Xu Hướng 5/2023 # Học Tiếng Anh Pháp Lý Ở Môi Trường Đại Học # Top 5 View | Englishhouse.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # Học Tiếng Anh Pháp Lý Ở Môi Trường Đại Học # Top 5 View

Bạn đang xem bài viết Học Tiếng Anh Pháp Lý Ở Môi Trường Đại Học được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Ngày nay, Tiếng Anh Pháp Lý (TAPL) đã trở thành một bộ phận của ngành ngôn ngữ học hiện đại, hay được gọi là một “Tiểu Ngôn Ngữ” bởi TAPL phân biệt nó rất rõ với Tiếng Anh phổ thông về cấu trúc, từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp,…

I. Tiếng Anh Pháp Lý

1. Khái niệm

Có thể nói sự phát triển vượt bậc của xã hội loài người từ một vài thập kỷ qua đã chia nhỏ các ngành học thành nhiều ngành sâu khác nhau, trong đó có Ngôn Ngữ Luật (cấu thành của ngành Ngôn Ngữ Học). Nếu như bộ xương của kinh tế học (economics) là các mô hình toán, thì với luật học là ngôn ngữ (linguistics). Tại Hoa Kỳ, các học giả gọi đó thứ Tiếng Anh Pháp Lý (Legal English) hay Ngôn Ngữ Luật (Language of the Law). Sở dĩ thứ ngôn ngữ này trở nên đặc biệt chính là vì một số đặc điểm chính như tính riêng biệt (peculiar), tính duy nhất (uniqueness), tính mơ hồ (vagueness), tính uyển chuyển (flexibility) và tính phổ quát (universality). Ngay trong nội tại của ngành Ngôn Ngữ Luật, người ta lại chia nhỏ thành Ngôn Ngữ Hợp Đồng (Contractual Language), Ngôn Ngữ Thẩm Phán (Judge-made Language), Ngôn Ngữ Luật Sư (Language for Lawyers). Trong mỗi phần ngành, người ta nghiên cứu sâu sắc về đặc điểm (character), hình thức (form), cấu trúc (structure), bản chất (nature). Trên thực tế, sự uyển chuyển về ngôn ngữ chiếm đến 99% sự thành công của việc soạn thảo một hợp đồng hay bất kỳ một văn bản mang tính pháp lý nào. Hay nói một cách hoa mỹ của các luật sư thì hợp đồng là một trò chơi về ngôn từ. Cách nói như vậy quả là không có gì ngoa nếu chúng ta nhìn một chút lại quá trình lịch sử phát triển của Ngôn Ngữ Luật (ở đây muốn nói đến cụ thể là Tiếng Anh Pháp Lý).

2. Lịch sử hình thành

Trở lại với nguồn gốc của Hệ Thống Pháp Luật Chung (hay thường gọi ngắn gọn là Thông Luật). Từ thời trước khi Vương Quốc Anh ngày nay ra đời, Thông Luật được viết bằng ngôn ngữ đời thường của các cộng đồng sống rải rác khắp các vùng thuộc nước Anh ngày nay. Thời kỳ La Mã cai trị nước Anh, ngôn ngữ của luật là tiếng Latin (khoảng năm 43 SCN). Sau khi người La Mã rời khỏi nước Anh và người Anglo-Saxon xâm chiếm và cai trị nước Anh bằng hệ thống pháp luật Anglo-Saxon, ngôn ngữ luật cổ là tiếng Giéc-manh (được coi là Tiếng Anh cổ). Sau khi người Norman xâm lược nước Anh, thì ngôn ngữ luật là tiếng Pháp, phổ biến trong khoảng hơn 3 thế kỷ. Kể từ năm 1066, tiếng Latin là ngôn ngữ chính thống của các văn bản pháp luật và mãi tới năm 1730 mới được thay thế bởi Tiếng Anh (lưu ý là Tiếng Anh của ngày đó khác khá nhiều so với Tiếng Anh hiện đại) theo Đạo Luật Tố Tụng Tại Tòa Án Công Lý (1730). Ngày nay trong Tiếng Anh Pháp Lý, chúng ta còn thấy tồn tại nhiều thuật ngữ Latin như Ipso facto (by that very fact itself), force majeure (unavoidable event), ad hoc (for a particular purpose), de facto (existence by law), bona fide (in good faith), inter alia (among other things), ultra vires (beyond powers) vvv. Chúng ta cũng thấy nhiều từ gốc tiếng pháp nay vẫn được dùng để chỉ nhiều thuật ngữ trong Thông Luật như property (properte), estate (état), chattel (chatel), executor (executor) vvv.

3. Phân loại tiếng Anh Pháp Lý Hiện Đại

Ngày nay, Tiếng Anh Pháp Lý (TAPL) đã trở thành một bộ phận của ngành ngôn ngữ học hiện đại, hay được gọi là một “Tiểu Ngôn Ngữ” bởi TAPL phân biệt nó rất rõ với Tiếng Anh phổ thông về cấu trúc, từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp vv. Nó khó hiểu và phức tạp đến độ người ta đặt riêng cho nó một tên gọi là “Legalese” để “bêu rếu” giới luật sư về cách viết và giao tiếp của họ khiến người “ngoại đạo” không thể hiểu nổi họ muốn nói gì, đặc biệt là trong ngôn ngữ của hợp đồng. Mặc dù nhiều nhà ngôn ngữ cũng như nhiều học giả phê bình thứ ngôn ngữ luật mà các luật sư đang dùng là “rối rắm” và đề xuất cải cách TAPL theo hướng đơn giản hóa, trực tiếp về ngữ nghĩa để cho dễ hiểu, nhưng nhìn vào gần như 100% các hợp đồng giao dịch tại các thị trường phát triển như Anh, Hoa Kỳ, và kể cả các hợp đồng có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, chúng ta vẫn nhận thấy một lối hành văn siêu phức tạp mà nếu không có khả năng ngôn ngữ tốt cộng với kiến thức pháp luật sâu, thì thật sự vất vả mới có thể hiểu được, hoặc tưởng là hiểu đúng, nhưng hóa ra lại đang sai mà không biết là mình sai.

Vậy tại sao TAPL lại cứ phải phức tạp như thế? Câu hỏi này thật khó trả lời, thậm chí đối với cả bản thân những người va chạm nhiều với những thứ văn bản pháp lý kiểu như vậy. Để giúp kiến giải phần nào sự phức tạp này, qua kinh nghiệm tích lũy được sau nhiều năm học tập, nghiên cứu tại cả hai nền Thông Luật (Hoa Kỳ) và Dân Luật (Việt Nam), tôi đã thử phân loại Tiếng Anh Pháp Lý ra thành nhiều cấp độ như sau: (i) Tiếng Anh dùng trong các văn bản pháp luật chính thống (Statutes, Treaties etc.,) (ii) Tiếng Anh mà các Thẩm Phán dùng để hành văn khi soạn thảo các phán quyết (Judge-made) (iii) Tiếng Anh dùng trong các hợp đồng (Contractual Language) và (iv) Tiếng Anh dùng giao tiếp pháp lý (legal opinion memo). Sự phân chia này của tôi không cố tình chia theo mức độ phức tạp và khó (mặc dù trên thực tế có sự phân biệt này), mà chỉ để cho chúng ta thấy được một số đặc điểm của từng loại văn bản mà trong đó TAPL được sử dụng.

3.1. Tiếng Anh trong các văn bản pháp lý chính thống (Đạo luật, Hiệp định vvv)

Tiếng Anh dùng trong các đạo luật (ở đây tôi chỉ nói tới các đạo luật của Hoa Kỳ) có một đặc điểm chung là tính khái quát quá cao đến độ đậm đặc và rắc rối. Có người nói tại sao không soạn thảo luật bằng một thứ Tiếng Anh thông thường để ai đọc cũng hiểu, vì mục đích cuối cùng của luật là phải đi vào cuộc sống để một người nông dân Mỹ với trình độ học vấn trung học (high school) đọc và hiểu luật quy định gì. Đơn giản đến mức như: Vỉa hè là dành cho người đi bộ hay đèn đỏ dừng xe lại hay đến ngã tư giảm tốc độ nhìn hai phía rồi đi tiếp. Ai cũng muốn viết đơn giản như thế, nhưng không hiểu sao, các đạo luật ở Mỹ lại không được soạn theo thứ Tiếng Anh đơn giản (Plain English), mà lại cứ phải sử dụng thứ Tiếng Anh phức tạp mà đến cả sinh viên tốt nghiệp đại học đọc còn không hiểu luật muốn nói gì (chưa kể đến cả sinh viên luật còn ngồi đọc nát cả luật còn hiểu chưa rõ). Lấy một ví dụ một đoạn trong Bộ Luật Thương Mại Thống Nhất Hoa Kỳ:

“2-316. Exclusion or Modification of Warranties: (1) Words or conduct relevant to the creation of an express warranty and words or conduct tending to negate or limit warranty shall be construed wherever reasonable as consistent with each other; but subject to the provisions of this Article on parol or extrinsic evidence (Section 2-202) negation or limitation is inoperative to the extent that such construction is unreasonable…”

Tóm lại, khi một người bình thường đọc kiểu ngôn ngữ này sẽ “chau mày” vì khó hiểu. Điều này là đúng sự thật vì đến cả người hành nghề luật, nghiên cứu luật và học trường luật tại Mỹ cùng còn thấy khó hiểu. Đây chỉ là một ví dụ trong muôn ngàn ví dụ có thể kể ra khi đọc luật Mỹ, chưa kể nếu chúng ta có tham vọng dịch Bộ Luật Thương Mại Thống Nhất này ra tiếng Việt để phục vụ mục đích tham khảo cho các nhà làm luật và nghiên cứu pháp luật ở nước ta. Khi không hiểu, thì chắc chắn dịch sẽ sai, và như thế thực sự là tai hại.

Sở dĩ thứ ngôn ngữ này khó hiểu đến vậy vì ẩn trong mỗi đạo luật là những triết lý, những học thuyết pháp luật đã hình thành từ lâu đời mà muốn hiểu rõ thì phải học, phải đọc lại các học thuyết đó, đọc lại các án lệ (precedents) xem quan điểm của các thẩm phán như thế nào và kết luận ra sao. Ngay trong đoạn trên, một sinh viên luật trung bình phải biết tra cứu xem thế nào là warranties, có các dạng warranties nào và ý nghĩa của chúng là gì. Ví dụ, warranties of merchantability hay warranties of fitness, và chúng là “implied” hay “express”. Mỗi dạng lại có một hậu quả pháp lý khác nhau. Hay chúng ta nhìn thay có học thuyết “parol evidence rule” trong đoạn trích trên. Đây là cả một học thuyết về hợp đồng, mà người không học không hiểu được. Đấy là còn chưa kể đến cấu trúc ngữ pháp của câu, đoạn nối tiếp nhau, đoạn này dẫn chiếu tới đoạn kia và ngược lại, bổ sung cho nhau hay loại trừ lẫn nhau. Nói tóm lại, nếu chỉ đọc trên bề mặt thì không sao hiểu được, mà phải đọc từ án lệ điển hình xem cách tiếp cận và diễn giải của các thẩm phán có uy tín mới vỡ ra được.

3.2. Tiếng Anh của Thẩm Phán

Trong cuốn sách nổi tiếng về Legal Writing (Viết Tiếng Anh Pháp Lý), Giáo sư Bryan A. Garner đã phải thốt lên rằng “Mỗi sinh viên luật phải đọc và tiêu hóa cả đống văn bản rải rác khắp nơi. Bạn phải đọc qua các bản án cổ dài tới 50 trang chỉ để nói cái có thể được nói dứt khoát trong 5 trang….”

“And in the outset we may as well be frank enough to confess, and, indeed, in view of the seriousness of the consequences which upon fuller reflection we find would inevitably result to municipalities in the matter of street improvements from the conclusion reached and announced in the former opinion, we are pleased to declare that the arguments upon rehearing have convinced us that the decision upon the ultimate question involved here formerly rendered by this court, even if not faulty in its reasoning from the premises announced or wholly erroneous in conclusions as to some of the questions incidentally arising and necessarily legitimate subjects of discussion in the decision of the main proposition, is, at any rate, one which may, under the peculiar circumstances of this case, the more justly and at the same time, upon reasons of equal cogency, be superseded by a conclusion whose effect cannot be to disturb the integrity of the long and well-established system for the improvement of streets in the incorporated cities and towns of California not governed by freeholders’ charters.”

Tòa muốn nói gì ở đây sau một đoạn văn dài dòng và cách điệu? theo Garner, tòa muốn nói “we made a mistake last time”, có thế thôi.

3.3. Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng

Nguyên tắc tự do hợp đồng (freedom to contract) được thừa nhận rộng rãi ở các nền tài phán theo hệ thống luật chung và đây chính là khoảng trống lớn nhất để các bên thương lượng và đưa vào hợp đồng bất kỳ điều khoản nào (miễn là không trái với pháp luật và đạo đức xã hội). Chính vì thế, đây là “đất diễn” của giới luật sư và đây cũng chính là chỗ để thể hiện “trò trơi pháp luật” bằng ngôn ngữ. Thật không ngoa khi nói luật sư tạo ra thứ pháp luật thứ ba, là Lawyer-Made Law (bên cạnh Hiến Pháp, Luật và Luật do Thẩm Phán tạo ra (Judge-made law dưới dạng các án lệ). Chính vì các bên đều mong muốn đưa ý đồ của mình vào hợp đồng, nên cần có sự thỏa hiệp, và do đó nhiều khi chúng ta thấy một điều khoản dài dòng, đọc không biết đâu là đầu, đâu là cuối, đâu là chủ ngữ và đâu là vị ngữ, và mệnh đề phụ này bổ nghĩa cho mệnh đề chính nào. Cấu trúc giao dịch càng phức tạp thì hợp đồng thể hiện cấu trúc đó càng phức tạp.

Để hiểu được hợp đồng, người học phải có một nền tảng về các nguyên tắc cơ bản. Không có gì xa lạ khi trong các hợp đồng chúng ta thường thấy xuất hiện các từ ngữ như terms and conditions, covenants, conditions precedent, representations and warranties, waivers, successor, survival, deed of accession etc. Thực sự đây là những thứ ngôn ngữ của nền tài phán Thông Luật đang xâm chiếm và được chấp nhận tại nhiều nền tài phán khác nhau, trong đó có Việt Nam. Tất cả những loại điều khoản này đã có khuôn mẫu được nhiều thế hệ luật sư Anh-Mỹ soạn thảo, và các luật sư sau này chỉ cần thêm bớt, chỉnh sửa theo ý đồ đàm phán thực tế của từng giao dịch. Đây là lúc mà luật sư cần thể hiện một thứ ngôn ngữ sao cho chuyên nghiệp để không quá chênh lệch với thứ ngôn ngữ “boilerplate” trong từng điều khoản. Ngoài ra, chúng ta còn thấy nhiều dạng điều khoản như disclaimers of liability, implied and express warranties of merchantability and fitness; rồi nhiều học thuyết ẩn sau hợp đồng như paro evidence rule, promissory estoppels, statute of frauds, statute of limitations; cũng như các biện pháp khắc phục như compensatory and punitive damages, restitution (unjust enrichment) vân vân.

Tại Việt Nam, trong khoảng 10 năm trở lại đây, các luật sư (đặc biệt là những luật sư làm việc trong môi trường hành nghề có yếu tố nước ngoài) đã dần quen với những dạng, kiểu ngôn ngữ như vậy. Những hợp đồng có yếu tố nước ngoài như Share Purchase or Subscription Agreement, Bond, Securities Lending, Guarantee, Purchasing Order, Loan Agreement, là những chỗ chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều những phong cách ngôn ngữ du nhập từ hệ thống luật chung. Điều đáng nói là (có thể) những kiểu hợp đồng và ngôn ngữ này lại không được giảng dậy một cách chính quy tại bất kỳ một trường đại học luật nào ở Việt Nam. Xin thứ lỗi nếu ý kiến của tôi là chưa đúng.

3.4. Ngôn ngữ tư vấn luật

II. Soạn thảo pháp lý

Rất nhiều các bối cảnh pháp lý khác nhau sẽ có những yêu cầu riêng về hình thức văn bản pháp lý đặc thù cần phải sử dụng cho việc giao tiếp bằng văn bản. Trong nhiều trường hợp, văn bản là phương tiện để một luật sư có thể biểu đạt những phân tích của họ về một vấn đề và tìm cách thuyết phục người khác thay mặt cho khách hàng của họ. Bất kỳ một văn bản pháp lý nào được soạn ra đều phải đáp ứng yêu cầu chung là phải súc tích, rõ ràng và phù hợp với các tiêu chuẩn khách quan đã được hình thành đối với nghề luật.

Thông thường sẽ có hai loại soạn thảo pháp lý là phân tích pháp lý (legal analysis) và phác thảo pháp lý (legal drafting). Loại 1 gồm 2 kiểu. Kiểu thứ nhất là việc soạn thảo nhằm phân tích hài hòa về một vấn đề hay sự việc pháp lý. Ví dụ của kiểu 1 này là biên bản ghi nhớ giữa các văn phòng luật sư và thư tư vấn, trao đổi gửi cho khách hàng. Để có thể đạt hiệu quả cao trong kiểu soạn thảo này, người luật sư cần phải nhạy cảm đối với nhu cầu, mức độ quan tâm và lai lịch của các bên mà họ đại diện. Một biên bản ghi nhớ cho một đối tác trong cùng một công ty luật mà ghi chi tiết định nghĩa các khái niệm pháp lý cơ bản sẽ trở nên vô nghĩa và không hiệu quả. Ngược lại, đối với các biên bản ghi nhớ với khách hàng không có kiến thức về luật pháp mà không ghi rõ các định nghĩa trên thì có thể sẽ gây nhầm lẫn và phức tạp hóa một tình huống đơn giản.

Bên cạnh loại 1, còn có loại 2 là hình thức soạn thảo các văn bản pháp lý như hợp đồng hay di chúc. Đối với những thể loại văn bản này, thường sẽ có những mẫu văn bản cụ thể có sẵn để áp dụng, tuy nhiên việc soạn ra các văn bản đặc biệt áp dụng mẫu cho thực tế của sự việc cũng thường được yêu cầu. Soạn thảo pháp lý không tốt có thể sẽ dẫn đến những vụ tranh chấp không cần thiết và ảnh hưởng đến lợi ích của khách hàng[1].

Khác với các khóa đào tạo tiếng Anh pháp lý, khóa đào tạo kỹ năng soạn thảo pháp lý là khóa học không chỉ dành cho sinh viên quốc tế mà còn là khóa học cần thiết dành cho chính các sinh viên luật người bản địa đang theo học tại trường.

III. Hoạt động giảng dạy kỹ năng soạn thảo pháp lý tại Mỹ

Theo mô hình đào luật J.D (Jurist Doctor), các kỹ năng nghề nghiệp được chú trọng đào tạo trong chương trình đào tạo 3 năm. Kỹ năng soạn thảo pháp lý là kỹ năng thách thức nhất đối với sinh viên luật và thường là môn học bắt buộc đối với sinh viên.

1. Trường luật – Đại học Harvard

2. Đại học Luật Washington[5]

Kỹ năng soạn thảo pháp lý được đưa vào giảng dạy trong Chương trình Phân tích, Tra cứu, và Viết pháp lý (LARW) cho sinh viên năm nhất và được thiết kế để dạy cho sinh viên nguyên lý nền tảng về hệ thống pháp luật Mỹ và giới thiệu các kỹ năng cần thiết để phục vụ tư vấn hiệu quả và bào chữa trong hệ thống đó. Mỗi phần LARW giúp học sinh đạt được các mục tiêu và mục đích đó.

Trong kỳ học thu đông, học sinh được chia thành các nhóm nhỏ khoảng 25 học sinh. Mỗi giảng viên sẽ phát triển một loạt các vấn đề và hội thảo thực hành được thiết kế để dạy các kỹ năng phân tích, nghiên cứu, và viết pháp lý cho sinh viên. Ngoài việc phải thường xuyên liên hệ chặt chẽ với các giảng viên, sinh viên còn phải nhờ cậy các sinh viên năm thứ hai và thứ ba để học hỏi kinh nghiệm và thay đổi mình từ nghiệp dư thành chuyên gia trong ngành văn bản quy phạm pháp luật. Tất cả học sinh tham gia vào một loạt các dự án nghiên cứu và viết trong hai quý đầu năm, bao gồm cả việc soạn thảo các hình thức khác nhau của biên bản ghi nhớ nghiên cứu. Học sinh cũng có thể có cơ hội để dự thảo biên bản ghi nhớ tư pháp băng ghế dự bị hoặc ý kiến, thư từ khách hàng, điều khoản hợp đồng, hoặc biện hộ pháp lý.

Ngoài ra, tất cả các sinh viên phải tiếp tục theo học các khóa học về tra cứu và soạn thảo pháp lý trong những năm tiếp theo đại học để có thể hoàn thành các yêu cầu về viết pháp lý nâng cao để có thể được xét công nhận lấy bằng J.D. Các khóa học nâng cao về viết pháp lý cho sinh viên năm hai và năm ba sẽ tập trung vào bào chữa bằng văn bản, viết bài phân tích và nghiên cứu. Thêm vào đó, trường còn tổ chức một Trung tâm về soạn thảo pháp lý trong trường với sự tham gia của chính các sinh viên năm hai và ba trong trường dưới sự dẫn dắt của Khoa Viết & Nghiên cứu Phân tích Pháp lý. Có thể nói, Trườn luật – Đại học Washington cung cấp cho sinh viên của mình rất nhiều sự lựa chọn và mở ra các cơ hội cho sinh viên được học, trau dồi và thực hành kỹ năng soạn thảo pháp lý khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường.

3. Đại học luật Seattle (Mỹ)[6]

Chương trình soạn thảo pháp lý tại Đại học luật Seattle được đánh giá là chương trình soạn thảo pháp lý tốt nhất tại Mỹ theo xếp hạng của trang U.S. News. Chương trình này là một bộ môn bắt buộc cho sinh viên từ năm nhất đại học bao gồm các môn sau:

Soạn thảo pháp lý 1: Tra cứu, Phân tích, Soạn thảo (4 tín chỉ) (Legal Writing I: Research Analysis, Writing)

Soạn thảo pháp lý 2: Bào chữa bằng lời và bằng văn bản (3 tín chỉ) (Legal Writing II: Written & Oral Advocacy)

Chuyên đề Nghiên cứu Viết Nâng cao (2 tín chỉ) (Advanced Writing Seminar)

Thực hành Soạn thảo (1 tín chỉ)

Nghiên cứu Pháp lý Nâng cao (2 tín chỉ)

Khoa Soạn thảo pháp lý tại Đại học Seattle sử dụng cả phương pháp trong và ngoài lớp học nhằm nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên. Mỗi lớp học sẽ được trang bị hệ thống thiết bị tân tiến nhất cho phép giáo viên sử dụng máy tính và tất cả các loại văn bản giấy tờ bản cứng để trình chiếu cho sinh viên. Ngoài ra, các phòng học còn được lắp đặt hệ thống mạng internet không dây tốc độ cao. Sinh viên có thể gửi bài làm nháp của mình ngay và lập cho giáo viên thông qua bằng email để từ đó giáo viên có thể sử dụng chính bài của sinh viên và trình chiếu trên hệ thống máy chiếu, và hệ thống này cũng giúp sinh viên và giáo viên trao đổi được thuận tiện và nhanh chóng đối với các tiết học dạy từ xa.

IV. Hoạt động giảng dạy kỹ năng soạn thảo pháp lý tại Anh

Tương tự như Mỹ và hầu hết các quốc gia thuộc Khối Thịnh Vượng Chung, Anh cũng sử dụng hệ thống Thông luật. Tại Anh, kỹ năng soạn thảo pháp lý đa phần không được các trường đưa vào chương trình khung như là một môn học bắt buộc đối với các sinh viên đại học, mà các sinh viên chỉ được học kỹ năng viết pháp lý trong quá trình học các khóa học ngắn hạn khác như Tiếng Anh pháp lý hay môn Luật EU và Viết báo cáo (European Union Law and Report Writing) ở năm đầu đại học. Tuy nhiên, việc giảng dạy kỹ năng soạn thảo pháp lý lại được quan tâm và chú trọng nhiều hơn cho các đối tượng học Thạc sĩ Luật (LLM) hay chương trình Thực hành nghề luật LPC (Legal Practice Course).

1. Khoa luật – Đại học Cambridge[7]

Khoa luật Đại học Cambridge là một trong những trường luật hàng đầu trên thế giới, đứng thứ 2 trên thế giới theo xếp hạng của trang Top Universities. Đại học Cambridge còn là nơi cung cấp chương trình đào tạo và thi lấy chứng chỉ tiếng Anh pháp lý ILEC (International Legal English Certificate) cho luật sư và những người học nghề luật trên toàn thế giới. Tuy nhiên, các khóa học về soạn thảo pháp lý lại không phải là một trong những trọng tâm được giảng dạy riêng thành một khấu phần trong chương trình giảng dạy của nhà trường. Trong chương trình giảng dạy cho sinh viên đại học, kỹ năng soạn thảo pháp lý chỉ được giảng dạy kết hợp trong khấu phần về Phương pháp và Các Kỹ năng pháp lý (Freshfields Legal Skills and Methodology) của sinh viên năm thứ nhất. Ngoài ra, kỹ năng soạn thảo pháp lý cũng chưa được cụ thể thành một khóa học riêng trong các chương trình học khác tại trường.

2. Trường luật – Đại học Westminster[8]

Trường luật – Đại học Westminster là một ngôi trường có danh tiếng trong việc đào tạo, bồi dưỡng nghề cho các luật sư tư vấn và chương trình đào tạo Thạc sĩ Luật với việc cung cấp cho người học các kỹ năng và kiến thức cần thiết để trở thành một luật sư thành công trong xã hội với sự quốc tế hóa ngày càng sâu rộng như hiện nay. Như phần lớn các trường luật khác tại Anh Quốc, Đại học Westminster cung cấp chương trình đào tạo kỹ năng soạn thảo pháp lý trong chuỗi các kỹ năng mà sinh viên phải học trong chương trình Thực hành nghề luật LPC và Thạc sĩ luật LLM. Kỹ năng viết và soạn thảo pháp lý sẽ được giảng dạy cùng với nhóm các kỹ năng khác như Nghiên cứu pháp lý thực hành, Phỏng vấn và Tư vấn, và kỹ năng bào chữa.

V. Kết luận

[1] https://www.law.cornell.edu/wex/legal_writing

[2] http://hls.harvard.edu/dept/lrw/

[3] http://hls.harvard.edu/aca…/curriculum/catalog/default.aspx…

[4] http://hls.harvard.edu/aca…/curriculum/catalog/default.aspx…

[5] https://www.law.washington.edu/Writing/

[6] http://www.law.seattleu.edu/…/legal-writin…/program-overview

[7] http://www.undergraduate.study.cam.ac.uk/courses/law

[8] http://www.westminster.ac.uk/…/…/d09fplpc-legal-practice-llm

Tác giả: Nguyễn Bá Trường Giang

Tác giả từng học kinh tế tại Cornell và luật tại Đại học Boston (Mỹ), anh là cựu luật sư cao cấp của Baker & McKenzie.

Quá Trình Đổi Mới Phương Pháp Dạy Học Tiếng Anh Ở Trường Thcs

, ZALO 0932091562 at BÁO GIÁ DV VIẾT BÀI TẠI: chúng tôi

Published on

Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí giáo dục với đề tài: Quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh

1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ PHẠM THỊ THANH BÌNH QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG ANH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC HÀ NỘI – 2013

2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ PHẠM THỊ THANH BÌNH QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG ANH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Quản lý giáo dục Mã số: 60 14 01 14 Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. TRẦN ĐÌNH TUẤN

3. HÀ NỘI – 2013 3

4. MỤC LỤC Tran g MỞ ĐẦU 4 Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA QUẢN LÍ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG ANH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ 16 1.1 Khái niệm công cụ của đề tài 16 1.2 Nội dung quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở 23 1.3 Những yếu tố tác động quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở 32 Chương 2 ĐẶC ĐIỂM VÀ THỰC TRẠNG QUẢN LÍ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG ANH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 40 2.1 Đặc điểm của dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh 40 2.2 Thực trạng quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh 45 2.3 Thực trạng quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh 49 2.4 Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân 60 Chương 3 YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG ANH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 68 3.1 Yêu cầu xây dựng biện pháp 68 3.2 Biện pháp quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh 69

5. 3.3 Khảo nghiệm sự cần thiết và khả thi của các biện pháp 87 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96 PHỤ LỤC 100 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã, đang không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ thông qua việc đổi mới toàn diện. Trên cơ sở đó, thông qua đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2006 – 2015 và kế hoạch 855/KH-BGDĐT về tham gia thực hiện đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020 của chương trình phát triển giáo dục trung học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 8/12/2010 đã được trình chính phủ. Chính phủ sẽ đổi mới toàn bộ hệ thống giảng dạy ngoại ngữ từ trước tới nay, từ chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá đến việc bảo đảm đủ đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất phục vụ dạy và học ngoại ngữ… Để đáp ứng cho việc đổi mới này và thực hiện đúng ý nghĩa mà đề án đổi mới dạy học ngoại ngữ của Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra đòi hỏi mỗi giáo viên cần có sự đổi mới phương pháp dạy học của chính mình cùng với việc đáp ứng nhu cầu học tập, khả năng lĩnh hội và tâm lí của học sinh. 1.2. Đổi mới phương pháp dạy học song hành cùng đổi mới chương trình – sách giáo khoa đã được tiến hành hơn chục năm qua một cách kiên trì, bền bỉ và rộng khắp. Một trong những trọng tâm của đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung vào đổi mới phương pháp dạy học. Mục tiêu trong giáo dục nói chung và trong dạy học tiếng Anh nói riêng tập trung vào việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên: học sinh chủ động tìm 4 4

6. tòi, phát hiện, giải quyết nhiệm vụ nhận thức và có ý thức vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kiến thức kĩ năng đã thu nhận được. Phương pháp dạy học tiếng Anh chọn giao tiếp là phương pháp chủ đạo, năng lực giao tiếp là đơn vị dạy học cơ bản, coi giao tiếp vừa là mục đích vừa là phương tiện dạy học. 1.3. Những nghiên cứu lí luận về quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh hiện nay còn ít và chưa thống nhất. 1.4. Quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học các bộ môn nói chung, bộ môn tiếng Anh nói riêng ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh đã có những cải tiến đáng kể, chất lượng học tập bộ môn đang chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Song trước yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, công tác quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở các trường trung học cơ sở vẫn còn một số hạn chế. Thực tế dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở trên địa bàn quận 10, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay còn bộc lộ những yếu, kém về phương pháp dạy học và về quản lí đổi mới phương pháp dạy học môn tiếng Anh. Việc dạy và học tiếng Anh đang tồn tại một hiện tượng là học sinh học xong không thể sử dụng tiếng Anh để giao tiếp. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng công tác quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở các trường trung học cơ sở từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lí quá trình này trong nhà trường là vấn đề cấp thiết hiện nay. Bản thân đang là giáo viên giảng dạy bộ môn tiếng Anh nhiều năm tại trường trung học cơ sở bên cạnh việc làm công tác quản lí, chỉ đạo bộ môn tiếng Anh của Phòng Giáo dục và Đào tạo Quận 10 nên tôi có một số kinh nghiệm và điều kiện nghiên cứu đề tài này. Với lí do trên, tôi chọn đề tài Quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn góp một phần nhỏ của 5 5

9. phải lựa chọn những phương pháp dạy học đề cao năng lực tự học, phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của người học . Trên cơ sở lí luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đã có nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục Việt Nam nghiên cứu về quá trình đổi mới phương pháp dạy học như Nguyễn Ngọc Quang, Hoàng Chúng, Hà Sĩ Hồ, Nguyễn Văn Lê, Hoàng Tâm Sơn, Nguyễn Văn Tường,. . . Mặc dù mỗi tác giả đi sâu vào những bình diện khác nhau của quá trình đổi mới phương pháp dạy học nhưng tất cả đều hướng đến việc giải quyết mối quan hệ giữa giáo viên và nhà quản lí, những nội dung quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Trong những năm gần đây, phong trào đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh đã có những kết quả đáng ghi nhận. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức chương trình nghiên cứu “Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh”. Một số đề tài nghiên cứu đã bước đầu xác định được quan niệm, qui trình và điều kiện đổi mới phương pháp dạy học. Thực tế có không ít giáo viên có tâm huyết với nghề nghiệp, hiểu biết sâu sắc về phương pháp dạy học bộ môn nói chung, bộ môn tiếng Anh nói riêng, có kiến thức vững vàng, có tay nghề khá và nhạy cảm với những đòi hỏi mới của xã hội đã có nhiều giờ dạy tốt. Tuy nhiên, vẫn còn một số giáo viên ở các trường trung học cơ sở vẫn dạy học theo phương pháp truyền thống “Ngữ pháp – phiên dịch” hoặc vẫn sử dụng phương pháp thuyết trình, phân tích ngữ pháp có kết hợp với đàm thoại . Tác giả Đặng Thành Hưng (2001) trong tài liệu tổng thuật về “Quan niệm và xu thế phát triển phương pháp dạy học trên thế giới” có đề cập đến những đặc điểm nổi bật trong nghiên cứu và phát triển phương pháp dạy học. Ông trình bày bốn hướng nghiên cứu đã tồn tại và đang phát triển từ trước đến nay: 8 8

10. Một là, nghiên cứu lí thuyết khái quát: các nghiên cứu thực nghiệm tìm kiếm phương pháp tiếp cận tổng quát đối với quá trình đổi mới phương pháp dạy học, tạo ra những giai đoạn sáng tạo các phương pháp dạy học cụ thể, hình thành các mô hình, kiểu dạy học cụ thể. Hai là, nghiên cứu phương pháp dạy học theo môn học: nét chung của xu thế này là nghiên cứu, phát triển phương pháp dạy học cụ thể với mục đích thích ứng các tư tưởng, các mô hình lí thuyết với thực tiễn dạy học. Ba là, kĩ thuật truyền thống trong quá trình sáng tạo các phương pháp dạy học tích cực: dùng kĩ thuật truyền thống để tạo ra các phương pháp dạy học mới, tích cực. Đây là một xu thế phổ biến hiện nay. Bốn là, kĩ thuật hiện đại hóa trong quá trình sáng tạo các phương pháp dạy học mới: đây là xu thế tích hợp máy vi tính, công nghệ thông tin trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, cũng là xu thế thịnh hành và gây nhiều tranh cãi. Gần đây có các nghiên cứu về thực trạng và đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đổi mới phương pháp dạy học. Tác giả Ngô Tứ Thành (2008) có bài nghiên cứu về giải pháp đổi mới phương pháp dạy học. Tác giả chứng minh sự phát triển của công nghệ thông tin trên toàn thế giới khiến triết lí giáo dục Việt Nam cần phải thay đổi, từ đó đưa ra một số giải pháp đổi mới phương pháp dạy học. Ông đề xuất đổi mới phương pháp dạy học cần lấy xu hướng lấy học sinh làm trung tâm chủ đạo, được cụ thể hoá thành phương pháp 3C (Cách – Chủ động của người học – Công nghệ thông tin và truyền thông) rất cần thiết trong vấn đề cải thiện chất lượng dạy và học hiện nay. Nghiên cứu đề xuất ba tiêu chí giáo viên cần xem xét là ưu tiên hàng đầu trong đổi mới phương pháp dạy học. Đó là: dạy học phải là dạy cách học, cách nghiên cứu; cần phát huy mạnh mẽ 9 9

11. tính chủ động của học sinh; công cụ cần khai thác triệt để là công nghệ thông tin và truyền thông. Có rất ít nghiên cứu trong lĩnh vực nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở Việt Nam. Consortium for Global Education (CGE) (2006), một tập đoàn giáo dục toàn cầu, đưa ra sáu bài học cho giáo viên Việt Nam dựa trên những nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học ngôn ngữ. Bài học đầu tiên khuyến cáo giảng dạy tiếng Anh phải tôn trọng những khía cạnh văn hoá của người học. Bài học thứ hai đề cập đến việc học sinh học bằng nhiều cách khác nhau. Giáo viên nên tôn trọng các phong cách học tập ngoại ngữ khác nhau. Bài học thứ ba nói về đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ. CGE khuyên giáo viên nên chú ý đến những yếu tố mà họ có thể thúc đẩy động lực và nỗ lực học của người học như cung cấp phản hồi thường xuyên cho học sinh, luôn khuyến khích học sinh, cho học sinh tự do lựa chọn, quan tâm và hiểu rõ hoàn cảnh xuất thân và khả năng của học sinh… giúp học sinh tự chịu trách nhiệm với việc học ngoại ngữ của mình bằng cách nhấn mạnh các yếu tố ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp, ngôn ngữ cần phải được thực hành, phải nói, cho học sinh thấy từng thành tựu, tiến bộ dù rất nhỏ. Bài học thứ tư nói về sự kết hợp các kĩ năng và giảng dạy kĩ năng nghe. CGE trình bày các kĩ năng không nên dạy riêng lẽ mà kết hợp với nhau. Bài học thứ năm nhấn mạnh về giảng dạy kĩ năng viết cho người học. Tác giả Nguyễn Thị Thuý Hồng (2009) nêu lên một số suy nghĩ về đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh. Tác giả trình bày hai vấn đề trung tâm tại sao phải đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh và nên thay đổi như thế nào. Bà đưa ra những nhận xét về tình hình học tập tiếng Anh của học sinh không đồng đều và có những phẩm chất gây trở ngại cho việc học ngôn ngữ như thụ động, không thích cộng tác. Tác giả giới thiệu một số xu 10 10

13. Nhiệm vụ nghiên cứu Một là, nghiên cứu cơ sở lí luận của quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh trong ở các trường trung học cơ sở. Hai là, đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân ưu điểm, hạn chế trong quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Ba là, đề xuất và khảo nghiệm tính cần thiết, khả thi của các biện pháp tăng cường quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. 4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khách thể nghiên cứu Quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng nghiên cứu Quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Phạm vi nghiên cứu Về phạm vi nội dung, đề tài giới hạn nội dung nghiên cứu vào quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học bộ tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở theo chương trình và sách giáo khoa qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Về phạm vi không gian, thực hiện nghiên cứu trên địa bàn quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Thực nghiệm trên 12 trường trung học cơ sở – bao gồm 8 trường công lập và 4 trường dân lập. Về phạm vi thời gian, thực hiện khảo sát thực trạng cán bộ quản lí, giáo viên và học sinh trung học cơ sở trong thời gian 5 năm, từ năm 2008 trở lại đây. 12 12

15. Tổ chức họp rút kinh nghiệm các chuyên đề, các tiết dạy cấp quận về đổi mới phương pháp dạy học trong các buổi sinh hoạt chuyên môn nhằm xác định rõ các biện pháp chỉ đạo phù hợp quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp điều tra: Khảo sát bằng phiếu ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh nhằm thu thập số liệu để đánh giá thực trạng công tác quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh và đề xuất các giải pháp thông qua việc thiết lập bảng hệ thống các câu hỏi, phiếu thăm dò và lấy ý kiến của nhiều đối tượng: lãnh đạo Phòng giáo dục và đào tạo; cộng tác viên thanh tra và cán bộ bồi dưỡng bộ môn tiếng Anh; hiệu trưởng, hiệu phó chuyên môn; tổ trưởng chuyên môn, giáo viên tiếng Anh và học sinh ở 12 trường trên địa bàn quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Trò truyện và trưng cầu ý kiến các đối tượng khảo sát bằng phiếu thông qua các loại hình thức: phỏng vấn có chuẩn bị trước; phỏng vấn không chuẩn bị trước; trao đổi trực tiếp; trao đổi qua điện thoại hoặc qua thư điện tử. Phương pháp thống kê toán học: Sau khi thu thập các phiếu thăm dò ý kiến, dựa vào kết quả điều tra, tác giả xử lí số liệu, tính tần số xuất hiện và tỉ lệ phần trăm các nội dung trong phiếu hỏi nhằm đánh giá thực trạng và định hướng nâng cao hiệu quả công tác quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp khảo nghiệm: Khảo nghiệm sự cần thiết và khả thi của các biện pháp quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. 7. Ý nghĩa của đề tài Luận văn hoàn thành sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở khoa học về quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở. 14 14

17. Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦAQUẢN LÍ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG ANH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ 1.1. Khái niệm công cụ của đề tài 1.1.1. Phương pháp dạy học tiếng Anh Nói đến phương pháp dạy học có rất nhiều quan điểm khác nhau. Nếu quan niệm dạy học là truyền thụ và thu nhận kiến thức thì phương pháp dạy học là cách thức truyền đạt và thu nhận kiến thức. Nếu quan niệm dạy học là quá trình trợ giúp người học chiếm lĩnh nội dung học thì phương pháp dạy học gắn liền với qui trình, cách thức tổ chức quá trình nhận thức cho người học. Phương pháp không có mục đích tự thân mà “Phương pháp là con đường dõi theo sau một đối tượng”. Theo GS, TS Thái Duy Tuyên thì phương pháp dạy học là một khái niệm được hiểu ở các bình diện khác nhau không thống nhất với nhau. Mặc dù chưa có ý kiến thống nhất về định nghĩa phương pháp dạy học, các tác giả đều thừa nhận rằng phương pháp dạy học có những dấu hiệu đặc trung sau đây: Một là, nó phản ảnh sự vận động của quá trình nhận thức của học sinh nhằm đạt được mục đích đặt ra. Hai là, phản ảnh sự vận động của nội dung đã được nhà trường qui định. Ba là, phản ảnh cách thức thông tin giáo viên và học sinh. Bốn là, phản ảnh cách thức điều khiển hoạt động nhận thức: kích thích và xây dựng động cơ, tổ chức hoạt động nhận thức và kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động. 16 16

18. Nhìn chung, phương pháp dạy học là tổ hợp các cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh trong sự phối hợp, thống nhất dưới vai trò chủ đạo của giáo viên nhằm thực hiện được những nhiệm vụ dạy học. Phương pháp dạy học tiếng Anh là cách thức phối hợp hoạt động của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học bộ môn tiếng Anh, nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ dạy học đã xác định. Phương pháp dạy học tiếng Anh là phương pháp dạy học bộ môn, là phạm trù cơ bản trong giáo học pháp. Chủ thể sử dụng phương pháp dạy học tiếng Anh là giáo viên và học sinh. Giáo viên sử dụng phương pháp dạy trong hoạt động dạy. Học sinh sử dụng phương pháp học trong hoạt động học. Theo quy luật dạy học thì cả hoạt động dạy và hoạt động học phải thống nhất với nhau, phối hợp cùng nhau, hỗ trợ cho nhau. Đối tượng tác động chung của phương pháp dạy và phương pháp học tiếng Anh là nội dung, chương trình môn học. Ngoài đối tượng tác động chung, mỗi loại hoạt động lại có đối tượng tác động riêng. Hoạt động dạy có đối tượng tác động riêng là quá trình nhận thức của học sinh. Hoạt động học có đối tượng tác động riêng là quá trình nhận thức của chính bản thân mình. Phương pháp dạy học tiếng Anh có nghĩa hẹp hơn: là mô hình tổng hợp hóa quá trình dạy học dựa trên một trong các hướng tiếp cận cụ thể, điển hình cho các phương hướng cụ thể, có thể là việc sử dụng tài liệu giảng dạy, lựa chọn thủ pháp giảng dạy, phương thức tương tác giữa giáo viên và học sinh. Dựa trên khái niệm của Anthony (1963) Richards và Rodgers (1986) nhìn nhận phương pháp như một cái ô bao trùm ba cấp độ: lí thuyết (approach – lối tiếp cận), xử lí (design – thiết kế) và ứng dụng thực tế (procedure – qui trình). Các tác giả trên đã giúp chúng ta định hình được cấu trúc của phương pháp dạy học tiếng Anh bao gồm vai trò giáo viên và học sinh, loại hình chương trình, đặc trưng tổ chức quá trình dạy học và các ngữ liệu giảng dạy. 17 17

19. Khi đề cập về phương pháp dạy học tiếng Anh, ắt hẳn mỗi giáo viên đều biết đến nhiều phương pháp dạy học khác nhau như phương pháp ngữ pháp – dịch, phương pháp trực tiếp, phương pháp nghe – nói, phương pháp nghe – nhìn, phương pháp gợi mở… Mỗi phương pháp ra đời sau đều được coi như một cố gắng kế thừa những thành tựu và khắc phục nhược điểm của phương pháp ra đời trước nó. Nếu như với phương pháp dạy ngoại ngữ truyền thống (phương pháp ngữ pháp – dịch) chú trọng nhiều vào việc học và rèn luyện thành thạo các cấu trúc ngữ pháp, thì với cách tiếp cận giao tiếp tức dạy ngoại ngữ theo phương pháp thực hành giao tiếp việc hình thành ở học sinh năng lực sử dụng ngôn ngữ thành thạo lại là trọng tâm của quá trình dạy học. Khác với phương pháp nghe nói (Audio-lingual) với sự nhấn mạnh đến vai trò của luyện tập thành thục các mẫu cấu trúc có sẵn, cách giảng dạy theo phương pháp thực hành giao tiếp nhấn mạnh đến khả năng tương tác của học sinh trong bối cảnh giao tiếp, trong đó mỗi hành vi ngôn ngữ của học sinh sẽ thay đổi tùy thuộc vào những phản ứng và câu trả lời trước đó của những người cùng tham gia. 1.1.2. Đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh Trong xu thế nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trở thành một trong những vấn đề trọng tâm hàng đầu. Giáo viên vừa là người hướng dẫn, người định hướng, người trọng tài cố vấn cho học sinh đồng thời phải là người nghiên cứu, tìm tòi phát hiện cái mới trong đó, mở rộng và làm phong phú sâu sắc hơn những tri thức khoa học mà bộ môn giảng dạy để không ngừng tự biến đổi mình. Quá trình đó không chỉ bó hẹp ở một khía cạnh tích luỹ kiến thức, tìm tòi kiến thức mới mà rộng hơn là cả về phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học là một phạm trù của khoa học giáo dục. Quá trình đổi mới phương pháp dạy học cần dựa trên những cơ sở khoa học giáo 18 18

20. dục và thực tiễn. Khoa học giáo dục là lĩnh vực rất rộng lớn và phức hợp, có nhiều chuyên ngành khác nhau. Vì vậy quá trình đổi mới phương pháp dạy học cũng được tiếp cận dưới rất nhiều cách tiếp cận khác nhau. Một phương pháp dạy học tiếng Anh cố định không thể là chìa khoá chung cho mọi giáo viên mà phải tùy thuộc từng hoàn cảnh lớp học, đối tượng học, nội dung học để mỗi giáo viên cần điều chỉnh quá trình dạy học hợp lí như nhà bác học Newton đã từng nói “Những điều ta biết chỉ là giọt nước, những điều chưa biết đó là đại dương. Trên con đường chiếm lĩnh tri thức thì không có đâu là bến bờ. Và trên con đường chiếm lĩnh đỉnh cao của tri thức thì mỗi người lại có những phương pháp khác nhau”. Chúng ta không thể có một phương pháp cụ thể cứng nhắc áp dụng cho tất cả các đối tượng mà phải phụ thuộc vào trình độ nhận thức, năng khiếu, sở thích, niềm say mê với môn học mà giáo viên và học sinh chọn cho mình phương pháp riêng để học tập và giảng dạy. Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh là một nhu cầu tất yếu khách quan. Đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh phải dựa trên cơ sở của lý luận giáo dục hiện đại và lý luận phương pháp dạy học bộ môn ngoại ngữ. Đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng chung quy là phải phát huy cao độ tính tích cực chủ động của học sinh, đưa họ vào vị trí trung tâm của hoạt động nhận thức. Đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh là quá trình chuyển đổi từ phương pháp dạy học truyền thống, theo kiểu truyền thụ và lĩnh hội kiến thức sang phương pháp dạy học hiện đại, theo kiểu tổ chức cho người học tự tìm kiếm kiến thức. Theo phương pháp dạy học tiếng Anh truyền thống, quá trình học thường được coi như một quá trình truyền thụ kiến thức từ giáo viên sang học sinh. Theo quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh, việc sử dụng 19 19

21. phương pháp thực hành giao tiếp trong quá trình dạy và học giờ đây được nhìn nhận như một quá trình khám phá, trong đó học sinh dần sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh phù hợp với những mục đích giao tiếp cụ thể. Đây là mô hình dạy học lấy người học làm trung tâm, trong đó cả giáo viên và học sinh đều cùng chia sẻ trách nhiệm dạy và học. Song song với việc nhấn mạnh vào mục tiêu phát triển năng lực giao tiếp ở học sinh, việc lựa chọn các hoạt động học tập sao cho có ích, phù hợp với nhu cầu của học sinh và phải đặt vào trong những bối cảnh thật mà học sinh có nhiều khả năng sẽ gặp phải trong cuộc sống hàng ngày luôn được đề cao. Muốn tạo được một môi trường học tập năng động và hấp dẫn trong đó có sự phối hợp tích cực của giáo viên và học sinh. Với vai trò là người điều khiển trong quá trình dạy học, giáo viên phải tạo ra mọi tình huống, mọi khả năng để hướng dẫn các hoạt động của học sinh trong giờ học. Giáo viên cần vận dụng mọi thao tác và phương tiện, cử chỉ điệu bộ để tăng cường thúc đẩy các hoạt động giao tiếp. Các phương tiện dạy học được phát huy triệt để. Học tiếng Anh là quá trình nhận biết các kiến thức và rèn luyện các kĩ năng, vì vậy trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh, giáo viên cần thiết kế, phân bố thời gian hợp lí giữa các khâu giảng, giữa thời lượng truyền đạt kiến thức mới và thời lượng cho học sinh thực hành. Tăng cường thực hành theo nhóm, theo cặp nhằm tạo điều kiện cho học sinh phát triển các kĩ năng ngôn ngữ, giảm được tâm lí ngại ngùng, tăng tính chủ động, tính hợp tác giữa học sinh với nhau; học sinh học tập lẫn nhau và luyện được cách học tập, làm việc đồng đội, tập thể. Giáo viên với vai trò là người đạo diễn đồng thời là diễn viên, tham gia như một thành viên của quá trình dạy học. Cần thiết kế các dạng bài tập theo hướng tạo tính chủ động sáng tạo cho học sinh và tùy theo trình độ của học sinh. Đối với học sinh có trình độ thấp thì tăng cường đưa bài tập thực hành theo hướng ” nhận biết – bắt chước – tư 20 20

22. duy sáng tạo”. Đối với học sinh có trình độ cao thì áp dụng thực hành theo hướng “nhận biết – liên hệ – tư duy sáng tạo”. Nên đa dạng hóa các hoạt động dạy học bằng cách xen kẽ các trò chơi nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh, mỗi giáo viên cần có những thủ thuật động viên khích lệ tính chủ động suy nghĩ của học sinh. Cần theo dõi quá trình học tập của học sinh và có những phản hồi kịp thời nhằm giúp học sinh phát huy những điểm mạnh và hạn chế, sửa chữa những điểm yếu, giúp học sinh cảm thấy tự tin muốn học và không cảm thấy tiếng Anh là một môn học khó. Giáo viên phải biết kết hợp uyển chuyển trong vai trò là người truyền tải kiến thức mới, là người giúp đỡ giảm độ khó cho học sinh, là người hướng dẫn và củng cố kiến thức toàn bài. Tóm lại, đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh chính là đổi mới cách thức tổ chức giảng dạy, là phải lấy học sinh làm trung tâm, cách dạy mới phải phù hợp với khả năng tiếp thu và nhu cầu của học sinh, làm cho học sinh yêu thích môn học nhằm đảm bảo hiệu quả truyền đạt cao nhất cho học sinh. 1.1.3. Quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh Quản lí là một quá trình tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lí bằng việc vận dụng các chức năng quản lí, nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng và có cơ hội tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra. Đối với giáo dục nhà trường, quản lí thực chất là sự tác động một cách khoa học của chủ thể quản lí đến hệ thống giáo dục nhằm làm cho hệ thống vận hành đến một trạng thái mới có chất lượng cao hơn. Quản lí phương pháp dạy học ở trường trung học cơ sở chính là quá trình tác động có tổ chức, có hướng đích của cán bộ quản lí nhà trường đến cách thức làm việc của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. Phương pháp dạy học luôn được đặt trong mối quan hệ giữa Mục tiêu – Nội dung – Phương pháp – Phương tiện – Hình thức – Kết quả, đặc biệt là mối 21 21

23. quan hệ của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. Vì vậy, quản lí phương pháp dạy học cần quản lí đồng bộ các thành tố trong quá trình dạy học, tạo được động lực của quá trình dạy học. Quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh là hệ thống những tác động có mục đích, có tổ chức của chủ thể quản lí đến quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh, nhằm đảm bảo cho quá trình đổi mới diễn ra đúng qui trình và đạt được kết quả cao nhất. – Mục đích của quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học là tổ chức, điều khiển các hoạt đông đổi của giáo viên và học sinh diễn ra theo qui luật. Quản lí sự thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức ngôn ngữ vào các tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn giao tiếp tiếng Anh, tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập. – Chủ thể quản lí của quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh là cán bộ quản lí nhà trường và giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn tiếng Anh. Đối tượng quản lí là quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở. Vì thế, việc đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh của giáo viên trực tiếp giảng dạy đóng vai trò hết sức quan trọng và cần thiết. Nói tóm lại, quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh là một trong những nội dung cốt lõi trong hệ thống quản lí của nhà trường. Nói đến quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh là nói đến việc thực hiện đồng bộ các hoạt động quản lí mục tiêu dạy học, nội dung dạy học, đội ngũ sư phạm; quản lí cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học; quản lí điều kiện và môi trường sử dụng tiếng Anh; quản lí cơ chế hoạt động chuyên 22 22

24. môn, kiểm tra và đánh giá, phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. 1.2. Nội dung quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở 1.2.1. Quản lí mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh trung học cơ sở Mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh trung học cơ sở phải cung cấp nhận thức (Cognitive), tác động thái độ (Affective) và hình thành kĩ năng (Psychomotor). Học sinh có thể sử dụng tiếng Anh như một công cụ giao tiếp ở mức độ cơ bản dưới các dạng nghe, nói, đọc, viết; có kiến thức cơ bản, tương đối hệ thống và hoàn chỉnh về tiếng Anh, phù hợp với trình độ, đặc điểm tâm lí lứa tuổi; có hiểu biết khái quát về đất nước, con người và nền văn hóa của một số nước nói tiếng Anh, từ đó có tình cảm và thái độ tốt đẹp đối với đất nước, con người, nền văn hóa và ngôn ngữ của các nước đó, biết tự hào, yêu quí và tôn trọng nền văn hóa và ngôn ngữ của dân tộc mình. Điều này có nghĩa, sau khi hoàn thành chương trình, học sinh phải có khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh, sử dụng được vốn từ được học để hỗ trợ cho việc học tập các môn học khác, phát triển trí tuệ cần thiết để tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động nghề nghiệp sau này. Để quản lí tốt hoạt động này, ban giám hiệu nhà trường cần căn cứ vào mục tiêu chung của ngành, vào tình hình cụ thể của nhà trường, đặc điểm học sinh và địa phương mà định hướng và chỉ đạo giáo viên xây dựng mục tiêu dạy học theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học. Cần kiểm tra việc xây dựng mục tiêu dạy học theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên, thể hiện qua kế hoạch giảng dạy năm học và kế hoạch bài học (Lesson plan). Cần quản lí nội dung bài dạy của giáo viên để kiểm tra sự chính xác, khoa học của nội dung dạy học. Đồng thời phải đối chiếu mục tiêu đổi mới 23 23

25. phương pháp dạy học mà giáo viên xây dựng với mục tiêu được yêu cầu của bộ môn tiếng Anh và nội dung từng bài học để có sự điều chỉnh hợp lí. 1.2.2. Quản lí việc thực hiện chương trình và sách giáo khoa tiếng Anh trung học cơ sở Chương trình môn tiếng Anh bậc trung học cơ sở được xây dựng theo sáu chủ điểm, lặp lại có mở rộng từ lớp 6 đến lớp 9. Kĩ năng giao tiếp là mục tiêu của quá trình học, kiến thức ngôn ngữ là phương tiện để hình thành và phát triển các kĩ năng giao tiếp. Học sinh là chủ thể tích cực, chủ động, sáng tạo của quá trình dạy học, còn giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn quá trình dạy học. Nội dung dạy học được lựa chọn và trình bày theo hệ thống chủ điểm, vừa đảm bảo tính giao tiếp cao, vừa đảm bảo tính cơ bản, chính xác và hiện đại của ngôn ngữ. Chương trình là cơ sở cho việc biên soạn sách giáo khoa, quản lí quá trình dạy học, kiểm tra kiến thức ngôn ngữ, kĩ năng giao tiếp, đánh giá kết quả học tập và chất lượng giảng dạy. Để quản lí tốt việc thực hiện chương trình tiếng Anh trung học cơ sở, ban giám hiệu nhà trường cần căn cứ vào tình hình cụ thể của nhà trường để định hướng cho giáo viên xây dựng chương trình theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp nhưng phải đảm bảo tiến độ giảng dạy và kế hoạch giảng dạy chung. Quản lí việc thực hiện chương trình theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học là quản lí việc thực hiện đúng, đủ các bài, đủ số giờ qui định của môn học (theo kế hoạch của nhà trường); dạy học đúng tiến độ, kiểm tra đánh giá đúng thời gian qui định của giáo viên. Vì vậy, ban giám hiệu nhà trường phải thường xuyên theo dõi việc soạn bài, lên lớp, tiến độ thực hiện chương trình dạy học của giáo viên để có sự điều tiết phù hợp. 1.2.3. Quản lí việc sử dụng phương pháp dạy dạy học tiếng Anh trung học cơ sở 24 24

26. Để hình thành và phát triển các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết thông qua luyện tập các kiến thức ngôn ngữ như ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng… cần quán triệt các nguyên tắc về phương pháp dạy học cơ bản. Trước hết, giáo viên tổ chức và hướng dẫn học sinh tham gia tích cực vào quá trình học tập thông qua các hoạt động cá nhân, theo cặp và nhóm. Giáo viên cần kết hợp hài hòa các phương pháp và kĩ thuật dạy học, sử dụng hiệu quả các thiết bị, đồ dùng dạy học và các tài liệu hỗ trợ nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh. Giáo viên cần sử dụng tiếng Việt một cách hợp lí và có hiệu quả trong quá trình dạy học. Với tư cách là người cố vấn, giáo viên phải tạo điều kiện tối đa cho quá trình giao tiếp giữa học sinhvới nhau; giảm thiểu tối đa thời gian nói trên lớp, tăng thời gian sử dụng ngôn ngữ cho học sinh. Dạy học theo phương pháp gợi mở, nghĩa là giáo viên chỉ gợi mở và dẫn dắt để học sinh tự tìm ra lời giải đáp hoặc con đường đi của mình. Học sinh là chủ thể của hoạt động học tập. Học sinh tham gia học tập và hoạt động giao tiếp tích cực, chủ động, sáng tạo và với tinh thần hợp tác cao. Vận dụng tất cả kiến thức có sẵn về văn hóa, xã hội cũng như ngôn ngữ của học sinh trong quá trình luyện tập. Không chỉ chú ý đến sản phẩm cuối cùng của bài luyện tập (Product) mà còn chú trọng cả quá trình (Process) luyện tập và phương pháp học tập của học sinh. Để quản lí tốt việc sử dụng hiệu quả các phương pháp dạy học tiếng Anh theo đổi mới phương pháp dạy học, người cán bộ quản lí nhà trường cần phải định hướng đổi mới phương pháp dạy học cho giáo viên, đồng thời tạo môi trường cho giáo viên có điều kiện tiếp cận và sử dụng các phương pháp dạy học mới, đặc biệt là các phương pháp dạy học có đi kèm với ứng dụng công nghệ thông tin. Phải quán triệt tinh thần dạy học tích cực, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong mỗi tiết học, lấy đó làm một trong những tiêu chí đánh giá, phân loại giáo viên. Thường xuyên dự giờ, thăm lớp 25 25

27. để kiểm tra việc sử dụng các phương pháp dạy trong đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh của giáo viên để có sự điều chỉnh kịp thời. 1.2.4. Quản lí đội ngũ giáo viên trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh Giáo viên là chủ thể của quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh. Xét đến cùng, người dạy là nhân tố quyết định chất lượng của mọi quá trình dạy học trong các nhà trường. Người dạy mới có khả năng liên kết và phát huy các nhân tố của quá trình dạy học. Cho dù mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp và phương tiện dạy học có phát triển tốt đến đâu chăng nữa nhưng người dạy không bắt nhập được sự phát triển đó, không thay đổi gì mới thì chất lượng dạy học vẫn dẫm chân tại chỗ. Quản lí đội ngũ giáo viên trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh là phải nắm giữ, điều khiển được đội ngũ giáo viên tiếng Anh cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu, cả về thông tin và tính chất, đặc điểm hoạt động chuyên môn của từng giáo viên. Mục đích của quản lí giáo viên trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của giáo viên trong việc lựa chọn và sử dụng phương pháp dạy học, cụ thể như: tác động vào nhận thức, thái độ; tạo động lực; tạo điều kiện; khẳng định giá trị. Công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học. Để bồi dưỡng giáo viên nòng cốt của môn tiếng Anh ở từng khối lớp, ban giám hiệu nhà trường phải có kế hoạch tạo điều kiện cho giáo viên học tập nâng cao trình độ chuyên môn, theo các lớp bồi dưỡng theo chuyên đề của Phòng giáo dục và đào tạo, Sở giáo dục và đào tạo hoặc qua trao đổi kinh nghiệm giảng dạy với các chuyên viên, giáo viên giỏi ở trường bạn. Để nâng cao năng lực chuyên môn cho đối tượng giáo viên còn hạn chế trong giảng dạy, ban giám hiệu nhà trường cần phân công những giáo viên có 26 26

28. trình độ tay nghề giỏi trực tiếp giúp đỡ và tạo cho họ có thời gian và tài liệu để tự học, tự bồi dưỡng. Nhà trường cần phải thường xuyên tổ chức kiểm tra trình độ tay nghề của giáo viên, kịp thời phát hiện những giáo viên có năng lực tốt để bồi dưỡng họ trở thành những giáo viên nòng cốt, đồng thời nắm bắt được những mặt còn thiếu sót của giáo viên để đề ra biện pháp khắc phục thích hợp. Hạt nhân của quản lí đội ngũ giáo viên trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học là quản lí hoạt động phương pháp của giáo viên. Nhà trường cần có kế hoạch tổ chức cho học viên tham gia các hoạt động phương pháp, hướng dẫn đổi mới phương pháp dạy học, áp dụng các phương pháp mới vào dạy học, kĩ năng sử dụng phương tiện công nghệ thông tin nhằm nâng cao hiệu quả dạy học. Tổ chức dự giờ thăm lớp và rút kinh nghiệm giảng dạy nhằm giúp giáo viên có cơ hội trao đổi chuyên môn, học hỏi lẫn nhau. Thực hiện chuyên đề, hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học cũng như các lớp tập huấn kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin. Tổ chức thi viết sáng kiến kinh nghiệm, giải pháp hữu ích nhằm giúp giáo viên tổng kết rút kinh nghiệm quá trình giảng dạy của mình, đồng thời giúp cho các giáo viên khác tham khảo, học hỏi, đóng góp ý kiến. Đây cũng là bước đầu để giáo viên quen dần với công tác nghiên cứu khoa học. 1.2.5. Quản lí hoạt động học của học sinh trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh Học sinh vừa là đối tượng vừa là chủ thể trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Vì vậy, quản lí học sinh trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh là khâu quan trọng góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn tiếng Anh trong nhà trường. 27 27

29. Thay đổi nhận thức về việc học, dạy cách học, xây dựng tập thể lớp học, tổ chức và quản lí hoạt động học, tạo điều kiện cho việc học, phối hợp quản lí quá trình học. Vấn đề quản lí hoạt động học của học sinh trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh đặt ra với ban giám hiệu nhà trường không phải chỉ trên bình diện khoa học giáo dục mà còn là một đòi hỏi có ý nghĩa về tinh thần trách nhiệm của người cán bộ quản lí giáo dục đối với sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ. Quản lí hoạt động học của học sinh trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh cần tập trung quán triệt tinh thần dạy học tích cực cho giáo viên. Phải coi học sinh vừa là chủ thể của hoạt động học và là khách thể của của quá trình dạy, từ đó phát huy sự đa dạng về phương pháp học tập của học sinh để học sinh một mặt vừa rèn luyện kĩ năng theo sự hướng dẫn của thầy, một mặt tự tìm ra các cách thức rèn luyện riêng. Cần phải định hướng phương pháp học tập đặc thù của môn tiếng Anh cho học sinh để tránh sự tự phát, lệch hướng, thiếu tính hệ thống trong việc rèn luyện kĩ năng. Phải tổ chức xây dựng và thực hiện nội qui học tập của học sinh. Tổ chức phát động phong trào thi đua học tập. Ban Giám hiệu nhà trường Phải chỉ đạo công tác phối hợp giữa gia đình và nhà trường để quản lí quá trình học của học sinh. Phải đổi mới tổ chức kiểm tra, đánh giá quá trình học tập tiếng Anh của học sinh. Áp dụng công nghệ thông tin trong quản lí học sinh nhằm đảm bảo tính khách quan, công khai, toàn diện, thường xuyên, có hệ thống và đảm bảo tính phát triển của học sinh, đáp ứng được nhu cầu của mục tiêu giáo dục. 1.2.6. Quản lí môi trường thực hành tiếng Anh và cơ sở vật chất phục vụ quá trình dạy và học tiếng Anh Nhiều công trình nghiên cứu về học ngoại ngữ nhận thấy rằng, để học ngoại ngữ hiệu quả phải đáp ứng ba điều kiện: tiếp xúc, sử dụng và động cơ. 28 28

30. Chính vì vậy, nhà trường phổ thông, nơi thiếu điều kiện tự nhiên để cho học sinh tiếp xúc, phải có môi trường sử dụng tiếng Anh để tạo cơ hội cho học sinh rèn lyện kĩ năng giao tiếp bằng tiếng Anh. Thiết nghĩ, tổ chức thường xuyên các hoạt động ngoài giờ lên lớp cho môn tiếng Anh sẽ giúp học sinh có cơ hội sử dụng tiếng Anh hiệu quả hơn, thiết thực hơn. Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng tiếng Anh, ban giám hiệu nhà trường phải thay đổi sự mất cân đối giữa sự lĩnh hội và sử dụng ngôn ngữ bằng các phương pháp sau: Một là, khuyến khích giáo viện dạy tiếng Anh tăng cường tổ chức các trò chơi sử dụng ngôn ngữ trong giờ dạy của mình. Việc này đòi hỏi phải có sự đồng thuận và nhất trí trong nhà trường vì nó có thể sẽ gây ảnh hưởng đến quá trình dạy học của những giáo viên khác. Hai là, chỉ đạo tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại khóa, chuyên đề với mục đích tạo cơ hội sử dụng tiếng Anh cho học sinh (như tổ chức thi hùng biện bằng tiếng Anh, diễn kịch, trò chơi…). Ba là, định hướng tổ chức các hoạt động ngoại khóa môn tiếng Anh. Quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh chỉ phát huy hiệu quả khi giáo viên có kiến thức chuyên môn vững vàng và được trang bị các phương tiện trợ giảng như thiết bị dạy học, thiết bị nghe nhìn. Cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình dạy và học tiếng Anh bao gồm nhiều loại như: phòng học, lớp học, bàn ghế, bảng, các trang thiết bị kĩ thuật, sách báo tư liệu, đồ dùng dạy học… Nếu được sử dụng hiệu quả, chúng sẽ giúp học sinh có hứng thú, dễ học, dễ hiểu, dễ nhớ qua đó giúp giáo viên chuyển tải được nội dung dạy học đến học sinh một cách có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, cần tránh tư tưởng sử dụng chúng chỉ để thay cho phương pháp dạy học truyền thống nhằm tiết kiệm thời gian và công sức giảng bài. 29 29

32. chất. Qui định rõ trách nhiệm của từng người đối với tài sản mà họ phụ trách hoặc mượn. Mỗi khi có hư hỏng, mất mát phải qui rõ trách nhiệm và xử lý minh bạch. Hằng năm, nhà trường tiến hành kịp thời những yêu cầu bổ sung, sửa chữa thay thế những thiết bị, cơ sở vật chất cần thiết. Trong đó định rõ vật dụng mua sắm, bổ sung, dự trù đề xuất kinh phí ngân sách, hoặc dựa vào nhân dân, hội cha mẹ học sinh cùng đóng góp. 1.2.7. Quản lí việc kiểm tra đánh giá kết quả dạy học tiếng Anh Những nghiên cứu về lí luận dạy học đã chỉ ra rằng: muốn nâng cao chất lượng dạy học thì cần thiết phải quan tâm đến quá trình học tập của học sinh, phải thông qua việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh. Do đó, một trong những cơ sở để đánh giá kết quả thực hiện chương trình dạy học chính là việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập bộ môn của học sinh. Chương trình mới thực hiện việc đánh giá kết quả học tập của học sinh theo định hướng: kế thừa các ưu điểm của cách đánh giá truyền thống và đặt việc đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan đúng với vị trí của nó; phối hợp đánh giá thường xuyên và định kì giữa các hình thức đánh gia khác nhau bằng viết và vấn đáp…; đặc biệt, việc kiểm tra, thi đều thực hiện theo trình độ chuẩn của chương trình mới. Trong phạm vi quản lí dạy học, ban giám hiệu nhà trường quản lí quá trình học của học sinh thông qua phản ánh của đội ngũ giáo viên về kết quả học tập rèn luyện của học sinh. Ban giám hiệu nhà trường cần phải quản lí việc kiểm tra của giáo viên đối với học sinh để đánh giá kết quả học tập của học sinh và kết quả dạy học của giáo viên tránh chỉ dừng lại ở mức độ đo lường bằng điểm số. Cụ thể là: quản lí kế hoạch kiểm tra của giáo viên; có kế hoạch kiểm tra giữa học kì, cuối học kì và hết năm học; yêu cầu chấm, trả bài đúng thời hạn, có sửa chữa 31 31

33. hướng dẫn cho học sinh; phân công bộ máy quản lí tổng hợp tình hình kiểm tra đánh giá kết quả học tập theo định kì. Thông qua việc tổ chức các kì thi để đánh giá đúng thực chất kết quả học tập của học sinh, từ đó có kế hoạch phụ đạo cho học sinh yếu kém về học lực, phát hiện và bồi dưỡng kịp thời những học sinh có năng khiếu. Mặt khác, thông qua việc kiểm tra nghiêm túc, đánh giá công bằng và khách quan giúp giáo viên điều chỉnh quá trình dạy của mình, kích thích tính tự giác học tập của học sinh. 1.3. Những yếu tố tác động quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở 1.3.1. Những nhân tố tác động từ bên ngoài của quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở Một là, điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, các nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh bao gồm các nguồn lực về con người, tài chính, cơ sở vật chất, thông tin, tài liệu và đồ dùng dạy học… trên địa bàn quận. Hai là, chủ trương, biện pháp của ngành giáo dục về đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở cần đảm bảo các nội dung cơ bản sau: Mục đích của đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh nhằm hướng tới giải quyết nhiệm vụ gì, vấn đề gì. Mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh đáp ứng yêu cầu gì của quản li giáo dục trong nhà trường. Phương hướng, tư tưởng chỉ đạo; con đường, bước đi của toàn bộ quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh. Ba là, thực trạng về đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục trên địa bàn quận. 32 32

34. 1.3.2. Những nhân tố tác động từ bên trong của quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở Môn tiếng Anh ở trường trung học cơ sở cung cấp cho học sinh một công cụ giao tiếp mới để tiếp thu tri thức khoa học, kĩ thuật tiên tiến, tìm hiểu các nền văn hoá đa dạng và phong phú trên thế giới, dễ dàng hội nhập quốc tế. Môn tiếng Anh ở trường trung học cơ sở góp phần phát triển tư duy (trước hết là tư duy ngôn ngữ) và bổ trợ cho việc học tiếng Việt. Với đặc trưng riêng, môn tiếng Anh góp phần đổi mới phương pháp dạy học, lồng ghép và chuyển tải nội dung của nhiều môn học khác ở trường trung học cơ sở. Cùng với các môn học và hoạt động giáo dục khác, môn tiếng Anh giúp cho việc thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện ở trường trung học cơ sở. Với mục tiêu dạy học của bộ môn là giúp học sinh sử dụng tiếng Anh như một công cụ giao tiếp ở mức độ cơ bản dưới các dạng nghe, nói, đọc, viết; có kiến thức cơ bản, tương đối hệ thống và hoàn chỉnh về tiếng Anh, phù hợp với trình độ, đặc điểm tâm lí lứa tuổi; có hiểu biết khái quát về đất nước, con người và nền văn hoá của một số nước nói tiếng Anh, từ đó có tình cảm và thái độ tốt đệp đối với đất nước, con người, nền văn hoá và ngôn ngữ của các nước nói tiếng Anh, biết tự hào, yêu quí và tôn trọng nền văn hoá và ngôn ngữ của dân tộc mình. Mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở trong giai đoạn hiện nay là tập trung vào việc phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo của học sinh, nhằm hình thành năng lực nhận biệt và giải quyết vấn đề cho học sinh. Để đạt được mục tiêu này phương pháp dạy học tiếng Anh mới theo định hướng lấy học sinh làm chủ thể quá trình dạy học, khuyến khích quá` trình học tập tích cực, chủ động và sáng tạo. 33 33

36. Những biểu hiện đặc trưng của tính tích cực học tập của học sinh bao gồm: khát khao hoạt động tìm hiểu, khám phá, thử nghiệm; hay nêu câu hỏi thắc mắc với giáo viên và bạn; chủ động thực hiện các nhiệm vụ học tập; tập trung chú ý, kiên trì thực hiện nhiệm vụ học tập. Tính tích cực hoạt động học tập thực chất là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Những biểu hiện tích cực của một giờ học đối với học sinh bao gồm: học sinh hứng thú học tập; học sinh chủ động huy động các chức năng tâm lí ở mức cao trong việc chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng; học sinh thích thể hiện và biết cách thể hiện những hiểu biết của mình trong các hoạt động học tập; học sinh biết tự đánh giá kết quả học tập của mình và của bạn. Những biểu hiện tích cực của một giờ học đối với giáo viên tập trung vào các nội dung: là người dẫn dắt học sinh giải quyết các tình huống, biết khơi dậy và kích thích trí tò mò, lòng ham muốn tìm hiểu các kiến thức của học sinh; là người chỉ đạo, biết tạo điều kiện và biết cách tổ chức những hoạt động học tập của học sinh; là người hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ các phương tiện học tập khác nhau như tranh ảnh, băng hình, phần mềm dạy học; là người biết khuyến khích, động viên thành tích học tập của học sinh. Nội dung của dạy học tiếng Anh theo quan điểm giao tiếp ở các trường trung học cơ sở Quan điểm giao tiếp qui định “tính giao tiếp” của quá trình dạy học tiếng Anh. Dạy học tiếng Anh thực chất là quá trình rèn luyện năng lực giao tiếp (các mẫu lời nói) dưới các dạng nghe, nói, đọc, viết. Muốn rèn luyện được năng lực giao tiếp cần có môi trường với những tình huống đa dạng của cuộc sống. Môi trường này chủ yếu do giáo viên tạo ra dưới dạng những tình huống giao tiếp và học sinh phải tìm cách ứng xử bằng tiếng Anh cho phù hợp với tình huống giao tiếp cụ thể. 35 35

37. Mục đích của việc dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở không nhằm hướng học sinh vào nghiên cứu hệ thống ngôn ngữ tiếng Anh mà nhằm giúp học sinh sử dụng tiếng Anh như một công cụ giao tiếp, nghĩa là nhằm rèn luyện cho học sinh năng lực giao tiếp. Năng lực giao tiếp này được thể hiện bằng khả năng sử dụng sáng tạo những qui tắc trong tiếng Anh để thực hiện giao tiếp tình huống. Như vậy, nắm chắc hệ thống ngôn ngữ tiếng Anh không phải là đích cuối cùng mà còn là phương tiện để đạt được các mục đích giao tiếp. 1.3.5. Những nhân tố tác động từ việc đảm bảo và sử dụng các phương tiện và công nghệ thông tin trong dạy học ở các trường trung học cơ sở Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh, nhằm tăng cường tính trực quan, nhận biết trong quá trình dạy học. Việc sử dụng các phương tiện dạy học cần phù hợp với mối quan hệ giữa phương tiện dạy học và phương pháp dạy học. Tuy nhiên các phương tiện dạy học tự tạo của giáo viên luôn có ý nghĩa quan trọng, cần được phát huy. Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong qúa trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở. Đa phương tiện và công nghệ thông tin có nhiều khả năng ứng dụng trong đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử dụng mạng điện tử (E-Learning, E-study). Phương tiện dạy học mới cũng hỗ trợ việc tìm ra và sử dụng các phương pháp dạy học mới. Webquest là một ví dụ về phương pháp dạy học mới với phương tiện mới là dạy học sử dụng mạng điện tử, trong đó học sinh khám phá tri thức trên mạng một cách có định hướng. 36 36

38. Sử dụng các kĩ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo ở các trường trung học cơ sở Kĩ thuật dạy học tiếng Anh là những cách thức tổ chức của giáo viên và học sinh trong các tình huống tổ chức nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các kĩ thuật dạy học tiếng Anh là những đơn vị nhỏ nhất của phương pháp dạy học tiếng Anh. Có những kĩ thuật dạy học chung, có những kĩ thuật đặc thù của từng phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở theo nội dung dạy học cụ thể, ví dụ kĩ thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại. Ngày nay người ta chú trọng phát triển và sử dụng các kĩ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở Phương pháp dạy học có mối quan hệ biện chứng với nội dung dạy học. Vì vậy bên cạnh những phương pháp chung có thể sử dụng cho nhiều bộ môn khác nhau thì việc sử dụng phương pháp dạy học đặc thù bộ môn tiếng Anh có vai trò quan trọng trong dạy học bộ môn. Các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn tiếng Anh được xây dựng trên cơ sở lí luận dạy học bộ môn. 1.3.6. Những nhân tố tác động từ việc bồi dưỡng phương pháp học tập cho học sinh ở các trường trung học cơ sở Phương pháp học tập một cách tự lực đóng vai trò quan trọng trong việc tích cực hoá, phát huy tính sáng tạo của học sinh. Có những phương pháp nhận thức chung như phương pháp làm việc nhóm, phương pháp thuyết trình. Bằng nhiều hình thức khác nhau, cần luyện tập cho học sinh các phương pháp học tập chung và các phương pháp học tập tiếng Anh. 1.3.7. Những nhân tố tác động từ việc đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá ở các trường trung học cơ sở 37 37

40. trình có hai chủ thể: giáo viên và học sinh. Cả hai chủ thể này đều chủ động, tích cực, bằng quá trình hoạt động của mình hướng tới tri thức. Giáo viên thì hoạt động truyền đạt tri thức, còn trò thì hoạt động chiếm lĩnh tri thức và biến nó thành vốn hiểu biết của mình để tiếp tục hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn… Đây là quan điểm dạy học được đa số các nước có nền giáo dục tiên tiến quan tâm. Quản lí quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở là rất khó khăn và phức tạp, đòi hỏi người cán bộ quản lí phải có sự hiểu biết cơ bản về bộ môn tiếng Anh, phải nắm được định hướng đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở trường trung học cơ sở. Bên cạnh đó, đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh theo quan điểm giao tiếp, đòi hỏi nhà quản lí còn phải biết dự kiến và hoạch định công việc, có trình độ kĩ năng và nghiệp vụ quản lí, tổ chức tốt các hoạt động nhằm hướng vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh giúp cho nhà trường thực hiện được mục tiêu giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh đòi hỏi những điều kiện thích hợp về phương tiện, cơ sở vật chất và tổ chức dạy học, điều kiện về tổ chức và quản lí. 39 39

41. Chương 2 ĐẶC ĐIỂM VÀ THỰC TRẠNG QUẢN LÍ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁPDẠY HỌC TIẾNGANH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1. Đặc điểm của dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh 2.1.1. Mục tiêu của dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh Mục tiêu dạy học tiếng Anh hiện nay ở các trường trung học cơ sở trên địa bàn quận 10 vẫn là tập trung vào phát triển tính năng động, sáng tạo và tích cực của học sinh nhằm tạo khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề về kĩ năng ngôn ngữ tiếng Anh cho các em. Bên cạnh đó, tăng cường vận dụng ngôn ngữ trong thực hành và giao tiếp tiếng Anh. 2.1.2. Đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh Ưu điểm Về số lượng: đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở có nhiều biến động theo chiều hướng tốt. Giáo viên tiếng Anh liên tục tăng cả về số lượng lẫn loại hình (Xem bảng phụ lục 2.2). Tỉ lệ giáo viên tiếng Anh đạt chuẩn đào tạo từ cao đẳng sư phạm trở lên là 99,1% (trong đó: trình độ đại học 93.8%, trình độ thạc sĩ: 5.3%) Đã có đủ giáo viên tiếng Anh để dạy ở tất cả các trường trung học cơ sở trong toàn Quận – tỉ lệ 3.3 lớp/ giáo viên tiếng Anh. Đa số đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở có tinh thần trách nhiệm cao, tận tụy với nghề nghiệp, một bộ phận có tay nghề vững vàng và chuyên môn giỏi đã và đang đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của ngành. 40 40

42. Số lượng giáo viên tiếng Anh ở các trường học tăng, đáp ứng được phần nào nhu cầu phục vụ đổi mới phương pháp dạy và học. Về trình độ đào tạo giáo viên tiếng Anh: được nâng dần qua hàng năm, trình độ đào tạo trên chuẩn tăng, có sáu giáo viên có học vị Thạc sĩ. Về độ tuổi: tỉ lệ cán bộ quản lí, giáo viên tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh dưới 35 tuổi tăng dần, tỉ lệ trên 45 tuổi (đối với nữ), trên 50 tuổi (đối với nam) giảm dần. Nhược điểm Về số lượng: đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở tuy tăng nhiều, tăng liên tục qua hàng năm nhưng vẫn chưa đáp ứng được tỉ lệ cần thiết theo yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Về trình độ đào tạo: vẫn còn một giáo viên tiếngAnh chưa đạt chuẩn. Về trình độ chính trị: số cán bộ quản lí, giáo viên có trình độ chính trị trung cấp chưa nhiều. Về độ tuổi: giáo viên tiếng Anh ở độ tuổi dưới 35 chiếm tỉ lệ cao, nhưng lại ít kinh nghiệm trong công tác quản lí. 2.1.3. Cách thức tổ chức dạy học và môi trường thực hành tiếng Anh cho học sinh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh Môi trường thực hành tiếng Anh cho học sinh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh nhìn chung cũng còn hạn chế. Chủ yếu chỉ thông qua hình thức thực hành những nội dung trong sách giáo khoa ở các tiết học với giáo viên tiếng Anh trên lớp. Ở các trường trung học cơ sở trên địa bàn quận 10 đã áp dụng hình thức tổ chức cho học sinh hoạt động theo cặp nhóm trong giờ dạy và học môn tiếng Anh nhằm mang lại hiệu quả tốt trong giảng dạy và học tập bộ môn. 2.1.3.1. Hoạt động theo cặp (pair work ) Cặp giữa thầy và một trò (Teacher and a student) 41 41

43. Thường được sử dụng làm mẫu trước khi cho học sinh luyện tập ngữ liệu mới theo cặp mở hoặc đóng . Cặp mở (open pair): giữa hai học sinh không ngồi gần nhau Cách này thường được tổ chức cho học sinh hoạt động thực hành bài khoá hoặc luyện ngữ liệu mới trước khi các em thực hành theo cặp đóng. Cặp đóng (close pair): giữa hai học sinh ngồi cạnh nhau Nhóm này thường được tổ chức cho học sinh hoạt động khi giáo viên giao việc cho học sinh chấm, chữa bài cho nhau (qua phiếu học tập hoặc qua các bài tập trong sách ), hoặc trong trường hợp sau khi giao việc cá nhân, học sinh phải huy động kinh nghiệm đã có để suy nghĩ, cuối cùng trao đổi kinh nghiệm với người bên cạnh mình nhằm cách giải quyết tình huống đề ra, hoặc cho học sinh luyện tập ngữ liệu mới sau khi được giới thiệu, hoặc cho học sinh luyện kĩ năng giao tiếp đối thoại theo nội dung bài khoá … 2.1.3.2. Hoạt động theo nhóm ( group work ) Chia nhóm theo vị trí bàn học của học sinh để huy động khả năng của học sinh trong nhóm vào giải quyết các bài tập tình huống nhận thức, thực hành nói . Chia nhóm thành dãy bàn học có trong lớp. Nhóm này thường được sử dụng trong các trò chơi học tập, hoặc giải một bài tập nhận thức có tính thi đua giữa các nhóm với nhau. Thực tế, mỗi tiết học giáo viên chỉ có thể tổ chức từ một đến hai hoạt động nhóm, và các nhóm sử dụng các phiếu hoạt động (activity sheet) hay phiếu làm việc (work sheet), trong hoạt động nhóm tư duy tích cực của học sinh phát huy và đặc biệt là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong nhóm. Bên cạnh đó, giáo viên cũng chú trọng hoạt động cặp giữa: giáo viên – học sinh, học sinh – học sinh nhằm để phát huy tính giao tiếp, đặc biệt để giúp cho tiết học sinh động hơn giáo viên cũng tổ chức các trò chơi, bài hát 42 42

45. 2.1.5. Đặc điểm về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học và các nguồn vật lực, tài lực cho phát triển giáo dục phục vụ dạy và học ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh 2.1.5.1. Về cơ sở vật chất Từ khi tái lập quận (năm học 2006 – 2007) đến nay, dưới ánh sáng Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), phong trào xã hội hóa giáo dục phát triển mạnh, cơ sở vật chất trường học được quan tâm xây dựng, cải tạo, tu bổ. Tuy nhiên, hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học còn nhiều hạn chế như: Một số phòng học ở trường công lập được xây dựng từ 1999 trở về trước, nhiều phòng đã hết niên hạn sử dụng, nhiều phòng khác đang xuống cấp cần phải tu bổ, nâng cấp hàng năm. Số phòng học chức năng còn thiếu vế số lượng, chưa đảm bảo về qui cách, chưa đủ trang thiết bị dạy học, gây nhiều trở ngại cho giáo viên trong việc khai thác trang thiết bị và triển khai các hoạt động nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Cơ sở vật chất các trường trung học cơ sở công lập (Xem bảng phụ lục 2.3). 2.1.5.2. Về nguồn tài lực cho giáo dục Quận 10 là một quận được đầu tư có nhiều thay đổi về giáo dục trong thành phố, song nhờ làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, biết kết hợp lồng ghép các chương trình, dự án (chương trình kiên cố hóa trường học, chương trình 135, kế hoạch phát triển giáo dục đối với quận phường có nhiều học sinh dân tộc… của thành phố) nên nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục ngày càng tăng. Các nguồn lực tài lực đầu tư cho giáo dục được sử dụng một cách hợp lí, đúng mục đích, có hiệu quả do vậy một mặt tạo nên chất lượng cho những nội dung đầu tư, mặt khác tạo nên được niềm tin của cộng đồng, của các cơ quan chức năng, tạo nên sự bền vững của nguồn tài lực. Tuy nhiên, các nguồn lực này phân bố chưa thật đều giữa các vùng, các phường khó khăn nguồn lực đầu tư cho giáo dục, nhất là nguồn tài lực huy động từ cộng đồng còn rất hạn chế (Xem bảng phụ lục 2. 4). 44 44

46. 2.1.6. Đặc điểm về tình hình học tập bộ môn tiếng Anh của học sinh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh Tình hình học tập bộ môn tiếng Anh, chất lượng giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi ở các trường trung học cơ sở trên địa bàn quận 10 có những chuyển biến tích cực kể từ năm học 2008 – 2009 (Xem các bảng phụ lục 2.5 và 2.6). Kết quả bộ môn có sự chuyển biến tích cực khi hai trường trung học phổ thông có học sinh trung học cơ sở – Sương Nguyệt Anh và Diên Hồng được chuyển từ mô hình công lập tự chủ tài chính sang mô hình công lập. Đây cũng là một trong những nhân tố tích cực để việc phân bổ đều nguồn học sinh đầu cấp vào các trường trung học cơ sở trên địa bàn quận và góp phần nâng cao chất lượng dạy và học nói chung cũng như bộ môn tiếng Anh nói riêng. Chất lượng giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn tiếng Anh đạt kết quả khả quan bắt nguồn từ việc đổi mới phương pháp dạy học bộ môn tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở, chiến lược tập trung bồi dưỡng học sinh giỏi của phòng giáo dục, bên cạnh sự nỗ lực của cả giáo viên giảng dạy và thái độ tích cực học tập bộ môn của học sinh. Thành tích nổi bật về kết quả thi học sinh giỏi cấp thành phố bộ môn tiếng Anh với nhiều giải nhất đã góp phần không nhỏ cho phong trào dạy và học của quận 10 luôn ở vị trí cao trong toàn thành phố Hồ Chí Minh. 2.2. Thực trạng quá trình đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh ở các trường trung học cơ sở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh Hiện nay việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo chủ trương của bộ giáo dục và đào tạo đã trở thành một đòn bẩy mạnh mẽ làm thay đổi đáng kể chất lượng học tập; học sinh tích cực, chủ động hơn trong việc học. Nhìn chung, sau bốn năm thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học tại các trường trung học cơ sở trên địa bàn quận 10, bước đầu đem lại những 45 45

Cẩm Nang Các Học Phần Tiếng Anh Tại Trường Đại Học Gtvt

1.1. Giới thiệu chung về học phần tiếng Anh A1

Học phần Tiếng Anh A1 được thiết kế cho sinh viên bắt đầu học Tiếng Anh, mục đích nhằm trang bị cho sinh viên kĩ năng cơ bản nghe, nói, đọc và viết khi bắt đầu học tiếng Anh. Sinh viên sau khi học xong học phần A1 có khả năng đạt điểm IELTS là 2.5 tương đương trình độ A1 khung châu Âu. Sinh viên được công nhận đạt học phần A1 nếu đạt 50/100 điểm tổng của tất cả các phần thi nghe, nói, đọc, viết nếu sinh viên thi tự do. Nếu sinh viên có tham gia học sẽ được tính điểm tp – 30% và điểm thi sẽ được tính là 70 %

Tài liệu giảng dạy gồm có: Straightforward beginner, Macmillan, Jim Scrivener and Mike Sayer

Tài liệu tham khảo gồm có: Speakout Starter, Pearson, Frances Eales Steve Oakes

1.2. Nội dung đề cương chi tiết A1

1.3. Dạng thức đề thi A1

– Đề thi của chương trình Tiếng Anh A1 tại Phân hiệu kết hợp bốn kỹ năng cơ bản, bao gồm các phần sau:

PHẦN 1: GRAMMAR, VOCABULARY & COMMUNICATIVE LANGUAGE (20 points) PHẦN 2: READING (20 points) PHẦN 3: WRITING (20 points)

5 câu sắp xếp các từ theo đúng trật tự để tạo thành câu hoàn chỉnh

5 câu xây dựng câu dựa vào những từ gợi ý

PHẦN 4: LISTENING (20 points) PHẦN 5: SPEAKING (20 points)

Trả lời từ 5-7 câu hỏi về giao tiếp hàng ngày

Miêu tả tranh khoảng 5-7 câu

1.4. Kinh nghiệm học và làm bài thi tiếng Anh A1

2.1.Giới thiệu chung về học phần tiếng Anh A2

Học phần A2 là học phần tăng cường (không bắt buộc) trong chương trình đào tạo, gồm 90 tiết (4 tín chỉ). Các học phần này thường được sinh viên đăng ký vào kỳ 2 năm thứ 1 hoặc kỳ 1 năm 2 sau khi đã đạt trình độ tiếng Anh A1. Sinh viên được công nhận đạt học phần A2 nếu đạt 50/100 điểm tổng của tất cả các phần thi nghe, nói, đọc, viết nếu sinh viên thi tự do. Nếu sinh viên có tham gia học sẽ được tính điểm tp – 30% và điểm thi sẽ được tính là 70 %

Tài liệu học tập được tuyển chọn theo giáo trình ” Key English Test for School”. Nội dung giáo trình cô đọng và bám sát thực tế, kết hợp tất cả các kỹ năng Listening, Speaking, Reading và Writing và rất sát với đề A2.

Nội dung đề cương chi tiết- A2

Bài thi Reading and Writing: thí sinh sẽ tham gia bài thi này trong thời gian 70 phút, bài thi có 9 phần thi với 56 câu hỏi, chiếm 50% tổng số điểm, thí sinh sẽ đọc kỹ nội dung câu hỏi cơ bản trong bài thi rồi trả lời đáp án vào tờ Answer Sheet.

Bài thi Listening: Bài thi nghe diễn ra trong thời gian 25 phút, thí sinh sẽ được nghe bằng Cassette, bài thi có 5 phần với 25 câu hỏi, bài thi này sẽ chiếm 25% tổng số điểm của toàn bộ kết quả thi.

Bài thi Speaking: Thời gian từ 8 – 10 phút, chiếm 25% tổng số điểm. Thí sinh sẽ thi theo cặp (2 thí sinh 1 cặp), các thí sinh sẽ được khảo sát kỹ năng Speaking qua 2 phần chính: phần 1: hỏi-trả lời các câu hỏi về bản thân, gia đình, bạn bè, học tập…Trong phần 2 sinh viên sẽ rút thăm card để hỏi và trả lời – và sau đó đổi vai.

Kinh nghiệm học và làm bài thi tiếng Anh A2

Người học cần hoàn thành tốt các yêu cầu của khóa học, nhất là phần bài tập bổ sung (Workbook). Đi học đầy đủ và tích cực tham gia các hoạt động trong lớp.

Đề thi bám sát nội dung chương trình học, do đó trước hết người học cần nắm vững các kiến thức (từ vựng, mẫu câu) được giảng dạy trong lớp.

Tích cực tham gia các hoạt động trong lớp học để nhanh nhớ bài và rèn luyện được các kĩ năng cho kì thi.

Học phần Tiếng Anh B1 là học phần bắt buộc trong chương trình đào tạo, được thiết kế cho sinh viên đã đạt điểm thi IELTS 3.5 (tương đương với trình độ A2 khung Châu âu). Sinh viên được công nhận đạt học phần B1 nếu đạt 5/10, trong đó điểm tp chiếm 30% và điểm thi sẽ được tính là 70 %. Sau khi đạt được học phần này sinh viên sẽ được Trường công nhận là đạt trình độ B1 khung châu Âu tương đương TOEIC 450 hay IELTS 4.0

Nội dung đề cương chi tiết B1

3.3.Dạng thức đề thi B1

Đề thi của tất cả các chương trình Tiếng Anh chuyên ngành tại Phân hiệu đều kết hợp bốn kỹ năng cơ bản, bao gồm các phần sau:

PHẦN 1: READING AND WRITING (50 points) (1 hour and 30 minutes)

READING: Gồm Part 1 – Part 5 ( question 1 – question 35)

WRITING: Gồm 3 phần

PHẦN 2: LISTENING (25 points) (35 minutes) PHẦN 3: SPEAKING (25 points) (8-10 minutes/ 1 pair)

Part 1: hỏi và trả lời

Part 3: Mô tả tranh

Kinh nghiệm học và làm bài thi tiếng Anh B1

HỌC PHẦN TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH

4.1.Giới thiệu chung về học phần tiếng Anh chuyên ngành

Ngoài chuẩn đầu ra ngoại ngữ chung là trình độ B1 khung Châu Âu, sinh viên trường ĐHGTVT tại chúng tôi còn được học các chương trình Tiếng Anh chuyên ngành (ESP – English for Specific Purposes) theo đúng ngành học của mình nhằm mục đích chuẩn bị kỹ năng ngoại ngữ cần thiết để có thể học tập và làm việc trong các môi trường chuyên môn đa ngôn ngữ và đa văn hóa.

Tiếng Anh chuyên ngành là học phần bắt buộc trong chương trình đào tạo, gồm 60 tiết (3 tín chỉ). Các học phần này thường được sinh viên đăng ký vào đầu năm thứ 3, khi đã đạt trình độ tiếng Anh phổ thông (Genenral English) tối thiểu là A2 theo khung châu Âu và đã có đủ kiến thức cơ bản về chuyên ngành để có thể tiếp thu tốt nhất nội dung môn học tiếng Anh chuyên ngành. Sinh viên được công nhận đạt học phần Anh văn chuyên ngành nếu đạt 4/10 và điểm thành phần được tính trọng số là 30%, điểm bài thi có trọng số là 70%. Tùy vào chuyên ngành đang theo học tại trường, sinh viên sẽ theo học các khóa ESP về:

Kinh tế (English for Economics and Business)

Xây dựng Cầu Đường (English for Bridge and Road Construction)

Xây dựng Dân dụng (English for Building Engineering)

Cơ khí (English for Mechanical Engineering)

Công nghệ Thông tin (English for Information Techonology)

Điện-Điện tử (English for Electric and Electronic Engineering)

Kỹ thuật viễn thông (English for Telecommunications)

Tài liệu học tập được tuyển chọn và biên soạn từ những giáo trình ESP uy tín thế giới, kết hợp với tài liệu chuyên ngành đặc thù của các chương trình đào tạo tại Phân hiệu.

4.2. Nội dung chi tiết Anh văn CN

Nội dung giáo trình cô đọng và bám sát thực tế, kết hợp tất cả các kỹ năng Listening, Speaking, Reading và Writing. Đặc biệt, các giáo trình Tiếng Anh chuyên ngành còn tập hợp những thuật ngữ quan trọng trong ngành để người học mở rộng vốn từ vựng chuyên ngành, dễ dàng tiếp cận với nguồn tài liệu, sách báo và tạp chí chuyên ngành, phục vụ đắc lực cho việc học tập và nghiên cứu.

Thường thì mỗi chuyên ngành đều có từ 6 đến 8 bài, được dạy trong 60 tiết và chủ yếu là sinh viên tự nghiên cứu, diễn đạt các ý kiến của mình về các bài học. Thường thì sinh viên sẽ được làm từ 1 đến 2 bài kiểm tra: sau 3 hoặc 4 bài học mỗi chuyên ngành đều có một mid-term test vừa là cho sinh biết dạng thức của đề thi và vừa là hệ thống bài cho sinh viên, và 1 bài vào cuối khóa.

4.3.Dạng thức đề thi Anh văn CN

Đề thi của tất cả các chương trình Tiếng Anh chuyên ngành tại Phân hiệu đều kết hợp bốn kỹ năng cơ bản, bao gồm các phần sau:

PHẦN 1: GRAMMAR AND VOCABULARY (10 points)

10 câu trắc nghiệm 4 lựa chọn về ngữ pháp và từ vựng

PHẦN 2: MATCHING TERMS AND DEFINITIONS (10 points)

Nối 10 thuật ngữ chuyên ngành với các định nghĩa tương ứng

PHẦN 3: READING COMPREHENSION (20 points)

Đọc và chọn phát biểu đúng/sai (True/False)

Điền từ vào đoạn văn

PHẦN 4: WRITING (20 points)

Viết lại câu không thay đổi nghĩa

Bài viết về chuyên ngành (100 từ, nội dung cụ thể tùy chuyên ngành)

PHẦN 5: LISTENING (20 points)

Nghe và chọn phát biểu đúng/sai (True/False)

Nghe và điền từ vào đoạn văn

PHẦN 6: SPEAKING (20 points)

Trả lời các câu hỏi ngắn về chuyên ngành – đa số là thuật ngữ chuyên ngành

Miêu tả biểu đồ, bản vẽ, thiết bị, quy trình, hệ thống v.v. (tùy chuyên ngành cụ thể)

4.4.Kinh nghiệm học và làm bài thi tiếng Anh chuyên ngành

Người học cần hoàn thành tốt các yêu cầu của khóa học, nhất là phần bài tập bổ sung (Workbook) và bài thuyết trình nhóm (Group presentation). Đi học đầy đủ và tích cực tham gia các hoạt động trong lớp.

Đề thi bám sát nội dung chương trình học, do đó trước hết người học cần nắm vững các kiến thức (từ vựng, mẫu câu) được giảng dạy trong lớp.

Ngoài kiến thức và kỹ năng ngôn ngữ, sinh viên cần nắm vững một số kiến thức và thuật ngữ cơ bản của chuyên ngành mình đang theo học. Tất cả các bài đọc và tình huống của bài thi đều xoay quanh chuyên ngành này.

Đối với một số chuyên ngành có kiến thức cập nhật nhanh (Công nghệ thông tin, Điện tử viễn thông), người học cần làm quen với việc tìm đọc các tài liệu mới nhất về chuyên ngành của mình để cập nhật các kiến thức và công nghệ mới, nhờ đó kết hợp hiệu quả việc học tiếng Anh với hoạt động học tập nghiên cứu.

Ô Nhiễm Môi Trường Là Gì? Các Biện Pháp Bảo Vệ Môi Trường Hiệu Quả

Xã hội ngày nay đang phát triển tới mức chóng mặt vớt sự phát triển vượt bậc của nông nghiệp, công nghiệp cũng như các phát minh khoa học kĩ thuật. Tuy nhiên, bên cạnh đó tồn tại những vấn nạn môi trường cũng đang ngày càng tăng cao. Trong đó, tình trạng ô nhiễm môi trường đang là vấn đề đáng báo động nhất hiện nay. Nó gây ảnh hưởng xấu cho con người và sinh vật sống trên toàn trái đất. Vậy, ô nhiễm môi trường là gì? Nguyên nhân nào gây ô nhiễm môi trường? Và có biện pháp nào giúp bảo vệ môi trường hay không? 

Ô nhiễm môi trường là gì?

Khái niệm ô nhiễm môi trường

Môi trường là bao gồm tất cả các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo tồn tại xung quanh chúng ta. Nó có ảnh hưởng đến đời sống, sự tồn tại và phát triển của con người cũng như sinh vật sống khác.

Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần trong môi trường. Các thay đổi này không phù hợp với những quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Chúng để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng và ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và các sinh vật sống khác. Ngoài ra, chúng cũng là nguyên nhân gây nên các thiên tai (bão, lũ lụt, hạn hán…).

Ô nhiễm môi trường ảnh hưởng nghiêm trọng đến đa dạng sinh học, sự cân bằng của hệ sinh thái, biến đổi khí hậu, suy giảm, cạn kiệt nguồn tài nguyên,… Bên cạnh đó, nó còn gây thiệt hại cho mỹ quan đô thị, ảnh hưởng đến kinh tế và sự phát triển của đất nước.

Các dạng ô nhiễm môi trường 

Ô nhiễm môi trường nước

Môi trường nước bị ô nhiễm khi chúng xuất hiện các chất, hợp chất lạ ở dạng lỏng hoặc rắn. Sự biến đổi này khiến nguồn nước trở thành chất độc hại đối với con người và động vật. Không những vậy, nó còn làm giảm sự đa dạng sinh học trong môi trường. Trong tất cả các dạng ô nhiễm, ô nhiễm nguồn nước được đánh giá là có tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng đến sự sống lớn nhất.

Ô nhiễm môi trường đất

Môi trường đất là nơi cư ngụ của con người và nhiều giống động vật. Theo đó, ô nhiễm đất chính là sự đưa vào môi trường các chất thải nguy hại hoặc năng lượng đến mức ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của sinh vật, sức khỏe con người.

Đặc biệt là hóa chất xenobiotic. Đây là một loại chất gây ảnh hưởng lớn tới đời sống của con người và động vật. Chất này hình này bới hoạt động công nghiệp, hoá chất nông nghiệp,… Mức độ ô nhiễm còn tuỳ thuộc vào mức độ sử dụng hoá chất và công nghiệp hoá.

Ô nhiễm môi trường không khí

Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường là gì?

Có rất nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nhưng có lẽ tác động nhiều nhất là do hoạt động của con người gây ra. Ngoài ra, ô nhiễm môi trường cũng có thể xảy ra do tác động của tự nhiên. Cụ thể như sau:

Nông nghiệp

Do dư thừa lưu lượng thuốc trừ sâu, phân bón hoá học do người dân sử dụng trong quá trình canh tác, sản xuất nông nghiệp. Các chất thải này sẽ ngấm dần vào nguồn nước ngầm dưới lòng đất, ao hồ,… Điều này không những khiến ô nhiễm đất mà còn ô nhiễm nước ngầm. Thậm chí, đây còn là nguyên nhân chính gây nên hiện tượng “thuỷ triều đỏ” trên biển.

Công nghiệp

Đây là một trong các nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng ô nhiễm môi trường. Các nhà máy, xí nghiệp thải các chất thải môi trường chưa qua quá trình xử lý. Bên cạnh đó, các nhà máy sử dụng các nhiên liệu hoá thạch làm chất đốt trong quá trình sản xuất đã tạo các khí CO2, CO, N0, SO2,… Các khí thải này cũng gây ô nhiễm không khí trầm trọng, thậm chí là gây nên hiệu ứng nhà kính.

Chất thải rắn

Nguồn gốc chất thải rắn có thể đến từ sinh hoạt của người dân, từ khu chế xuất hay cơ sở y tế. Các chất thải này không được xử lý đúng quy trình trước khi thải ra môi trường. Việc này gây ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, ô nhiễm nước ngầm, ô nhiễm đất. Đồng thời còn gây ảnh hưởng trầm trọng đến hệ sinh thái.

Khí thải, khói thải

Có thể nói đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ô nhiễm không khí. Tình trạng này thường xảy ra tại các thành phố lớn có mật độ dân cư và phương tiện giao thông đông đúc.

Những hậu quả nghiêm trọng của ô nhiễm môi trường

Tác hại của ô nhiễm không khí

Ô nhiễm không khí có ảnh hưởng khá lớn đến hệ hô hấp của cả con người. Khí thải từ các phương tiện giao thông gây hại rất nhiều cho phổi. Ngoài ra, bụi mịn (PM2.5, PM1.0,…) là yếu tố gây ô nhiễm nguy hiểm nhất. Nó có thể tồn tại khá lâu trong không khí và phát tán rất xa. Do kích thước khá nhỏ, nếu xâm nhập sâu vào phổi, máu sẽ gây nên các bệnh hô hấp, vô sinh…

Ô nhiễm không khí có thể làm tăng nguy cơ mắc các rối loạn nhịp tim, thậm chí dẫn đến đau tim ở người cao tuổi, phụ nữ mang thai, người đang mang bệnh, trẻ em dưới 15 tuổi.

Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu khiến cho nhiệt độ tăng giảm bất thường có chiều hướng gia tăng. Điều này khiến gây ra các bệnh như đột quỵ nhiệt thậm chí là tử vong.

Ảnh hưởng của ô nhiễm đất đối với sức khỏe con người

Việc sử dụng hoá dược trong sản xuất nông nghiệp là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, nếu không được sử dụng với đúng liều lượng sẽ dẫn đến lượng hoá chất bị dư thừa và ngấm trong đất. Điều này gây mất cân bằng sinh học giữa đất và cây trồng. Ngoài việc ảnh hưởng đến chất lượng nông sản, ô nhiễm đất còn khiến nông sản bị nhiễm độc. Nếu con người sử dụng những nông sản này sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ rất nhiều.

Các bệnh có thể gây ra khi sử dụng nông sản bị nhiễm độc là gan to, hệ thần kinh, hệ di truyền, giảm chỉ số thông minh ở trẻ em…

Ảnh hưởng của ô nhiễm nước

Khi con người sử dụng nguồn nước ô nhiễm. Hay thực vật, động vật được nuôi trồng trong môi trường ô nhiễm, tiếp xúc trực tiếp với môi trường nước bị ô nhiễm thì rất dễ mắc các bệnh như tiêu chảy, dịch tả, thương hàn, viêm gan, viêm não, bệnh do muỗi truyền, thiếu máu,…

Các biện pháp để giảm thiểu ô nhiễm môi trường

Biện pháp để khắc phục ô nhiễm môi trường đầu tiên là ý thức của người dân. Nếu người dân có ý thức vứt rác đúng nơi quy định, không xả rác lung tung thì ô nhiễm môi trường sẽ được giảm đáng kể. Ngoài ra, cần có các chương trình giáo dục, nâng cao nhận thức cho trẻ nhỏ.

Hạn chế sử dụng chất tẩy rửa để ngừa tắc cống thoát nước. Có thể thay chất tẩy rửa bằng chất vi sinh.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ và chống ô nhiễm môi trường. Có các chế tài mạnh mẽ để xử phạt.

Xây dựng hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế.

Thường xuyên thanh tra, kiểm tra, giám sát môi trường.

Nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ đối với đội ngũ phụ trách công tác môi trường

Đầu tư, trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại

Trồng cây, gây rừng

Chôn lấp và đốt rác thải một cách khoa học

Sử dụng năng lượng thân thiện với môi trường như gió, mặt trời

Môi trường là yếu tố hết sức quan trọng trong đời sống chúng ta. Qua bai viết trên, hẳn bạn đã biết được ô nhiễm môi trường là gì. Và hậu quả nghiêm trọng mà nó để lại. Nếu môi trường bị ô nhiễm nó cũng sẽ gây tác động không nhỏ đến môi trường kinh tế, hệ sinh thái và sức khoẻ của chúng ta. Vì vậy, bảo vệ môi trường là tự bảo vệ chính chúng ta.

Cập nhật thông tin chi tiết về Học Tiếng Anh Pháp Lý Ở Môi Trường Đại Học trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!