Bạn đang xem bài viết Giáo Án Ngữ Văn 12 Chi Tiết: Hai Đứa Trẻ được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Thạch Lam A. Mục tiêu bài học: – Thấy được tình cảnh xót thương của Thạch Lam đối với những người phải sống nghèo đói, quẩn quanh, không tương lai, không ánh sáng ở phố huyện; và sự cảm thông, trân trọng của nhà văn trước mong ước có một cuộc sống tốt đẹp hơn của những con người tội nghiệp này. – Thấy được một vài nét độc đáo trong bút pháp nghệ thuật của Thạch Lam qua truyện ngắn trữ tình Hai đứa trẻ. B. Nội dung bài học: I. Tiểu dẫn: 1. Tác giả: – Thạch Lam ( 1910 – 1942 ) tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân. Bút danh khác là Việt Sinh. – Ông sinh và mất tại Hà Nội, quê nội ở Quảng Nam nhưng tuổi thơ và tuổi trẻ ông sống với gia đình ở quê ngoại: phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Chính cái phố huyện nghèo khổ và tăm tối này đã trở thành không gian nghệ thuật, trở đi trở lại trong nhièu sáng tác của ông. – Ông là người thông minh, tính tình điềm đạm, trầm tĩnh và rất tinh tế. Ông là em ruột của Nhất Linh ( Nguyễn Tường Tam ) và Hoàng Đạo ( Nguyễn Tường Long ). Cả ba anh em đều là những thành viên trụ cột của Tự lực văn đoàn. – Sau khi đỗ tú tài phần thứ nhất, ông làm báo và viết văn cùng các anh và trở thành một trong những cây bút chủ chốt của hai tờ báo Phong hoá, Ngày nay – cơ quan ngôn luận của Tự lực văn đoàn. – Ông mất vì bệnh lao ngày 28 – 6 – 1942. 2. Sự nghiệp sáng tác: – Thạch Lam là một trong số ít nhà văn đương thời khá tự giác về quan điểm nghệ thuật và điều đáng quý hơn là Thạch Lam có quan điểm nghệ thuật tiến bộ lành mạnh; trong đó, ông đặc biệt khẳng định chức năng cao quý của văn chương đối với cuộc sống: Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn. – Thạch Lam thực sự sáng tác chỉ trong khoảng 6 năm và mất khi mới 32 tuổi nhưng ông đã có những đóng góp tích cực đối với nền văn xuôi Việt Nam trên đường hiện đại hoá. – Thạch Lam không thành công trong tiểu thuyết song là nhà truyện ngắn xuất sắc, tài hoa: + Ông là một trong số ít người mở đường cho lối viết truyện không có cốt truyện ( hay còn gọi là phi cốt truyện ) hoặc không có cốt truyện ( Các sự kiện chủ yếu mang chức năng bộc lộ trạng thái tâm tưởng của nhân vật. Chất liệu tạo truyện thường là một sự kiện nội tâm, nhân vật thường được xây dựng chủ yếu bằng những chi tiết nội tâm; còn trần thuật thì có chức năng gợi cảm với thành phần cơ bản là lời văn mô tả hay lời tự thuật ), đặc biệt: • Có những truyện nghiêng về cuộc sống vất vả, cơ cực, bế tắc của nông dân, tiểu tư sản, thị dân nghèo: Nhà mẹ Lê, Đói, Người bạn trẻ, Người học trò, tối ba mươi, • Nhiều truyện khác lại tập trung khai thác những khía cạnh bình thường mà nên thơ trong cuộc sống: Gió lạnh đầu mùa, Tiếng chim kêu, Đứa em đầu lòng, + Truyện Thạch Lam giàu sắc thái trữ tình và mang đậm chất thơ. – Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đượm buồn. Nhà thơ đi sâu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh, tinh tế. Hai yếu tố hiện thực và thi vị, trữ tình luôn đan cài, xen kẽ vào nhau, tạo nên nét đặc thù, đặc sắc khó lẫn trong phong cách nghệ thuật của ông. – Văn Thạch Lam trong sáng, giản dị mà thâm trầm, sâu sắc. – Những tác phẩm chính: + Truyện Ngắn: Gió đầu mùa ( 1937 ), Nắng trong vườn ( 1938 ), Sợi tóc ( 1942 ). + Truyện dài: Ngày mới ( 1939 ). + Tiểu luận: Theo dòng (1941). + Bút kí: Hà Nội băm sáu phố phường ( 1943 ). + Phóng sự: Hà Nội ban đêm ( Phong hoá, 1936 ), Một tháng ở nhà thương ( Phong hóa, 1937). 3. Truyện ngắn Hai đứa trẻ: a. Giới thiệu tác phẩm: – Đây là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của Thạch Lam. Tác phẩm rút từ tập Nắng trong vườn ( 1938 ). – Hai đứa trẻ là một truyện không có chuyện, một kiểu truyện ngắn trữ tình có nhiều chi tiết cứ ngỡ như vụn vặt, vô nghĩa, nhưng kì thực đã được chọn lọc và sắp xếp một cách chắt chẽ để diễn tả tâm trạng của nhân vật. Qua đó, tác giả gửi gắm một cách kín đáo, nhẹ nhàng, nhưng không kém phần thấm thía tư tưởng nhân đạo đáng quý. Đây cũng là một tác giả có sự đan xen giữa những yếu tố lãng mạn trữ tình và những yếu tố hiện thực. b. Chủ đề tác phẩm: Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ Thạch Lam đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía xót thương đối với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh, bế tắc ở phố huyện nghèo trước Cách mạng. Đồng thời ông cũng thể hiện sự trân trọng đối với ước mong khiêm nhường mà tha thiết của họ mặc dù vẫn còn mơ hồ. c. Nội dung tác phẩm: Nội dung bao trùm của truyện Hai đứa trẻ là tấm lòng êm mát và sâu kín của Thạch Lam đối với con người và quê hương. Ở đây, nhà văn vừa thể hiện niềm xót thương đối với những kiếp người nghèo khổ sống lam lũ quẩn quanh trong xã hội cũ, vừa bộc lộ thái độ đồng cảm, trân trọng đối với khát vọng tuy rất mơ hồ của họ. Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, người đọc còn cảm nhận được phần nào tình cảm gắn bó với quê hương đất nước của Thạch Lam. d. Cỏch dẫn dắt truyện: Truyện phỏt triển trong khụng gian tĩnh ( phố huyện ) nhưng trong một thời gian động ( hoàng hụn ề đờm ề đờm khuya ). Vỡ thế, cảnh mỗi lỳc một tối hơn, cuộc sống của những con người ở đõy mỗi lỳc một hắt hiu, tàn lụi hơn. Sự tương phản giữa tối và sỏng, tĩnh và động, giữa nếp sinh hoạt đơn điệu, nhàm chỏn kộo dài với khoảnh khắc huyờn nỏo, tưng bừng khi đoàn tàu chạy qua, II. Đọc hiểu văn bản: 1. Khung cảnh thiên nhiên và bức tranh phố huyện lúc chiều tàn: a. Khung cảnh thiên nhiên lúc chiều tàn: – Thời gian: Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. à Đây là khoảnh khắc của ngày tàn khi hoàng hôn buông xuống. Nhịp điệu câu văn nhẹ nhàng, êm dịu, chậm rãi và tương ứng với nhịp điệu tâm trạng của con người. Đây là một trong nhiều bằng chứng ở tác phẩm này cho thấy: Văn của Thạch Lam thường hiếm khi thừa lời, thừa chữ, không uốn éo làm duyên một cách cầu kì kiểu cách nhưng lại giàu hình ảnh và nhạc điệu lại vừa uyển chuyển tinh tế ( Vũ Ngọc Phan ). Nó không những cho người đọc nhìn thấy cảnh vật mà điều quan trọng hơn là khơi gợi ở họ tình cảm, xúc cảm đối với cảnh vật. Hơn nữa, cảnh vật lại phần nhiều đều rất gần gũi, bình dị và mang cốt cách Việt Nam. – Âm thanh: Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. à Âm thanh này gợi lên cảm giác buồn về một không gian tĩnh mịch và vắng vẻ. – Không gian: Qua khe lá của cành bàng ngàn sao vẫn lấp lánh, một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vầng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ thỉnh thoảng từng loại một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu,… * Tóm lại, bằng sự gắn bó với đất nước và dân tộc, bằng tâm hồn nhạy cảm tinh tế, Thạch Lam đã đưa đến cho người đọc những bức tranh quê hương gần gũi mà không kém phần thơ mộng, đầy gợi cảm. Đồng thời, Thạch Lam đã ít nhiều gợi được ở người đọc những tình cảm đối với quê hương xứ sở. Có lẽ đây cũng là điều góp phần tạo nên sự đặc sắc của thiên truyện này. b. Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn: Cảnh chợ tàn ở phố huyện: một bãi chợ trống trải, vắng vẻ, đã vãn từ lâu: Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Tất cả đã gợi lên cảm giác trống vắng, tiêu điều, xơ xác. Điều này gợi lên cảnh tượng của một cuộc sống đói rách, nghèo khổ, bế tắc, cơ cực và lầm than và hơn tất cả, nó gợi cho chúng ta cảm giác buồn thấm thía, đó là cái buồn của một buổi chiều quê. à Tóm lại, bằng những câu văn có nhịp điệu nhẹ nhàng, chậm rãi, Thạch Lam đã khắc họa lại một không gian với ngày tàn, chợ tàn để rồi hòa nhịp với cảnh đó là những dáng người, những kiếp người tàn. 2. Những kiếp người tàn: Bên cạnh cảnh ngày tàn, chợ tàn là những kiếp người tàn: – Chị Tí ban ngày mò cua, bắt tép, tối đến dọn hàng nước chè tươi, thắp một ngọn đèn dầu leo lét. Hàng vắng khách, tuy chiều nào chị cũng dọn từ chập tối cho đến đêm, nhưng chả kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào cũng dọn hàng. – Bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau trắng để trước mặt. Họ khụng núi mà góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu, bần bật trong yên lặng ; Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường. – Bà cụ Thi hơi điên lại nghiện rượu, có tiếng cười khanh khách, ghê sợ, sau khi uống một hơi cạn cút rượu ti, cụ đi lần vào trong bóng tối. – Thấp thoỏng xa xa là mấy đứa trẻ con nhà nghốo ở ven chợ, cỳi lom khom trờn mặt đất đi lại tỡm tũi. Chỳng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cỏi gỡ cú thể dựng được của cỏc người bỏn hàng để lại. – Chị em Liên phải thức để trông một cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc. Hàng bán chẳng ăn thua gì, Liên thương mấy đứa trẻ nghèo nhưng không có tiền để cho chúng nó. Cảnh Liên xếp hàng vào hòm, cách hai chị em tính tiền, niềm nuối tiếc cái thời còn ở Hà Nội nhiều khi được đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ cái ý nghĩ phở bác Siêu là một thứ quà xa xỉ không bao giờ chị em Liên có thể mua được,… khiến chúng ta có thể hình dung ra gia cảnh khó khăn và mức sống eo hẹp của gia đình Liên. Thế mà, có lẽ dẫu sao, gia đình hai đứa trẻ cũng còn có phần khấm khá hơn gia đình chị Tí và bác Xẩm, vì còn có một gian hàng bé thuê của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình,… à Như vậy, từ gia đình chị Tí, gia đình bác Xẩm đến bà cụ Thi và chị em Liên, mỗi người một hoàn cảnh, nhưng họ đều có chung sự buồn chán, mỏi mòn,… Điều đáng nói hơn là tất cả những nhân vật bé nhỏ này đã hiện ra trong cái nhìn xót thương của Thạch Lam, được thể hiện qua những chi tiết và lời văn dường như rất khách quan. – Hình ảnh ngọn đèn con ở hàng nước của Tí: + Chị em Liên lại chúi nhìn về mặt đất, về quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí. + Khi trời tối hẳn, cả phố huyện dường như chỉ thu vào ngọn đèn của chị Tí: Giờ chỉ còn ngọn đèn của chị Tí và cái bếp lửa của bác Siêu, chiếu sáng một vùng đất cát, trong cửa hàng, ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ; thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa.. Ngoài ngọn đèn này ra, thứ bóng tối nhẫn nại uất ức đời thôn quê ( Thế Lữ ) làm chủ tất cả. Không phải ngẫu nhiên trong tác phẩm, nhà văn nhắc đi nhắc lại chi tiết ngọn đèn chị Tí tới bảy lần. + Kết thúc truyện, hình ảnh gây ấn tượng, day dứt cuối cùng, đi vào giấc ngủ của Liên cũng vẫn là chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ. Phải chăng, hình ảnh này chính là biểu tượng của những kiếp nghèo khổ, lam lũ, sống vật vờ, leo lét trong màn đêm của xã hội cũ. à … ậm buồn của ông. Phải chăng hai chị em chờ tàu để bán được hàng ? Không, Liên không trông mong còn ai đến mua nữa. Với lại, đêm họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng. Hơn nữa, Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt,… nhưng cô vẫn chưa chịu ngủ. Còn An đã nằm xuống,… mi mắt đã sắp sửa rơi xuống vẫn không quên dặn chị nhớ đánh thức mình dậy, khi tàu đi qua. Hai chị em cố thức chỉ vì muốn được nhìn chuyến tàu, đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya; vì với hai đứa trẻ, con tàu chỉ là con tàu. Nó là cả một thế giới khác – Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. 3. Tâm trạng của hai đứa trẻ: Tâm trạng của hai đứa trẻ được khắc họa rõ nét qua chuyến tàu đêm. Vì vậy, chuyến tàu đêm được Thạch Lam tập trung bút lực miêu tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng theo trình tự thời gian, qua tâm trạng chờ mong của hai nhân vật Liên và An. – Dấu hiệu đầu tiên của đoàn tàu là sự xuất hiện của người gác ghi. Tiếp theo là Liên trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, rồi cô nghe thấy tiếng còi xe lửa kéo dài ra theo gió. Sau đó, hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập xe rít mạnh vào ghi, kèm theo một làn khói bong sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào. Thế rồi, tàu rầm rộ đi tới, các toa đèn sáng trưng, những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh. Cuối cùng là cảnh tàu đi vào đêm tối để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt, chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng , xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre,… – í nghĩa hình ảnh đoàn tàu: Con tàu như mang đến một thế giới khác + Đối với phố huyện: • Ánh sáng: hình ảnh con tàu như một con thoi ánh sáng xuyên thủng màn đêm của phố huyện. Đây là một ánh sáng xa lạ với chốn thị thành: nó đủ sức xóa đi dù chỉ trong giây lát ánh sáng mờ ảo của phố huyện. • Âm thanh: mãnh liệt bởi tiếng bởi tiếng xe dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng hành khách ồn ào khe khẽ. Âm thanh dường sư đủ sức át đi cái bản hòa tấu đều đều, tẻ nhạt, đơn điệu của phố huyện. Vì vậy tác động mạnh mẽ đến người dân phố huyện. à Phố huyện rầm rộ lên trong chốc lát rồi lại chìm sâu vào bóng đêm yên tĩnh. Và đáng nói hơn: những người dân phố huyện chỉ chính thức chấm dứt hoạt động khi chuyến tàu đêm đã đi qua. Phố huyện lại trở về phố huyện: hình ảnh ngọn đèn leo lét của chị Tí lại chập chờn trong tâm trạng thức ngủ của Liên trước khi cô ngập hẳn vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như ở đêm trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối. Vì vậy, mong đoàn tàu trở lại như một nhu cầu của người dân phố huyện. + Đối với chị em Liên: • Nhìn thấy những gì khác với cuộc sống đời thường mà chị em Liên đang sống và nó đã trở thành sự say mê, niềm khao khát của hai chị em Liên. • Hình ảnh đoàn tàu đối lập với cuộc sống mòn mỏi, nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh của người dân phố huyện. Riêng đối với chị em Liên, hình ảnh đoàn tàu đánh thức những kỉ niệm của ngày xưa sung sướng, tại đất Hà Nội khi thầy chưa mất việc. Điều này thể hiện ước mong, khát khao của chị em Liên trước cuộc sống tẻ nhạt, bằng phẳng nơi phố huyện. Phải chăng từ hình ảnh chuyến tàu chợt đến chợt đi, Liên như ý thức rõ hơn, sâu sắc hơn cuộc sống tối tăm nghèo nàn của cuộc đời mình và những người xung quanh. – Ánh sỏng, niềm vui, sự giàu sang, những hoạt động nỏo nhiệt, tất cả chỉ vụt qua như một tia chớp: + Tia chớp ấy lặp lại từng ngày, đỳng vào giờ ấy, cũng với chuyến tàu tương tự như thế, đủ để đem lại cho những con người tội nghiệp ấy một chỳt dư vị, dư õm khỏc lạ. Dư vị, dư õm đú đó đưa người đọc vào một tõm trạng buồn vui lẫn lộn. + Sau khi con tàu đi qua, dự phố huyện đó chỡm vào yờn lặng, dự chị em Liờn cũng đó ngập vào giấc ngủ yờn tĩnh, mà dường như ta vẫn nghe tiếng cũi xe lửa ở đõu vẳng lại, trong đờm khuya kộo dài ra theo ngọn giú xa xụi. Âm thanh mơ hồ đú như cũn õm vang trong lũng mọi người – õm vang của đợi chờ và hi vọng. Đối tượng của hi vọng ấy chẳng lớn lao, ghờ gớm gỡ, thậm chớ nú chập chờn và rất phự du, nhưng ớt nhất nếu khụng cú nú, cuộc sống của những con người nhỏ bộ kia sẽ càng thờm vụ nghĩa. – Tình cảm của nhà văn: + Qua việc miêu tả tâm trạng của Liên, Thạch Lam thể hiện niềm trân trọng, thương xót đối với những kiếp người nhỏ bé, sống trong nghèo nàn tối tăm, buồn chán nơi phố huyện ( nói rộng ra sống ở đất nước còn chìm đắm trong đói nghèo, nô lệ đương thời ). Điều này, đương thời Thế Lữ cũng đã nhận xét: Sự thật tâm hồn Thạch Lam diễn ra trong lời văn chương phức tạp, nhiều hình nhiều vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm thắm nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương. Nếu Thạch Lam theo một chủ kiến nào trong công việc viết văn của anh, thì chủ ý đấy diễn ra và gợi lên sự xót thương. + Qua tâm trạng của Liên, phải chăng Thạch Lam dường như còn muốn lay tỉnh những con người đang buồn chán, đang sống quẩn quanh, lam lũ cố vươn tới ánh sáng ? Điều này chỉ có được ở những cây bút xuất hiện từ những năm 30 của thế kỷ trước, khi họ ý thức đầy đủ về cái tôi cá nhân, cá thể. Ở đây dường như Thạch Lam đã bắt gặp Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Tuân,… ( ở dòng Văn học Lãng mạn ), Nam Cao, Bùi Hiển, Tô Hoài,… ( ở dòng văn học hiện thực ) trong việc không chấp nhận sống trong cái ao đời bằng phẳng, mòn mỏi và tù túng, khao khát hướng tới một cuộc sống có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống của con người. Như vậy, thể hiện một cách nhẹ nhàng, khát vọng hướng tới cuộc sống sáng tươi của những con người nhỏ bé, bình thường, Hai đứa trẻ có một giá trị nhân bản đáng quý. – Ngoài ra, tác phẩm phần nào còn là một bài ca quê hương, đất nước: + Bằng sự gắn bó với đất nước và dân tộc, bằng tâm hồn nhạy cảm tinh tế. Thạch Lam đã đưa đến cho người đọc những bức tranh quê hương gần gũi mà không kém phần thơ mộng, đầy gợi cảm: Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào ; trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát ;… + Các nhân vật trong truyện luôn gắn bó với thôn dã. Bởi thế, chỉ mới gặp mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc, chị em Liên đã tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này. + Vốn sống hoà hợp, gần gũi với thiên nhiên nên hai đứa trẻ luôn chú ý phát hiện tinh tế những biến thái của nó: An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn những vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Tâm hồn chúng dường như có sự giao cảm, giao hoà với cây cỏ quê hương: Qua khe lá của cành bàng ngàn sao vẫn lấp lánh, một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vầng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ thỉnh thoảng từng loại một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu,… à Qua cảm hứng thiên nhiên, Thạch Lam đã ít nhiều gợi được ở người đọc những tình cảm đối với quê hương xứ sở. Có lẽ đây cũng là điều góp phần tạo nên sự đặc sắc của thiên truyện này. 4. Hỡnh ảnh của búng tối: – Cảnh và người cứ chỡm dần trong búng tối. Những khoảng tối với ma lực gợi cảm của nú, thường trở đi trở lại trong văn Thạch Lam ( Cụ hàng xộn, Người đầm, ), nhưng trong truyện ngắn này nú đặc biệt gõy ấn tượng: + Búng tối tràn lan: Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sụng, con đường qua chợ về nhà, cỏc ngừ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa. + Búng tối đậm đặc: Trống cầm canh ở huyện đỏnh tung lờn một tiếng ngắn, khụ khan, khụng vang động ra xa, rồi chỡm ngay vào búng tối. – Trong thế giới đầy búng tối ấy, ỏnh sỏng rất hiếm hoi và đơn độc: + Ánh đốn của bỏc phở Siờu chỉ là một chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đờm tối. + Ánh đốn trong cửa hàng của Liờn, An thỡ thưa thớt từng hạt ỏnh sỏng lọt qua phờn nứa. + Cỏnh cửa nhà ai hộ mở thỡ cũng chỉ để lọt ra một khe ỏnh sỏng. Chấm, hột, khe. ề Thạch Lam đó miờu tả ỏnh sỏng quỏ ư riết núng. Nú đối lập với búng tối tràn lan, đậm đặc như đó núi ở trờn. Tỡnh thương của tỏc giả đó chụm lại nơi những điểm sỏng hiu hắt này, khiến ụng thụng cảm và lắng nghe được khỏt vọng nhỏ bộ của những kiếp người nhỏ bộ. 5. Giỏ trị nhõn đạo của tỏc phẩm: Tất cả cảnh vật và con người trờn đõy được dựng làm nền cho tỡnh huống và tõm trạng đợi tàu của chị em Liờn. Nỗi buồn chỏn của chị em Liờn về cuộc sống nơi phố huyện là cơ sở cho khỏt vọng được thoỏt ra khỏi cuộc sống tối tăm, mỏi mũn, bế tắc ấy, dẫn đến một hi vọng ( dự chỉ là mơ hồ ) về một điều gỡ đú ngoài thế giới buồn chỏn này. – Miờu tả những số phận ấy, tỏc giả bộc lộ một sự cảm thụng sõu sắc đối với những kiếp người nhỏ bộ, vụ danh trong xó hội ( đõy là một điều hiếm thấy ở cỏc nhà văn lóng mạn cựng thời ), những kiếp người sống mờ mờ nhõn ảnh, xa lạ với ỏnh sỏng và niềm vui, chỉ dỏm cú những ước mơ nhỏ bộ để khuấy động đụi chỳt cuộc sống quẩn quanh, nhàm chỏn, đơn điệu của mỡnh. ễng đồng cảm và xút thương cho những kiếp người khụng bao giờ được biết tới ỏnh sỏng của hạnh phỳc, những số phận mỏi mũn trong buồn chỏn, vụ nghĩa, đến ngay cả mơ ước một đời của họ cũng nhỏ bộ, tội nghiệp. Nhưng đồng thời, ụng cũng thể hiện sự trõn trọng vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn của họ. – Tỏc phẩm cũn là lời gửi gắm của tỏc giả nhằm thức tỉnh con người, hướng họ tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, giàu ý nghĩa hơn. 5. Nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm: – Đây là một truyện ngắn miêu tả rất tinh tế sự biến thái của cảnh vật và diễn biến tâm trạng của nhân vật. Cách miêu tả này góp phần quan trọng tạo nên không khí cho tác phẩm. Chẳng hạn trong đoạn mở đầu câu truyện, cảnh vật làng quê hiện ra ở đây thật êm ả, thanh bình; nhưng cái chính là nó gợi lên nỗi buồn; nỗi buồn như thấm trong cảnh vật lẫn trong hồn người. – Truyện này có giọng văn nhẹ nhàng, điềm tĩnh, khách quan, lời văn dung dị, giàu chất thơ, luôn ẩn hiện trong đó một tình cảm xót thương của Thạch Lam đối với những con người nghèo khổ, phải sống quẩn quanh, lam lũ, tối tăm. Giọng văn ấy có sức gợi mở, khơi sâu vào cảm giác người đọc vừa cho chúng ta nhìn vừa cho chúng ta cảm. Chẳng hạn những đoạn văn nói về hàng nước của chị Tí và gia đình bác Xẩm. III. Ghi nhớ: – Nội dung: Bằng một truyện ngắn trữ tình, Thạch Lam đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía niềm xót thương đối với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh ở phố huyện nghèo trước Cách mạng. Đồng thời, ông cũng thể hiện sự trân trọng ước mong vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. – Nghệ thuât: + Cách viết nhuần nhị, tinh tế, gọn gàng và gợi được khá sâu không khí của truyện cũng như trạng thái của sinh hoạt, xúc cảm và tâm hồn. Truyện ít sự kiện, hành động nhưng đầy ắp suy tư, rung cảm. + Câu văn mềm mại, trong sáng, giàu hình ảnh, rất thi vị nhưng ít khi thừa lời, thừa chữ và không bao giờ uốn éo làm duyên một cách cầu kì, mòn sáo. ———-Hết———-
Giáo Án Bài Hai Đứa Trẻ Thạch Lam
CH: Nêu những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Namtừ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945?
Bài mới.
Lời vào bài: Trong những nhà văn trụ cột của Tự lực văn đoàn, Thạch Lam có một hướng đi riêng. Ông hướng ngòi bút lãng mạn, giàu cảm xúc nhẹ nhàng và tinh tế đến những kiếp người nghèo khổ. Truyện ngắn của ông như những bài thơ xinh xắn, duyên dáng, đậm chất nhân văn. Hai đứa trẻ là một truyện ngắn tiêu biểu với vẻ đẹp ấy.
Bài mới
GV: nhấn mạnh những nội dung trọng tâm.
– Học bài cũ và soạn tiếp tiết 2.
Bài giảng: Hai đứa trẻ (Tiết 2)
Giúp học sinh + Tiếp tục cảm nhận được bức tranh cuộc sống nơi phố huyện lúc đêm tối và khi đêm đã về khuya. + Hiểu được tấm lòng đồng cảm, thấu hiểu sâu sắc của tác giả dành cho những con người nơi đây.
Phương pháp và phương tiện dạy học.
Phương pháp
+ SGK, SGV và các giáo cụ kèm theo III. Bài mới
Bản quyền bài viết này thuộc về https://thptxuyenmoc.edu.vn. Mọi hành động sử dụng nội dung web xin vui lòng ghi rõ nguồn
Tiết trước chúng ta đã được nhìn ngắm bức tranh phố huyện lúc chiều tà mỗi chúng ta đã không khỏi nao lòng trước những nghèo nàn, tăm tối. Hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu tiếp để có được một bức tranh trọn vẹn. b, Bài mới.
GV: nhấn mạnh những kiến thức trọng tâm
GV: yêu cầu học sinh về nhà học bài cũ và chuẩn bị bài mới Rút kinh nghiêm giờ dạy
Bài giảng truyện ngắn: Hai đứa trẻ ( Tiết 3)
Giúp học sinh: + Cảm nhận được diễn biến tâm trạng của chị em Liên trước bức tranh cuộc sống nơi phố huyện. + Hiểu được điều mà Thạch Lam gửi gắm qua dòng tâm trạng ấy. + Cảm nhận được những nét đặc sắc trong truyện ngắn Thạch Lam.
Phương pháp và phương tiện dạy học.
Phương pháp
+ SGK, SGV và các giáo cụ kèm theo III. Bài mới. a, Lời vào bài Tiết trước chúng ta đã cảm nhận được những nét vẽ đượm buồn trong bức tranh cuộc sống phố huyện. trước bức tranh cuộc sống ấy nhân vật chính- chị en Liên có những tâm trạng như thế nào ? Tiết học này ta cùng tìm hiểu.
củng cố GV: nhấn mạnh những kiến thức trọng tâm
Giáo Án Chi Tiết Ngữ Văn 12: Vợ Nhặt (Kim Lân)
(KIM LÂN) Biên soạn và hướng dẫn : Thầy Hoàng Phong Tuấn A – MỤC TIÊU CẦN ĐẠT: 1. Hiểu được tình cảnh thê lương của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra. 2. Cảm nhận được niềm khao khát mãnh liệt về hạnh phúc gia đình và niềm tin bất diệt ở sự sống, tương lai của người lao động. 3. Nắm được những điểm đặc sắc về nghệ thuật của thiên truyện (tình huống truyện, miêu tả tâm lí, dựng đối thoại,). B – TIẾN TRÌNH BÀI HỌC: Lời dẫn dắt: Điều kiện sống vật chất chi phối con người rất nhiều, đặc biệt là trong những hoàn cảnh mà sự thiếu thốn và cái đói làm cho con người khốn khổ, tuyệt vọng. Nhưng đó lại là lúc mà con người cần hơn bao giờ hết sự sẻ chia, lòng nhân ái, một niềm tin và hi vọng để tiếp tục sống. Kim Lân sẽ kể cho chúng ta nghe một câu chuyện cảm động về hoàn cảnh con người phải đối diện với cái đói và cái chết, nhưng tâm hồn họ luôn hướng về nhau và hướng về tương lai. I. Tìm Hiểu Chung 1. Nhà văn Kim Lân (1920 – 2007) – Tên khai sinh: Nguyễn Văn Tài. Quê: Làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, Huyện Tiên Sơn, Tỉnh Bắc Ninh. Ông được tặng Giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001. – Tác phẩm: Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962). – Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc. Thế giới nghệ thuật của ông thường tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Đặc biệt, ông có những tranh viết đặc sắc về phong tục và đời sống thôn quê. Kim Lân là nhà văn một lòng một dạ đi về với “đất” với “người”, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn. 2. Tác phẩm: Bối cảnh xã hội của tác phẩm:Trong những tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nam Cao đều có tình cảnh người nông dân khốn khổ vì đói kém: Tắt đèn, Một bữa no, Lão Hạc,… Thể loại tác phẩm:Truyện ngắn có tình huống, nhân vật, mở đầu, kết thúc, không thời gian, người kể truyện. II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN: Đọc diễn cảm và tóm tắt tác phẩm: Đọc diễn cảm một số đoạn tiêu biểu: đoạn Tràng dẫn vợ về giới thiệu với bà cụ Tứ, đoạn bữa cơm ngày đói. Tóm tắt diễn biến cốt truyện và những chi tiết chính: Tràng “nhặt” được vợ trong ngày đói. Người dân làng ai cũng ngạc nhiên. Bà cụ Tứ ngạc nhiên và lo lắng. Sáng hôm sau, bữa cơm ngày đói đạm bạc, nhưng mọi người cố vui. Trong óc Tràng hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ. Nhan đề Vợ nhặt: Nhan đề Vợ nhặt thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm. “nhặt” thường đi với những thứ “không ra gì”. Thông thường, người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng “nhặt” được vợ. Sự việc này nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của những người nông dân nghèo trước Cách mạng. Tuy nhiên, đối với nhân vật Tràng, người vợ “nhặt” lại là người đem đến hạnh phúc. Cho vợ chồng Tràng, từ khi có vợ “nhặt”, mọi người trở nên gắn bó, quây quần, chăm lo, thu vén cho tổ ấm của mình. Như vậy, nhan đề Vợ Nhặt vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói 1945 vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc lẫn nhau; khát vọng hướng tới cuộc sống gia đình, tổ ấm và niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng. 3.Tình huống truyện: – Sự ngạc nhiên của mọi người: Tràng là một nhân vật có ngoại hình xấu, lại là dân ngụ cư. Trong lúc không một ai (kể cả Tràng) nghĩ đến chuyện vợ con thì đột nhiên Tràng có vợ. Sự việc Tràng “nhặt” được vợ đồng nghĩa với gia đình tăng thêm một miệng ăn và đồng thời làm tăng them tai họa cho Tràng và gia đình anh ta, đẩy họ đến gần hơn với cái chết. + Giá trị hiện thực: Tố cáo tội ác của thực dân, phát xít qua bức tranh xám xịt về thảm cảnh nạn đói. Cái đói quay quắt dồn đuổi đến mức nhân vật “thị” chủ động gợi ý mời ăn. Chỉ qua mấy lời nữa đùa, nữa thật mà thị đã chấp nhận theo không Tràng. + Giá trị nhân đạo: tình thân ái, cưu mang đùm bọc lẫn nhau, khát vọng hướng tới sự sống và hạnh phúc đã được thể hiễn rõ nét qua hành động của Tràng. Điều mà Kim Lân muốn nói ở đây là: dù trong hoàn cảnh bi thảm nhất, giá trị nhân bản không mất đi, con người vẫn cứ khao khát được sống, được hạnh phúc. 4. Diễn biến tâm trạng của các nhân vật: a) Diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng – Tràng “nhặt” được vợ trong hoàn cảnh nạn đói đang hoành hành. “Chậc kệ!”, cái tặc lưỡi của chàng không phải là sự liều lĩnh mà thể hiện một sự cưu mang, một tấm lòng nhân hậu không thể chối từ. Quyết định có vẻ giản đơn nhưng thể hiện tình thương của con người đối với nhau trong cảnh khốn cùng. – Trên đường về xóm ngụ cư, Tràng không cúi xuống lầm lũi như mọi ngày mà “phởn phơ”. Trong một phút chốc, Tràng quên tất cả tăm tối, “chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên” và Tràng có cảm giác êm dịu của người lần đầu tiên lần đầu tiên đi cạnh người vợ mới. – Giới thiệu vợ mình với mẹ, Tràng tỏ ra tinh tế, tôn trọng và xác định gắn kết trăm năm, nên duyên chồng vợ. “Chúng tôi đã phải duyên phải kiếp với nhau, chẳng qua đó cũng là cái số cả”. – Buổi sáng đầu tiên có vợ. Tràng biến đổi hẳn: “Hắn thấy bây giờ hắn mới nên người!” Tràng cảm thấy phải có trách nhiệm gắn bó với tổ ấm của mình. b) Diễn biến tâm trạng của nhân vật người vợ nhặt. – “Thị” theo về làm vợ Tràng trước hết là để chạy trốn cái đói. Trên đường theo Tràng về nhà, cái vẻ “cong cớn” biến mất, chỉ còn người phụ nữ e thẹn, ngượng ngùng và cũng đầy nữ tính (đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, ngồi mớm ở mép giường,) Điều này thể hiện một tâm trạng lo âu, băn khoăn, hồi hộp khi bước chân về “làm dâu nhà người”. – Buổi sớm mai, vợ Tràng dậy sớm quét tước, dọn dẹp. Trong bữa cơm, chị cố nén niềm tủi thân, “điềm nhiên” và miếng cám nấu nghẹn bứ vào miệng. Đó chính là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén, vun đắp cho cuộc sống gia đình, hình ảnh của một người “vợ hiền dâu thảo”. – Người phụ nữ xuất hiện không tên, không tuổi, không quê quán như “rơi” vào giữa thiên truyện để Tràng “nhặt” làm vợ. Từ chỗ quẫn bách vì cái đói, thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức khi người phụ nữ này quyết định gắn số phận mình với Tràng. Chính “thị” cũng đã làm cho niềm hi vọng của mọi người trỗi dậy khi kể chuyện ở Bắc Giang, Thái Nguyên người ta đi phá kho thóc của Nhật. c) Diễn biến tạm trạng nhân vật bà cụ Tứ – Tâm trạng của bà cụ Tứ khi biết tin Tràng có vợ là những diễn biến phức tạp: lúc đầu ngạc nhiên, sau đó vừa mừng vui, vừa xót tủi, “vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Đối với vợ Tràng thì “lòng bà đầy xót thương”. Nén vào lòng tất cả, bà dang tay đón người đàn bà xa lạ làm con dâu mình: “Ừ, thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. – Trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới, bà cụ Tứ nhen nhóm cho các con niềm tin, niềm hi vọng khi bàn tính: “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà [] chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”. Bà chăm chút cho bữa cơm để đem lại không khí hạnh phúc cho gia đình. – Bà cự Tứ là hiện thân cho nỗi khổ của con người. Người mẹ ấy đã nhìn cuộc hôn nhân éo le của con thông qua toàn bộ nỗi đau khổ của cuộc đời bà. Bà lo lắng trước thực tế quá nghiệt ngã. Bà mừng một nỗi mừng sâu xa. Diễn biến tâm trạng bà từ ngạc nhiên đến xót thương sâu sắc. Điều đặc biệt là, chính bà cụ là người nói nhiều nhất về tương lai, một tương lai rất cụ thể, thiết thực với những gà, lợn, ruộng, vườn, một tương lai khiến các con tin tưởng bởi nó không qua xa vời. Kim Lân đã khám phá ra một nét độc đáo khi để cho một bà cụ nói nhiều với đôi trẻ về ngày mai. 5. Đoạn kết của tác phẩm: Chi tiết là cờ đỏ hiện lên trong kí ức Tràng gợi mở một niềm hi vọng thay đổi số phận của những con người nghèo đói. Đó cũng là tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của tác phẩm. III. TỔNG KẾT – Truyện ngắn Vợ Nhặt tả chân dung thực thảm cảnh của những người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đặc biệt, truyện ngắn thể hiện được tấm lòng nhân ái, sức sống kì diệu của con người ngay bên bờ vực thẳm của cái chết vẫn hướng về sự sống và khát khao tổ ấm gia đình. – Vợ Nhặt tạo được một tình huống truyện độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn, miêu tả độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn, miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, đối thoại sinh động. Đề 1 : Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân Yêu cầu chung : Về kĩ năng : Biết cách phân tích nhân vật, biết làm bài văn nghị luận văn học. Bố cục mạch lạc, hành văn trôi chảy. Về kiến thức : * Nội dung : Phân tích được diễn biến tâm trạng nhân vật và khái quát được đặc điểm tính cách nhân vật : – Bà cụ Tứ là một người mẹ nông dân nghèo nhân hậu, hết lòng thương con và thương nàng dâu đói khổ. – Bà còn là một người mẹ nông dân từng trải và có niềm tin bền bỉ vào tương lai. * Nghệ thuật : – Miêu tả ngoại hình tính cách, tâm lý nhân vật bằng những chi tiết chân thật, xúc động. – Ngôn ngữ nhân vật đậm đà tính chất khẩu ngữ vùng nông thôn Bắc bộ. Dàn bài gợi ý I. MỞ BÀI : – Giới thiệu chung về nhà văn Kim Lân và hoàn cảnh ra đời tác phẩm. – Nêu khái quát giá trị nhân đạo tác phẩm. – Giới thiệu chung về nhân vật bà cụ Tứ. II. THÂN BÀI : Người mẹ nghèo có tấm lòng nhân hậu : – Khi thấy con trai có vợ, bà lão hết sức ngạc nhiên : con trai mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, lại đang buổi đói khát, nuôi thân còn chưa xong mà lại lấy vợ chỉ có trong một ngày. – Khi vỡ lẽ : “lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà tủi cho phận con mình, lòng bà đầy lo âu : “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt . .. biết rằng chúng nó nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Cuối cùng bà cũng mừng cho hạnh phúc của các con : “Các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, “cốt sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. . . ” – Bà mở lòng đón nhận nàng dâu, thương con dâu, cảm thông cho nàng dâu đói khổ : “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình”, “bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi.” Bà cụ Tứ là hình ảnh người mẹ mang truyền thống đạo lý dân tộc : “thương ngưới như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách”. Người mẹ nghèo khổ ấy hết lòng thương con, thương những mảnh đời tội nghiệp. Lòng nhân hậu đã giúp bà vượt qua những định kiến thông thường của lễ giáo phong kiến để đùm bộc yêu thương nàng dâu đói khổ. Người mẹ có ý chí sống và niềm tin bền bỉ vào tương lai : – Bà cụ Tứ là người đầu tiên tạo nên sự thay đổi trong ngôi nhà lụp xụp, rách nát của ba mẹ con : “Bà lão xăm xắn thu dọn quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng, thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. – Bà thật sự cảm nhận được niềm hạnh phúc đến với gia đình bà : “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. – Nghèo, đói nhưng bà cũng cố gắng tạo ra một bữa ăn sáng để đón nàng dâu mới dù chỉ là “niêu cháo lõng bõng” và “nồi chè cám”. – Trong bữa ăn, bà chỉ nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này để động viên các con. Bà cố gắng vui vẻ, tạo không khí đầm ấm hoà thuận trong gia đình để nâng đỡ các con giữa cảnh tối tăm nghèo đói. – Người mẹ từng trải qua bao gian nan, vất vả ấy tin vào kinh nghiệm dân gian “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, gieo vào trong lòng các con niềm tin vào tương lai phía trước để vượt qua khó khăn thực tại. Ở người mẹ nghèo, thân hình “lọng khọng” gia nua gầy yếu ấy tồn tại một ý chí sống mãnh liệt. Nhân vật bà cụ Tứ góp phần thể hiện nội dung nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Nghệ thuật xây dựng nhân vật : – Nhân vật xuất hiện sau cùng nhưng gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc : từ hình ảnh “lọng khọng” nghèo khổ, đến “dòng nước mắt ròng ròng” và “khuôn mặt bủng beo u ám đã rạng rỡ hẳn lên”, từ giọng nói nhẹ nhàng ân cần với nàng dâu mới đến vẻ mặt “tươi cười đon đả”… Đặc biệt là tâm trạng nỗi niềm của người mẹ trong hoàn cảnh đói khổ. Tất cả là những chi tiết chân thực, giản dị mà đầy xúc động về người mẹ nông thôn dân dã chất phác mà giàu lòng nhân ái. III. KẾT LUẬN – Khẳng định lại sự thành công của Kim Lân khi xây dựng nhân vật. – Liên hệ, so sánh mở rộng. Đề 2 : Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Vợ nhặt” (Kim Lân) Yêu cầu chung Về kĩ năng : – Học sinh nắm vững kiểu bài phân tích tác phẩm tự sự (phương diện nội dung). – Luận điểm rõ ràng, bố cục chặt chẽ. Biết lựa chọn dẫn chứng và phân tích dẫn chứng. Diễn đạt trôi chảy. Dàn bài gợi ý I. MỞ BÀI : – Giới thiệu về nhà văn Kim Lân và đề tài sở trường của ông về người nông dân. – Vấn đề nạn đói năm 1945 đã từng được viết trong một số sáng tác của Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nam Cao và Kim Lân đã góp thêm một tiếng nói chân thực. – Giới thiệu khái quát nội dung nhân đạo trong “Vợ nhặt”. II. THÂN BÀI : 1. Tác phẩm lên án tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945, đồng thời thể hiện sự đồng cảm, xót xa cho những người dân nghèo đói khổ. – Bối cảnh câu chuyện : nạn đói. Tác giả miêu tả khung cảnh “tối sầm lại vì đói khát”với những chi tiết đầy ám ảnh : + Cảnh đoàn người “đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ”. + Không khí đầy mùi tử khí : “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” + Con người như đang sống dưới âm phủ, đối diện với tử thần : “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. – Con người bị lâm vào tình cảnh đáng thương : vì đói mà thị (vợ Tràng), trông không còn ra hồn người “quần áo tả tơi như tổ đỉa . . . trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn lại hai con mắt”. Vì đói mà quên cả sĩ diện để xin ăn và cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc”. Vì đói, thị theo không Tràng về làm vợ. – Bữa cơm ngày đói thảm hại : “giữa cái mẹt rách có một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo”. Niêu cháo “lõng bõng” toàn nước và món chính là “chè cám” đắng ngắt, nghẹn bứ trong cổ. 2. Nhà văn phát hiện và trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của người dân nghèo trong cảnh ngộ đói khổ : a. Lòng nhân ái : biết đùm bọc, cưu mang nhau. – Anh Tràng : cưu mang người đàn bà hoàn toàn xuất phát từ tình thương, không hề gợi lên rẻ rúng, thương hại – Bà cụ Tứ : thương con, thương nàng dâu với tấm lòng nhân hậu, bao dung (xem đề 1). b. Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và mái ấm gia đình : – Anh Tràng : đón nhận hạnh phúc mới mẻ, bất ngờ với tâm trạng mừng vui (gần 20 lần tác giả miêu tả nụ cười của Tràng), tâm trạng phấn chấn, vừa xấu hổ vừa hãnh diện “trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng có người đàn ông nghèo khốn khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hộ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng. Phút chốc Tràng “quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa”. Tràng lấy sự sống để đương đầu với cái chết, hạnh phúc thách thức với cái đói đang rình rập. + Buổi sáng đầu tiên khi thức dậy : Tràng vui mừng, cảm động, yêu thương gắn bó và thấy mình có trách nhiệm với gia đình : “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình . . . cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người . . .” – Bà cụ Tứ : vui mừng thu xếp cuộc sống mới, tạo không khí đầm ấm hoà hợp cho gia đình, động viên an ủi con cái, hy vọng vào tương lai (xem đề 1). – Vợ Tràng : bộc lộ khát vọng sống vô cùng cấp thiết. Khi về làm vợ Tràng, dẫu ban đầu có thất vọng về gia cảnh nhưng vẫn cố gắng làm vợ đảm, dâu hiền, vun vén cho gia đình đã cưu mang chị. c. Tin tưởng vào tương lai, dự cảm về cuộc đổi đời gắn liền với Cách mạng : – Tác phẩm mở đầu bằng buổi chiều ảm đạm chết chóc đang đi dần vào đêm tối mênh mông và kết thúc bằng một buổi sáng nắng loá, tươi tắn với những đổi thay tốt đẹp từ trong gia đình Tràng: gợi cảm hứng lạc quan. – Con người không mất hy vọng, dự cảm về tương lai tốt đẹp, một sự đổi đời thật sự khi nghĩ về “cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi phá kho thóc Nhật” và “lá cờ đỏ bay phất phới”. Họ nhất định sẽ giành sự sống thật sự cho mình khi có Cách mạng. III. KẾT LUẬN – Khẳng định tấm lòng nhân đạo của Kim Lân dành cho người nông dân. – Khẳng định giá trị nhân đạo bền vững của truyện ngắn Vợ nhặt.
Giáo Án Môn Ngữ Văn 12 Tiết 37, 38: Sóng
Tiêtý 37 – 38 Soạn ngày 20/10/2010 Lớp: 12. Môn: Ngữ văn. SÓNG Xuân Quỳnh I. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT: 1.Kiến thức: – Cảm thụ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua hình tượng sóng đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng hình tượng ẩn dụ , giọng thơ tha thiết . sôi nổi , nòng nàn , nhiều suy tư , trăn trở 2. Kĩ năng : Giúp HS: – Nắm được vẻ đẹp tâm hồn, khát vọng tình yêu của nữ sĩ. – Nét đặc sắc về mặt nghệ thuật kết cấu, hình tượng, ngôn từ 3. Tư tưởng : – Cảm thụ thơ trữ tình – Yêu mên sthơ ca VN hiện đại II. THIẾT BỊ DẠY HỌC 1.GV: Sách giáo khoa Ngữ văn 12 – tập 1. Sách giáo viên Ngữ văn 12 – tập 1. Bài tập Ngữ văn 12 – tập 1. SGK, SGV , STK , tư liệu về bài thơ và Xuân Quỳnh, soạn giáo án lên lớp 2. HS : SGK , SBT STK , đọc và soạn bài trước ở nhà. Tư liệu về sóng biển và nhạc phẩm Thuyền và Biển …… III. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP 1. Kiểm tra bài cũ( hình thức vấn đáp) :3p GV nêu câu hỏi và gọi HS trình bày 1 – Đọc 2 khổ thơ đầu bài Đò lèn của Nguyễn Duy. Cho biết cái tôi của tác giả thời tuổi nhỏ được tái hiện như thế nào ? 2. – Tình cảm sâu nặng của tác giả đối với bà mình được biểu hiện cụ thể như thế nào ? Cách thể hiện tình thương bà của tác giả có gì đặc biệt ? @ HS thực hiện và GV bổ sung – nhận xét đánh gía 2 .GV giảng bài mới ( thuyết giảng và giới thiệu bài):1p Vào bài: Một cuộc đời đa đoan, một trái tim đa cảm là một Xuân Quỳnh luôn coi tình yêu là cứu cánh nhưng cũng luôn day dứt về giới hạn của tình yêu.GV cho HS xem ảnh về sóng biển và cho nghe nhạc phẩm Thuyền và Biển. 3. Tổ chức dạy học :85p HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS NỘI DUNG BÀI HỌC Hoạt động 1: Hướng dân học sinh tìm hiểu chung về tác giả và văn bản. Mục tiêu Hiểu biết nét chính về tác gải XQ Tổ chức thực hiện – Thao tác 1: Hướng dẫn tìm hiểu về tác giả. + GV: Dựa vào Tiểu dẫn, hãy giới thiệu đôi nét về tác giả XQ ? + GV: Trình chiếu ảnh XQ – LQV, gia đình XQ. + GV hỏi : Trong những thông tin đó, thông tin nào đáng chú ý nhất giúp ta hiểu về nhà thơ cũng như sáng tác của XQ ? + HS xem và nêu cách hiểu @ Kết quả : – GV: Giới thiệu một số bài thơ khác của Xuân Quỳnh. o Trình chiếu minh họa một số bài thơ nổi tiếng của Xuân Quỳnh: Thuyền và biển. Hoa cỏ may, Sóng, Thư tình cuối mùa thu, + HS tự ghi nhận vào vở. – Thao tác 2: Hướng dẫn tìm hiểu về tác phẩm. + GV: Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ? Nhan đề phần nào thuyết minh cho người đọc biết đề tài: thiên nhiên sóng biển. Bài thơ của Xuân Quỳnh có phải chỉ nói về sóng biển ? + HS chia bố cục bài * Kết quả : – GV định hướng chung và nhận xét bố cục bài thơ – nêu ý chính các khổ. – HS ghi nhận GV hỏi : Hình tượng nào bao trùm và xuyên suốt bài thơ ? Theo em hình tượng đó có ý nghĩa gì ? * Kết quả : -GV chốt ý chính : – Là hình tượng ẩn dụ, sự hoá thân của nhân vật trữ tình “em” – Sóng và em: song hành, khi tách rời, khi hoà nhập – Nét độc đáo trong cấu trúc hình tượng, diễn tả sâu sắc, sinh động, mãnh liệt khát vọng của Xuân Quỳnh. – HS ghi nhận – HS thực hiện * Kết luận : GV định hướng chung về chr đề bài thơ HS ghi bài Hoạt động 2: Hướng dẫn HS tìm hiểu Sóng – đối tượng cảm nhận tình yêu Mục tiêu Đọc văn bản Hiểu về giá trị nội dung về hình tượng sóng và em tron bài thơ Phân tích được giá trị nghệ thuật thơ tình Hiểu tam trạng của người phụ nữ khi yêu- liên hệ tình yêu của tuổi trẻ và bối cảnh xã hội Tổ chức thực hiện @ GV hướng dẫn HS đọc bài thơ: + GV đọc mẫu và nêu cách đọc từng khổ + HS luân phiên đọc bài thơ – GV nhận xét chung về cách đọc và hướng dẫn HS đọc đúng tâm trạng bài thơ. – Thao tác 1: Hướng dẫn tìm hiểu Sóng – đối tượng cảm nhận tình yêu (khổ 1 & 2). + GV: Gọi HS đọc khổ 1 + GV: Hình tượng sóng được tác giả miêu tả như thế nào? + GV: Từ những trạng thái của sóng tác giả liên tưởng đến điều gì ? Sự liên tưởng đó có phù hợp? + GV: Em hiểu 2 câu thơ “Sông không hiểu .tận bể” như thế nào ? + GV: Gợi ý : o “sông”? à không gian nhỏ o “bể” ? à không gian rộng lớn HS phát biểu * Kết quả : GV chốt ý đúng HS ghi nhận * GV gọi HS đọc khổ 2 .và nêu câu hỏi + GV: Nhà thơ đã phát hiện ra điều gì tương đồng giữa sóng và tình yêu ? + HS phát biểu * kết quả : – GV: Liên hệ và gợi giảng + “Làm sao sống được mà không yêu Không nhớ, không thương một kẻ nào?” ( Xuân Diệu ) O+ Bài hát : Vẫn hát lời tình yêu – Trịnh Công Sơn + GV: Một tình yêu mãnh liệt và nhiều khát vọng đã được Xuân Quỳnh bộc lộ như thế nào ? HS suy nghĩ và trả lời * Kết quả : – GV chốt ý – HS ghi bài – Thao tác 2: GV hướng dẫn HS tìm hiểu sóng và cội nguồn của tình yêu đôi lứa + GV: Khổ 3 & 4 , tác giả bộc lộ điều gì? Cách thể hiện như thế nào? * Kết quả : GV định hướng và giảng bình HS ghi nhận @ GV Liên hệ o Thơ Xuân Diệu : “ Làm sao cắt nghĩa được tình yêu” o Câu nói của nhà toán học Pascan : “trái tim có những lí lẽ riêng mà lí trí không thể nào hiểu nổi” à Nghệ thuật tương đồng trong cảm nhận . + GV: Sau nỗi trăn trở suy tư là tâm trạng gì trong trái tim của người phụ nữ này ? + GV: Nỗi nhớ trong tình yêu là cảm xúc tự nhiên của con người, đã được miêu tả rất nhiều trong thơ ca xưa cũng như nay: o Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa, như ngồi đống than (Ca dao) o “Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời” (Chinh phụ ngâm) o “Anh nhớ tiếng, anh nhơ hình, anh nhớ ảnh. Anh nhớ em, anh nhớ lắm. Em ơi!.” (Xuân Diệu) + GV hỏi HS : Nỗi nhớ của nữ sĩ Xuân Quỳnh được thể hiện như thế nào ? + GV: Tìm các biện pháp tu từ được sử dụng để tác giả thể hiện nỗi nhớ? Khổ thơ này có gì đặc biệt so với các khổ thơ trong bài ? + HS phát biểu * Kết quả : – GV hỏi : Tình yêu của Xuân Quỳnh không chỉ gắn liền với nỗi nhớ mà còn hướng tới điều gì ? : “xuôi về phương bắc – ngược về phương nam” cách nói có gì khác thường? Nhằm nhấn mạnh điều gì ? Câu thơ “Hướng về anh một phương” cho thấy cách thể hiện tình cảm của tác giả như thế nào ? – HS suy nghĩ và trả lời * Kết quả : – GV giảng và định hướng – HS ghi bài * GV gợi mở : Quan niệm của nhà thơ Xuân Quỳnh về tình yêu thể hiện như thế nào trong khổ thơ 6 v 7? * Kết quả : – GV giảng và định hướng chung – HS ghi nhận @ GV giảng và bình ý o Mạnh mẽ và chủ động trong tình yêu, dám bày tỏ tình yêu của mình, nỗi nhớ, khát khao của lòng mình. o Vẫn giữ vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ : thủy chung rất mực trong tình yêu. HS lắng nghe – Thao tác 3: Hướng dẫn tìm hiểu Sóng – Khát vọng tình yêu của Xuân Quỳnh + GV gọi HS đọc khổ 8 . Em hiểu như thế nào về khổ thơ này? + HS thực hiện và nêu cách hiểu @ Kết quả : – GV: Gợi ý cho HS tìm hiểu các quan hệ từ trong các câu thơ 1&2, 3&4. o tuy (nhưng) à quan hệ đối lập o ..dẫu . (nhưng ) . à quan hệ đối lập à sự nhạy cảm và lo âu của XQ về giới hạn của cuộc đời trước sự trôi chảy của thời gian GV: Gọi HS đọc khổ 9 . Khép lại bài thơ Sóng, nhà thơ bộc lộ cảm xúc gì ? + HS đọc và thực hiện * Kết quả : – GV giảng và chốt ý chính – HS ghi nhận * Kết luận : GV giảng và định hướng ý chính HS lắng nghe và ghi nhận kiến thức * Hoạt động 5 : Hướng dẫn HS tổng kết bài học. Mục tiêu : Khắc sâu tri thưc bài thơ Hiểu rõ giá trị tư tưởng về đề tài tình yêu của người phụ nữ trẻ và tâm hồn của người phụ nữ luôn khao khát tình yêu vĩnh cửu Tổ chức thực hiện – Thao tác 1: Hướng dẫn tổng kết Nghệ thuật . + GV: Đánh giá về nghệ thuật của bài thơ ? Nhận xét về thể thơ, nhịp thơ và hình tượng “sóng” ? + GV: Các yếu tố ấy có hiệu quả gì trong việc thể hiện nội dung, cảm xúc của bài thơ ? + HS nhận xét nghệ thuật * Kết quả : – GV định hướng – HS ghi nhận – Thao tác 2: Hướng dẫn tổng kết Nội dung. + GV: Gọi học sinh đọc phần Ghi nhớ. * GV giảng chậm và nhấn mạnh ý cho HS tự ghi nhớ kiến thức Thao tác 3 : Rèn luyện kĩ năng sống: GV nêu câu hỏi :Qqua bài thơ em có suy nghĩ gì về tình yêu trong cuộc sống ? Bài học rút ra cho bản thân HS suy nghĩ và trả lời ; * Kết luận : – GV giảng và định hướng – HS lắng nghe và tự rút ra ý kiến cho bản thân về tình yêu I. Tìm hiểu chung : 1. Tác giả : SGK – Xuân Quỳnh (1942 – 1988). – Quê: La Khê, Hà Đông, Hà Tây – Một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ chống Mĩ. – Một trong những nhà thơ viết thơ tình hay nhất sau 1975. – Phong cách thơ: tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn. + vừa hồn nhiên + vừa chân thành, đằm thắm + luôn da diết khát vọng về hạnh phúc đời thường. 2. Văn bản: a. Hoàn cảnh sáng tác: – Sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình). – Là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. – In trong tập Hoa dọc chiến hào (1968). b. Bố cục: + Đoạn 1: 2 khổ đầu à Những cảm xúc, suy nghĩ về sóng biển và tình yêu. + Đoạn 2: 2 khổ 3, 4 à Nghĩ về sóng và cội nguồn của tình yêu đôi lứa. + Đoạn 3: 3 khổ 5, 6, 7 à Nghĩ về sóng và nỗi nhớ, lòng chung thuỷ của người con gái. + Đoạn 4: 2 khổ cuối à Nghĩ về sóng và khát vọng tình yêu. c. Hình tượng sóng: – Bao trùm và xuyên suốt toàn bộ bài thơ. + Nghĩa thực: con sóng với nhiều trạng thái mâu thuẫn trái ngược nhau. + Nghĩa biểu tượng: sóng như có hồn, có tính cách, tâm trạng, biết diễn tả những cung bậc tình cảm trong tâm hồn của người phụ nữ đang yêu. d. Chủ đề – Khát vọng tình yêu của tuổi trẻ II. Đọc – hiểu văn bản: @ ĐỌC VĂN BẢN 1. Những cảm xúc, suy nghĩ về sóng biển và tình yêu: – Khổ 1: + Tiểu đối: Dữ dội – dịu êm; ồn ào – lặng lẽ à mở đầu bằng 4 tính từ: Miêu tả trạng thái đối lập của sóng và liên tưởng đến tâm lí phức tạp của người phụ nữ khi yêu (khi sôi nổi, mãnh liệt khi dịu dàng, sâu lắng). + Phép nhân hoá: “Sông – không hiểu mình” “Sóng – tìm ra bể” à Con sóng mang khát vọng lớn lao: Nếu “sông không hiểu nổi mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp để “tìm ra tận bể”, tìm đến nơi cao rộng, bao dung. – Khổ 2: + Quy luật của sóng: Sóng: ngày xưa, ngày sau: vẫn thế à sự trường tồn của sóng trước thời gian: vẫn dạt dào, sôi nổi. + Quy luật của tình cảm: “Khát vọng tình yêu – bồi hồi trong ngực trẻ” à Tình yêu là khát vọng lớn lao, vĩnh hằng của tuổi trẻ và nhân loại. 2. Sóng và cội nguồn cuả tình yêu đôi lứa: – Khổ 3: Điệp từ: “em nghĩ” và câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên” à quay về lòng mình, nhu cầu tìm hiểu, phân tích, khám phá tình yêu – Khổ 4: Đi tìm câu hỏi tu từ cho câu hỏi ở khổ 3: Câu hỏi tu từ: Gió bắt đầu từ đâu? Khi nào ta yêu nhau? à XQ dựa vào quy luật tự nhiên để truy tìm khởi nguồn của tình yêu nhưng nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu đều bất ngờ, đầy bí ẩn, không thể lí giải. – Khổ 5: Nỗi nhớ + Bao trùm cả không gian : « sóng dưới lòng sâu, sóng trên mặt nước » + Thao thức trong mọi thời gian : « ngày đêm không ngủ được » à Phép đối, giọng thơ dào dạt, náo nức, mãnh liệt : diễn tả nỗi nhớ da diết, không thể nào nguôi, cứ cuồn cuộn, dào dạt như sóng biển triền miên. + Sóng nhớ bờ mãnh liệt, tha thiết, còn em nhớ anh đắm say hơn bội phần : « Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức » à Cách nói cường điệu nhưng hợp lí : nhằm tô đậm nỗi nhớ (choáng ngợp cõi lòng không chỉ trong ý thức mà thấm sâu vào trong tiềm thức). thành, tha thiết mà mạnh dạn, mãnh liệt. Khổ 6: Lòng chung thuỷ + Cách nói khẳng định : em : dẫu xuôi – phương bắc; dẫu ngược – phương nam, em : vẫn « Hướng về anh một phương » → Lời thề thủy chung tuyệt đối trong tình yêu : dù đi đâu về đâu vẫn hướng về người mình đang thương nhớ đợi chờ. + Các điệp ngữ : « dẫu xuôi về, dẫu ngược về » + điệp từ « phương » + các từ « em cũng nghĩ, hướng về anh » à Khẳng định niềm tin đợi chờ trong tình yêu. – Khổ 7 : Bến bờ hạnh phúc . + Mượn hình ảnh của sóng : « Sóng ngoài đại dương » – « Con nào chẳng tới bờ » à quy luật tất yếu. + Sóng tới bờ dù cách trở: Tình yêu là sức mạnh giúp em và anh vượt qua gian lao, thử thách để đạt đến bến bờ hạnh phúc. XQ thể hiện cái tôi của một con người luôn có niềm tin mãnh liệt vào tình yêu. 3. Sóng và khát khao tình yêu vĩnh cửu: – Khổ 8 : Những từ ngữ diễn tả quan hệ đối lập : « … tuy … (nhưng) … » « … dẫu … (nhưng) … » à Sự nhạy cảm và âu lo, phấp phỏng về sự hữu hạn của đời người và sự mong manh của hạnh phúc – Khổ 9 : Dùng từ chỉ số lượng lớn : Làm sao tan ra → trăm con sóng → ngàn năm còn vỗ + Khao khát được sẻ chia, hoà nhập vào cuộc đời. + Khát vọng được sống hết mình trong biển lớn tình yêu, muốn hoá thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở. Khát vọng khôn cùng về tình yêu bất diệt. III. Tổng kết : 1. Nghệ thuật : – Kết cấu tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em. – Nhịp điệu tự nhiên, linh hoạt – Ngôn từ, hình ảnh trong sáng, giản dị ® hội tụ nhiều nét tiêu biểu trong phong cách thơ XQ Nội dung : Là một bài thơ hay, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ đang yêu 3. Kiến thức kĩ năng sống : Tình yêu – khát vọng tình yêu vĩnh cửu của con người – GHI NHỚ – SGK/ 157 4. Củng cố : 1p – Học thuộc bài thơ. – Hình tượng Sóng ? – Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ đang yêu trong bài thơ Có nét gì giống – khác vớ vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam ? – Đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ ? 5. Dặn dò: 1p – Chuẩn bị bài mới : Luyện tập vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong bài văn nghị luận . + Xem lại cách vận dụng các phương thức biểu đạt đã học : tự sự, biểu cảm, thuyết minh . + Trong văn nghị luận có cần thiết phải sử dụng các phương thức đó trong bài văn không ? + Chuẩn bị các bài Luyện tập tại lớp trong SGK trang 158 : Sưu tầm những câu thơ, bài thơ so sánh tình yêu với sóng biển (ca dao, thơ VN, thơ nước ngoài) Xuân Quỳnh: Bài hát Thuyền và biển được phổ thơ của Xuân Quỳnh.
Cập nhật thông tin chi tiết về Giáo Án Ngữ Văn 12 Chi Tiết: Hai Đứa Trẻ trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!