường được ổn định.
– Nhân vật sử thi mang cốt cách của cộng đồng (tượng trưng cho sức khỏe, niềm tin của cộng đồng). Ví dụ: Đăm Săn chiến đấu với mọi thế lực để đem bình yên cho muôn làng. Uylitxơ cùng đồng đội lênh đênh ngoài biển khơi gắn liền với thời đại người Hi Lạp cổ đại chinh phục biển cả…
3. Truyền thuyết
– Dòng tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật cụ thể theo xu hướng lí tưởng hóa. Qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh người có công với đất nước, dân tộc hoặc cộng đồng dân cư của một vùng.
– Xu hướng lí tưởng hóa: Nhân dân gửi vào đó những ước mơ khát vọng của mình. Khi có lũ lụt họ ước có một vị thần trị thủy. Khi có giặc họ mơ có một Thánh Gióng. Trong hòa bình, họ mơ có một hoàng tử Lang Liêu làm ra nhiều thứ bánh ngày tết. Đó là người anh hùng sáng tạo văn hóa.
Ví dụ: truyền thuyết Hùng Vương; An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy; Bánh chưng bánh dày….
4. Cổ tích
– Dòng tự sự dân gian mà cốt truyện kể về những con người bình thường trong xã hội có phân chia đẳng cấp, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động.
– Nội dung truyện cổ tích thường đề cập tới hai vấn đề cơ bản: kể về số phận bất hạnh của người nghèo khổ, phản ánh cuộc đấu tranh xã hội và ước mơ khát vọng đổi đời của nhân dân…(nhân đạo, lạc quan).
– Nhân vật thường là em út, con riêng, thân phận mồ côi như: Sọ dừa, Tấm Cám, Thạch Sạch…
Ví dụ: Thạch Sanh, Tấm Cám, Cây khế…
5. Truyện cười
– Truyện cười thuộc dòng tự sự dân gian rất ngắn, có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ. Truyện xây dựng trên cơ sở mâu thuẫn trong cuộc sống làm bật lên tiếng cười nhằm mục đích giải trí hoặc phê phán xã hội.
– Các mâu thuẫn trong truyện cười
+ Cái bình thường với không bình thường.
+ Mâu thuẫn giữa lời nói với việc làm.
+ Mâu thuẫn trong nhận thức lí tưởng.
Ví dụ: Tam đại con gà, Nhưng nó phải bằng hai mày
6. Truyện ngụ ngôn
– Truyện viết theo phương thức tự sự dân gian rất ngắn gọn, kết cấu rất chặt chẽ, nhân vật là người, bộ phận của con người, là vật (phần lớn là các con vật) biết nói, có tính cách như người. Từ đó rút ra những kinh nghiệm và triết lí sâu sắc.
– Nhân vật truyện ngụ ngôn rất rộng rãi có thể là vật, các con vật hoặc người. Truyện có thể xảy ra ở bất cứ đâu.
Ví dụ: Treo biển, Trí khôn…
7. Tục ngữ
– Câu nói ngắn gọn, hàm súc, phần lớn có hình ảnh, nhịp điệu, đúc kết những kinh nghiệm sống.
– Ví dụ: Tấc đất, tấc vàng. Kiến tha lâu cũng đầy tổ
8. Câu đố
– Bài văn hoặc câu nói có vần, mô tả sự vật bằng ẩn dụ những hình ảnh, hiện tượng khác lạ để người nghe tìm lời giải nhằm mục đích giải trí, rèn luyện tư duy.
9. Ca dao
– Tác phẩm thơ trữ tình dân gian, thường được kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, diễn tả thế giới nội tâm của con người.
– Ví dụ: Thân em như tấm lụa đào/Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
10. Vè
– Tác phẩm tự sự dân gian bằng văn vần, nói về các sự việc, sự kiện của làng, của nước mang tính thời sự qua lối kể mộc mạc.
– Ví dụ: Bà còng đi chợ trời mưa.
11. Truyện thơ
– Là tác phẩm tự sự dân gian bằng thơ, phản ảnh số phận và khát vọng của con người về hạnh phúc và sự công bằng.
12. Chèo
– Tác phẩm sân khấu dân gian kết hợp với yếu tố trữ tình và trào lộng, ca ngợi những tấm gương đạo đức phê phán đả kích mặt trái của xã hội.
– Ngoài chèo còn có những thể loại sân khấu khác cũng thuộc về dân gian như tuồng, cải lương, múa rối.
– Ví dụ: Chèo Quan Âm Thị Kính, Suý Vân giả dại.
Bài 3 trang 19 SGK Ngữ văn 10 tập 1
Tóm tắt nội dung các giá trị của văn học dân gian.
Trả lời: Các giá trị của văn học dân gian: * Văn học dân gian là kho tri thức vô cùng phong phú về đời sống các dân tộc.
– Tri thức trong văn học dân gian thuộc đủ mọi lĩnh vực của đời sống, vô cùng phong phú và đa dạng.
– Tri thức dân gian phần lớn là những kinh nghiệm lâu đời được nhân dân đúc kết từ thực tiễn, thể hiện trình độ và quan điểm nhận thức của nhân dân.
* Văn học dân gian có giá trị giáo dục sâu sắc về đạo lí làm người
– Văn học dân gian giáo dục con người tinh thần nhân đạo và lạc quan: tình yêu thương đồng loại, tinh thần đấu tranh để bảo vệ và giải phóng con người, niềm tin bất diệt vào chiến thắng của chính nghĩa, của cái thiện.
– Văn học dân gian góp phần hình thành những phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu quê hương, đất nước, tinh thần bất khuất, đức kiên trung, vị tha, tính cần kiệm, óc thực tiễn,…
* Văn học dân gian có giá trị thẩm mĩ to lớn, góp phần quan trọng tạo nên bản sắc riêng cho nền văn học dân tộc
– Nhiều tác phẩm trở thành mẫu mực nghệ thuật độc đáo.
– Đóng vai trò chủ đạo trong giai đoạn lịch sử dân tộc chưa có chữ viết.
– Khi có văn học viết, văn học dân gian trở thành nguồn nuôi dưỡng và cơ sở của văn học viết.
– Các nhà văn, nhà thơ học được rất nhiều từ văn học dân gian.
Văn học dân gian là kết quả của quá trình sáng tác tập thể, tồn tại dưới hình thức truyền miệng thông qua diễn xướng. Trong quá trình lưu truyền, tác phẩm văn học dân gian được tập thể không ngừng hoàn thiện. Văn học dân gian gắn bó và phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.
Văn học dân gian có nhiều giá trị to lớn về nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, cần được trân trọng và phát huy.
-/-
Cập nhật thông tin chi tiết về Hướng Dẫn Soạn Văn Khái Quát Văn Học Việt Nam Ngắn Gọn trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!