Bạn đang xem bài viết Giáo Án Ngữ Văn 8: Khi Con Tu Hú được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
I. Giới thiệu tác giả * Chú thích (SGK – tr. 21) * Bổ sung – Con đường thơ của Tố Hữu bắt đầu cùng lúc với con đường cách mạng. – Thơ của ông được soi sáng bởi lý tưởng cách mạng. – Trong thơ Tố Hữu ta bắt gặp một tâm hồn nồng nhiệt của tuổi trẻ gặp lý tưởng cách mạng. – Khi bị tù đày: Thơ của ông vượt qua song sắt để cổ vũ cuộc đấu tranh, – Bài thơ: Khi con tu hú được sáng tác tháng 7/1939 tại nhà lao Thừa Phủ II. Đọc hiểu văn bản: * Nhan đề bài thơ – Tên bài thơ: Chỉ là một vế phụ của một câu trọn ý. VD: Khi con tu hú gọi bầy là khi mùa hè đến, người tù cách mạng càng cảm thấy ngột ngạt trong phòng gian chật chội, càng thèm khát cháy bỏng cuộc sống tự do tưng bừng ở bên ngoài. Tên bài thơ đã gợi mạch cảm xúc của bài thơ. Tiếng chim tu hú được gợi từ đầu bài thơ đó là tín hiệu của mùa hè rực rỡ, của sự sống tưng bừng, của trời cao lồng lộng tự do. Tiếng chim đã tác động mạnh đến tâm hồn người tù. * Thể thơ: – Bài thơ được viết theo thể lục bát. – Tiếng 6 của câu 6 hiệp vần với tiếng 6 của câu 8. 1. Sáu câu thơ đầu: Cảnh vào hè + Sáu câu thơ lục bát đã mở ra một thế giới rộn ràng tràn trề nhựa sống. – Hình ảnh: nắng đào lúa chín trái cây, hạt bắp, tiếng ve, bầu trời cao rộng, cánh diều chao lượn. Mùa hè rộn rã âm thanh rực rỡ sắc màu, ngọt ngào hương vụ, bầu trời thoáng đạt tự do. Tiếng chim tu hú đã thức dậy tất cả. Đây là cảnh trong tâm tưởng người chiến sĩ trẻ trong cảnh thân thù. Từ tiếng chim tu hú tác giả đã huy động mọi giác quan để đón nhận mọi tín hiệu của sự sống bên ngoài. Đây là sự cảm nhận mãnh liệt tinh tế của mọt tâm hồn trẻ trung yêu đời nhưng đang mất tự do và khao khát tự do. 2. Bốn câu cuối: Tâm trạng của người tù + Tâm trạng đau khổ, uất ức ngột ngạt được nhà thơ biểu hiện trực tiếp. – Cách ngắt nhịp bất thường 6/2 (câu 8), 3/3 (câu 9). – Cách dùng từ ngữ mạnh.. đạp tan phòng, ngột, chết uất… – Từ ngữ cảm thán: ôi, thôi, làm sao… Tạo cảm giác ngột ngạt cao độ, niềm khao khát mãnh liệt muốn thoát khỏi tù ngục, trở về cuộc sống tự do. Tiếng chim tu hú mở đầu đưa tác giả vào cảnh mùa hè với bầu trời tự do. Tiếng chim tu hú kết thúc bài thơ cách kết cấu đầu cuối tương ứng tạo hiệu quả nghệ thuật thể hiện niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ trong cảnh tù đầy. IV. Tổng kết: Bài thơ lục bát giản dị, giọng điệu tha thiết đã thể hiện sâu sắc lòng yêu cuộc sống và niềm khao khát tự do cháy bỏng của nhà thơ. tham khảo Cũng là một tiếng chim, nhưng tiếng gọi bầy của con chim tu hú gợi lên sự tưởng tượng phong phú về bức tranh thiên nhiên rộng lớn và tinh tế. Từ thế giới vĩ mô đến thế giới vi mô, từ cánh đồng, bầu trời, khu vườn, vạt sân đến hạt bắp, trái cây. Còn nhớ những tiếng chim độc đáo trong thơ: – Một tiếng chim kêu sáng cả rừng (Khương Hữu Dụng). – Tiếng chim tha nắng rải đồng vàng thơm (Định Hải). – Tiếng chim nghe thánh thót Văng vẳng khắp cánh đồng (Trần Hữu Thung)… ở bài thơ này, chim tu hú gọi bầy thức dậy trong tâm tưởng nhà thơ bao nhiêu hình ảnh, âm thanh, màu sắc, hương vị của mùa hè. Sắc màu thật là rực rỡ và lộng lẫy: – Cánh đồng lúa chín ửng vàng – Vườn cây râm mát xanh – Nắng đỏ tươi – Ngô vàng – Trời xanh thăm thẳm Những âm thanh thật là náo nức, rạo rực. Tiếng chim tu hú lảnh lót trên nền nhạc rộn rã của những tiếng ve ngân. Trên cao xanh điệp vào đó là tiếng sáo diều réo rắt. Cùng với sự đầy ắp âm thanh, màu sắc là hương thơm. Hương của đồng lúa chín, hương của những trái cây ngọt ngào từ những khu vườn, hương từ những vạt ngô đang rây vàng hạt mẩy. Cảnh vật rất sống động, chúng như đang phát triển, đang cựa quậy một cách hết sức tự nhiên, mạnh mẽ. Tiếng ve “dậy”, nắng đào “đầy”, trời xanh bát ngát như căng ra – “càng rộng càng cao”. Đến cả những cánh diều vô tri vô giác cũng biến thành vật sống – con diều sáo – bay lượn thoải mái tự do trong bầu trời khoáng đãng. Tuy nhiên, đặc sắc của bức tranh không phải chỉ là chất liệu, mặc dù chúng làm nên vẻ đẹp bề bộn, rậm rạp của Huế lúc vào hè. Đặc sắc là bức tranh này được vẽ bằng sự tưởng tượng, vẽ trong tưởng tượng. Nó là mùa hè, nhưng mùa hè “dậy” lên qua tiếng chim lọt vào buồng giam, mùa hè “nghe” thấy “cảm” thấy trong tiếng chim tu hú và xa xa là tiếng ve, tiếng sáo diều. Thiên nhiên tự do phóng khoáng bên ngoài được dành cho nhiều dòng thơ. Trong khi đó cuộc sống mùa hè của người bị giam chỉ được viết trong một dòng thơ ngắn ngủi vỏn vẹn sáu tiếng: Ngột làm sao, chết uất thôi Sự tương phản không chỉ là cảnh vật mà thậm chí đến ngay cả cấu tứ và diễn đạt. Không cần nói nhiều về tình trạng đối lập bên trong và bên ngoài phòng giam, mà vẫn cứ ngồn ngộn sự đối lập. Bởi vì rằng cảnh vật tự nó gợi lên sự đối lập. Bên ngoài là thiên nhiên phóng khoáng, dịu mát, thơm hương tràn đầy sức sống. Thế mà, cũng là mùa hè, nhưng trong phòng giam là sự ngột ngạt – và chết uất. Thế giới tù tội và thế giới tự do vốn là đối lập, nhưng nếu như không đặt chúng cạnh nhau, không so sánh bởi cùng một thước đo thì sự đối lập và tương phản ấy sẽ không có được tính chất gay gắt mãnh liệt. Tiếng chim tu hú cứ như khoan vào trong phòng giam để cho thế giới bên ngoài tràn vào ào ạt. Mà như vậy càng khiến cho sự ngột ngạt càng trở nên ngột ngạt, sự khao khát càng thêm khao khát, sự bức bối càng thêm bức bối. Đến nỗi người trong tù phải kêu lên, phải khao khát hành động đập phá, tháo cũi, sổ lồng. Người tù muốn đập tan phòng để ôm lấy mùa hè tự do. Người tù cảm thấy không thể sống nổi cuộc sống tù tội. Trong khi đó tiếng chim tu hú vẫn cứ giục giã, giục giã… Ban đầu tiếng chim tu hú chỉ là tiếng chim hiền lành gọi bầy, nhưng đến đây nó thấm đầy tâm trạng cho nên thành tiếng kêu. Nó Kêu ở ngoài trời, nó Kêu ở nơi tự do, nó Kêu ở trong lòng người. Nó khắc khoải, giục giã, thiêu đốt. Bài thơ kết thúc ở tiếng chim cứ kêu cứ kêu… Người tù có đạp tan phòng giam, có bị chết vì ngột, vì uất ở trong đó hay không bài thơ không nói rõ. Nhưng người đọc thì rõ điều này: Người thanh niên 19 tuổi “gân đang săn và thớ thịt căng da” khao khát tự do, căm thù sự giam cầm trói buộc. Cuộc đấu tranh của anh cực kì quyết liệt: – Hoặc là phá tan tù ngục – giành tự do – Hoặc sẽ bị nhà tù tiêu diệt – chết ngột, chết uất. Chỉ có một cách lựa chọn duy nhất giữa hai khả năng đó. Con chim tu hú cứ kêu hay đó là tiếng đời, tiếng gọi do như thúc giục, như khích lệ đập tan cái xà lim nhốt người, và tiến tới đập tan cái chế độ dã man đang cầm tù cả một dân tộc, một đất nước.
Soạn Bài: Khi Con Tu Hú – Ngữ Văn 8 Tập 2
I. Tác giả, tác phẩm
1. Tác giả ( các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Tố Hữu trong SGK Ngữ văn 8 Tập 2).
2. Tác phẩm
* Xuất xứ: Bài thơ Khi con tu hú được sáng tác trong nhà lao Thừa Phủ, khi tác giả mới bị bắt giam ở đây..
* Thể thơ: Bài thơ Khi con tu hú được viết theo thể thơ lục bát.
* Bố cục: Bài thơ có thể được chia làm 2 phần:
Phần 1: 6 câu đầu : Bức tranh mùa hè.
Phần 2: 4 câu cuối : Tâm trạng của người tù và người chiến sĩ cách mạng.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:
* Nhan đề bài thơ là vế phụ của một câu trọn ý, chỉ thời gian diễn ra sự việc trong câu. Hơn thế nữa, tiếng chim tu hú chính là tín hiệu của sự sống, của mùa hè sôi động.
* Câu văn có 4 chữ đầu là “Khi con tu hú” tóm tắt nội dung bài thơ là: Khi con tu hú gọi bầy cũng là khi đất trời chuyển sang hè, trong không gian lao tù bức bối, ngột ngạt, người chiến sĩ cách mạng lắng nghe tiếng chim tu hú giống như lắng nghe nhịp sống của mùa hè càng thêm cháy bỏng niềm khao khát tự do.
* Tiếng tu hú kêu lại tác động mạnh mẽ đến tâm hồn nhà thơ là bởi vì nó gợi nhắc về một mùa hè tràn đầy sức sống, một mùa hè sôi nổi, phóng khoáng, đối lập hoàn toàn với cảnh tù túng chật chội mà tác giả đang phải chịu.
Câu 2:
* Cảnh mùa hè được miêu tả trong 6 câu thơ đầu hiện lên rất tươi đẹp, dào dạt sức sống, khung cảnh đất trời cao rộng.
* Rất nhiều chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong bài được chọn lọc như: tiếng ve kêu râm ran, lúa chín vàng trên cánh đồng, bầu trời cao rộng với những cánh diều bay liệng và trái cây trong vườn thơm ngọt.
Câu 3:
* Tâm trạng của người tù, người chiến sĩ ở 4 câu thơ cuối: tâm trạng đau khổ, uất ức, ngột ngạt.
Ở những câu thơ này, cách ngắt nhịp đã có sự khác biệt, câu 8 (ngắt 6/2), câu 9 (ngắt 3/3). Kết hợp với đó là những từ diễn tả hoạt động, trạng thái với sắc thái mạnh: dậy, đạp tan, ngột, chết uất và những từ cảm thán, diễn đạt sự bức xúc: ôi, làm sao, thôi, cứ,…
Có thể nói, nếu tiếng tu hú ở đầu bài thơ gợi cho tác giả những cảm nhận về mùa hè sôi động, đầy sức sống, mùa hè của tự do, của niềm háo hức, rộn rã; thì ở những câu thơ cuối, tiếng chim tu hú khiến cho nhà thơ có cảm giác ngột ngạt, u uất lên đến cao độ, lúc này, tâm trạng của người chiến sĩ càng thêm đau khổ, bức bối vì cảnh tù giam hãm, mất tự do.
Câu 4:
Theo em, cái hay của bài thơ nằm trong cả hai phần nội dung và nghệ thuật.
Về nội dung: Bài thơ thể hiện tình yêu đối với cuộc sống tha thiết, niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng khi bị giam cầm trong nhà tù thực dân.
Về nghệ thuật: Bài thơ có nhiều hình ảnh gần gũi, giản dị mà giàu sức gợi cảm, sử dụng thể thơ lục bát dễ nghe, dễ nhớ, lời thơ tự nhiên và có thể truyền tải được những cảm xúc sâu lắng, đồng thời, góp phần thể hiện được sức sống đang sục sôi của người chiến sĩ cách mạng.
4.3
/
5
(
7
bình chọn
)
Soạn Bài Khi Con Tu Hú
Soạn bài Khi con tu hú – Tố Hữu
Bố cục:
Chia làm 2 phần:
+ Phần 1 (6 câu thơ đầu): Cảnh mùa hè sinh động, nhộn nhịp.
+ Phần 2 (còn lại): Tâm trạng bức bối, ngột ngạt của người chiến sĩ cộng sản.
Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 ( trang 20 sgk Ngữ văn 8 tập 2) :
– Nhan đề bài thơ: “Khi con tu hú” – trạng ngữ chỉ thời gian
Nhan đề bài thơ để nửa chừng, bỏ ngỏ → gợi mở khiến cho người đọc tò mò muốn khám phá nội dung bài thơ.
– “Khi con tu hú là bài thơ đặc tả chân thực bước chuyển mình cùng vẻ đẹp sôi động của mùa hè và trong không gian tù túng, ngột ngạt của phòng giam người chiến sĩ cách mạng lắng nghe tiếng tu hú- âm thanh rạo rực của sự sống- hối thúc khát khao tự do, tình yêu cuộc sống cháy bỏng.”
– Tiếng chim tu hú có tác động mạnh tới nhà thơ vì đó là tín hiệu của mùa hè, là sự gọi mời của tự do, của trời cao lồng lộng vì thế tiếng chim tác động mạnh mẽ tới tình cảm, tâm tư của nhà thơ.
Câu 2 ( trang 18 sgk Ngữ văn 8 tập 2) :
Tiếng chim tu hú gọi bầy đã làm sống dậy trong lòng tác giả cảnh sắc của mùa hè rạo rực, mê say:
Những chi tiết biểu hiện vẻ đẹp, nhịp sôi động của mùa hè:
+ Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần – hương vị ngọt ngào, mời gọi.
+ Tu hú gọi bầy, vườn râm ve ngân – gợi liên tưởng âm thanh vui nhộn, đặc trưng của mùa hè.
+ Trời xanh cao, diều sáo lộn nhào tầng không – không gian khoáng đạt, tự do.
→ Tiếng chim tu hú gọi mùa đã mở ra vẻ đẹp chào mời hấp dẫn của mùa hè. Mọi diễn đạt đều bắt nguồn từ cảm nhận bằng hồn thơ tinh tế, tình yêu cuộc sống, khao khát tự do mãnh liệt. Bức tranh thiên nhiên cũng vì thế vui nhộn, giàu sức sống.
Câu 3 ( trang 18 sgk Ngữ văn 8 tập 2) :
Tâm trạng của người chiến sĩ khi ở trong nhà tù:
+ Cách ngắt nhịp bất thường: 6/2 ; 3/3
+ Các động từ mạnh: dậy, đạp tan, ngột, chết uất → nhấn mạnh tâm trạng bức bối, ngột ngạt của người chiến sĩ.
+ Các từ cảm thán: ôi, thôi, làm sao → sự tiếc nuối, muốn vượt thoát khỏi thực tại.
– Mở đầu bài thơ và cuối bài thơ đều có hình ảnh tiếng chim tu hú- âm thanh của sự sống tự do, tươi sáng vọng vào gọi mời người chiến sĩ.
+ Tiếng chim đầu bài thơ báo hiệu mùa hè tươi mới, rộn ràng đến cuối bài thơ tiếng chim như tô đậm thêm tâm trạng đau khổ vì cảnh giam hãm, mất tự do.
Câu 4 (trang 18 sgk Ngữ văn 8 tập 2) :
Cái hay của bài thơ thể hiện nổi bật ở cả nội dung lẫn nghệ thuật của tác phẩm.
– Nội dung:
+ Bức tranh thiên nhiên mùa hè sôi động đầy màu sắc, âm thanh và hương vị
+ Thể hiện tình yêu cuộc sống, khao khát tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng khi bị giam hãm trong nhà tù thực dân.
– Nghệ thuật:
+ sử dụng nhiều hình ảnh gần gũi, bình dị, thân thuộc.
+ sử dụng thể thơ lục bát, lời thơ tự nhiên, giản dị dễ đi vào lòng người.
+ cái tôi được thể hiện chân thực, trong sáng, hồn nhiên.
Bài giảng: Khi con tu hú – Cô Phạm Lan Anh (Giáo viên VietJack)
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k7: chúng tôi
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:
Soạn Bài: Khi Con Tu Hú
I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
Nhà thơ Tố Hữu (1920 – 2002), tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, từ sáu, bảy tuổi Tố Hữu đã học và tập làm thơ. Giác ngộ cách mạng trong thời kì Mặt trận Dân chủ và trở thành người lãnh đạo Đoàn Thanh niên Dân chủ ở Huế. Những bài thơ đầu tiên được sáng tác từ những năm 1937 – 1938. Tháng 4 – 1939, bị thực dân Pháp bắt, giam giữ ở các nhà lao miền Trung và Tây nguyên. Tháng 3-1942, vượt ngục Đắc Lay, tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 ở Huế. Sau Cách mạng, Tố Hữu đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong Đảng và chính quyền (từng là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng).
Tác phẩm đã xuất bản: Từ ấy (thơ, 1946); Việt Bắc(thơ, 1954); Gió lộng (thơ, 1961); Ra trận (thơ, 1971); Máu và hoa (thơ, 1977); Một tiếng đờn (thơ, 1992); Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973); Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981).
được Tố Hữu viết khi ông đang bị địch giam trong nhà lao Thừa Phủ (Huế).
Thơ viết trong tù có nhiều loại, thể hiện nhiều tâm trạng khác nhau. Có khi nhà thơ diễn tả nỗi khổ cực của người tù:
Cũng có khi nhà thơ vượt lên trên cảnh ngộ tù đày để chủ động đến với thiên nhiên, rèn luyện ý chí.
Nhưng phổ biến nhất là những câu thơ diễn tả nỗi khổ tinh thần của người chiến sĩ cách mạng. Càng khao khát được hoạt động, được cống hiến, người tù càng cảm thấy bức bối, uất ức khi bị giam hãm giữa bốn bức tường ngột ngạt, chứng kiến thời gian đằng đẵng cứ chầm chậm trôi qua trong khi ở bên ngoài, phong trào cách mạng đang sôi sục.
1. Nhan đề của bài chỉ là một cụm từ chỉ thời gian (vẫn chưa đầy đủ). Nhan đề của bài thơ là một ẩn ý vừa chỉ một thời điểm bừng lên của thiên nhiên, tạo vật, vừa chỉ sự khát khao hoạt động của con người.
Sở dĩ, tiếng tu hú kêu lại có tác động mạnh đến tâm hồn của nhà thơ bởi, nó là tín hệu báo những ngày hè rực rỡ đến gần. Nó cũng là biểu tượng của sự bay nhảy tự do.
Không phải tiếng chim đơn độc mà là tiếng chim “gọi bầy”, tiếng chim báo tin vui. Nghe chim tu hú gọi nhau biết rằng “lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”. Nhưng không phải chỉ có thế. Tiếng chim gợi lên một thế giới tràn ngập âm thanh, màu sắc, hình ảnh:
Đó là những sắc màu, âm thanh của cuộc sống hằng ngày. Màu vàng của ngô, màu hồng của nắng nổi bật trên cái nền xanh của đất trời, quyện với tiếng ve ngân và còn được điểm xuyết thêm bằng hình ảnh “Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Không gian tràn trề nhựa sống, đang vận động, sinh sôi nảy nở từng ngày.
Đọc kĩ lại những câu thơ, ta bỗng phát hiện thêm nhiều điều kì lạ khác nữa. Các sự việc không được miêu tả trong trạng thái bình thường, chúng được tô đậm, được đẩy lên mức cao nhất có thể. Không phải “hạt bắp vàng” mà là “bắp rây vàng hạt” nắng là “nắng đào” màu sắc lộng lẫy nhất, trời xanh thì “càng rộng càng cao” tầm mắt cứ được mở rộng ra thêm mãi. Tiếng ve không chỉ “ngân” mà còn “dậy” lên, hai tính từ miêu tả âm thanh kết hợp với nhau khiến cho tiếng ve rộn rã khác thường. Chừng như để hoà điệu với những âm thanh và hình ảnh đó, cách diều sáo cũng không chịu “lững lờ” hay “vi vu” mà “lộn nhào từng không” Cánh diều như cũng nô nức, vui lây trong không gian lộng lẫy màu sắc và rộn rã âm thanh đó.
3. Mộng tưởng càng tươi đẹp bao nhiêu thì hiện thực lại càng cay đắng, nghiệt ngã bấy nhiêu.
Tưởng như sự liên kết giữa hai đoạn thơ này không thật chặt chẽ và tứ thơ không liên tục. Khi hướng ra bên ngoài, nhà thơ tả cảnh nhưng khi hướng vào trong lại tả tâm trạng. Kì thực đây chính là sự liên kết vô cùng khéo léo và tinh tế. Mối dây liên kết ấy chính là tiếng chim tu hú. Tiếng chim gọi bầy tha thiết gợi mở một thế giới bao la và vô cùng sinh động. Nhưng thế giới đó càng rộng rãi, rực rỡ bao nhiêu thì lại càng khiến cho người tù (đã bị tách biệt khỏi thế giới ấy) cảm thấy ngột ngạt và khao khát bấy nhiêu.
Tiếng chim tu hú ở đầu và cuối của bài thơ tuy đều biểu trưng cho tiếng gọi tha thiết của tự do, của cuộc sống ngoài kia đầy quyến rũ đối với người tù nhưng tâm trạng của người tù khi nghe tiếng tu hú lại rất khác nhau. Ở câu thơ đầu, tiếng tu hú gợi hình ảnh cuộc sống đầy hương sắc, từ đó gợi ra cái khát khao về cuộc sống tự do. Thế nhưng, đến câu kết, tiếng chim ấy lại khiến cho người tù có cảm giác bực bội, đau khổ vì chưa thể thoát ra khỏi cảnh tù đầy.
4. Bài thơ hay ở những hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mà giàu sức gợi cảm, ở nghệ thuật sử dụng thể thơ lục bát uyển chuyển, tự nhiên và cả ở những cảm xúc thiết tha, sâu lắng, thể hiện được nguồn sống sục sôi của người cộng sản.
Các bài thơ viết về nhà tù của Tố Hữu luôn luôn có sự đối lập sâu sắc giữa hai thế giới: một thế giới của tự do rộn rã tiếng chim ca, suối chảy, rộn rã tiếng kèn xung trận đối lập với thế giới chật hẹp, ngột ngạt của nhà tù. Sự đối lập đó càng lớn thì khát vọng tự do càng được biểu hiện mãnh liệt.
Bài thơ có hai đoạn thơ thể hiện hai hoàn cảnh, tâm trạng đối lập, do đó khi đọc cần chú ý giọng điệu rộn rã, tươi vui ở 6 câu thơ đầu và giọng điệu căm uất, nghẹn ngào ở 4 câu thơ còn lại.
Cập nhật thông tin chi tiết về Giáo Án Ngữ Văn 8: Khi Con Tu Hú trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!