Xu Hướng 6/2023 # Giáo Án Ngữ Văn 11 Tiết 13 Đọc Thêm: Vịnh Khoa Thi Hương (Trần Tế Xương ) # Top 13 View | Englishhouse.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Giáo Án Ngữ Văn 11 Tiết 13 Đọc Thêm: Vịnh Khoa Thi Hương (Trần Tế Xương ) # Top 13 View

Bạn đang xem bài viết Giáo Án Ngữ Văn 11 Tiết 13 Đọc Thêm: Vịnh Khoa Thi Hương (Trần Tế Xương ) được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

( Trần Tế Xương ) Mục tiêu bài học Giúp Hs: Thấy được bức tranh sinh động và chân thực nhất về tình hình xã hội thi cử của nước ta buổi giao thời trong chế độ thực dân và phong kiến. Thái độ mỉa mai, châm biếm đối với một kì thi lố lăng, trơ trẻn của nhà thơ; đồng thời bộc lộ nỗi nhục mất nước và niềm đau xót của một kẻ sĩ đương thời. Chuẩn bị. Giáo viên: Sgk, Stk, soạn giảng Học sinh: Tìm đọc tư liệu tham khảo về bài thơ, soạn bài. C. Tiến trình bài dạy 1. Ổn định lớp 2. Kiểm tra bài cũ Đọc thuộc lòng bài thơ “Khóc Dương Khuê” và cho biết tình cảm của NK dành cho người bạn của mình. Bài mới Hoạt động của Gv – Hs Nội dung cần đạt Gọi Hs đọc tiểu dẫn ở sgk, tìm hiểu đề tài bài thơ. Pv. Em thấy có điều gì khác thường trong hai câu thơ đầu? Giảng. – Cứ ba năm nhà nước mở một khoa thi như thế, đó là quy định bình thường của lệ thi cử. Điều bất thường: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Đời nhà Nguyễn toàn cõi Bắc Kì có 2 điểm thi Hương: Nam Định và Hà Nội. Năm Đinh Dậu 1897, vì sợ các cuộc khởi nghĩa của nhân dân, Td Pháp không cho tổ chức thi ở Hà Nội nữa, nên chính quyền nhà Nguyễn cho dồn tất cả xuống Nam Định “ Lẫn”: diễn tả cái hỗn tạp, láo nháo, không còn thể thống gì Pv. Em có nhận xét gì về hình ảnh sĩ tử và quan trường? Phân tích một số từ ngữ, hình ảnh và biện pháp nghệ thuật trong hai câu thực. Từ đó em có cảm nhận như thế nào về cảnh thi cử lúc bấy giờ? Giảng. Nhân vật trọng tâm của trường thi: sĩ tử và quan trường được khắc hoạ rất sắc nét, bộc lộ tính cách kì thi và tính chất xã hội. NT: đảo ngữ ¦ hình ảnh thí sinh lôi thôi với những chai lọ trên vai thật là xốc xếch. “ Vai đeo lọ” ¦ cái vẻ xiêu vẹo, gảy đổ, lếch thếch, chẳng ra gì của những ông cử tương lai. Sĩ tử thì “ lôi thôi”; lũ quan trường thì “ậm oẹ”. Ậm oẹ là một từ rất sáng tạo của Tú Xương. Lũ quan trường dùng cái loa để chỉ dẫn, điều khiển, nhắc nhở, gọi tên thí sinh. Vì vùng đất đặt trường thi rất rộng, thí sinh đông nên quan trường phải thét vào loa “ậm oẹ” là một âm thanh ú ớ, nói không thành tiếng rõ, nhưng đó là cái giọng điệu lên gân la lối, vênh váo của những kẻ dựa hơi chứ không có thực quyền. Cho nên nếu thí sinh mất đi cái vẻ nho nhã trí thức của thuở nào thì “giám khảo” cũng không còn cái dáng nghiêm trang đáng tôn kính. Pv. Phân tích hình ảnh quan sứ, bà đầm và sức mạnh châm biếm, đả kích của biện pháp nghệ thuật đối ở hai câu luận. Giảng. Hình ảnh “ông Tây mụ đầm” ở đây phản ánh đúng bản chất xã hội lúc bấy giờ: xã hội nô lệ mà người nắm thực qyền là thực dân. Hình ảnh “lọng cắm rợp trời” cho thấy cảnh tiếp đón dành cho Tây thật là long trọng, kính cẩn. Hình ảnh quan Tây mụ đầm ngồi trên cao cho thấy cảnh mất nước của chúng ta. Nhưng cái thú vị nhất ở đây là Tú Xương đã lợi dụng nghệ thuật thơ Đường để bày tỏ thái độ của mình đối với cái mà mình không thích. Lợi dụng nghệ thuật đối, Tú Xương đã đặt cái “váy” của bà đầm ngang với cái “lọng” của ông Tây. Ghép hai hình ảnh đó với nhau, cho nó đối nhau, Tú Xương đã chơi một vố rất đau, rất thẳng tay đối với lũ quan Tây. Tương tự như thế, “quan sứ” đối với “mụ đầm”, quan sứ là chữ trang trọng để gọi ông Tây, nhưng “mụ đầm” là chữ “chơi xỏ”, là để chửi, mụ là tiếng gọi hạng đàn bà không ra gì, gọi ông quan Tây thì trang trọng, nhưng gọi vợ ông quan là con mụ chẳng ra gì, đó là cách chửi của Tú Xương Pv. Phân tích tâm trạng, thái độ của tác giả trước cảnh tượng trường thi. Lời nhắn gọi của Tú Xương ở hai câu cuối có ý nghĩa gì? Giảng. Đất Bắc chỉ vùng Hà Nội, kinh đô của ngàn năm văn vật, nơi tụ hội của nhân tài đất nước. Câu thơ là một tiếng kêu than của chính mình, đồng thời còn là tiếng kêu gọi đối với những ai còn nghĩ tới cái nhục mất nước, còn tự hào về truyền thống của dân tộc. Âm điệu câu thơ có cái gì xót xa cho thấy tâm trạng xốn xang của tác giả Tìm hiểu chung Đề tài: thi cử – một đề tài khá đậm nét trong sáng tác của Tú Xương Chủ đề: Bài thơ thể hiện thái độ mỉa mai, phẫn uất của nhà thơ đối với chế độ thi cử đương thời và đối với con đường khoa cử của riêng ông. Qua đó, tác giả vẽ nên một phần hiện thực nhốn nháo ô hợp của xã hội thực dân nửa phong kiến buổi đầu. Phân tích. Hai câu đề. Hai câu đề có tính chất tự sự, nhằm kể lại cuộc thi. Kì thi mở đúng theo thông lệ, “ba năm mở một khoa”. Nhưng sự bất thường ở chỗ: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà” Từ “lẫn” thể hiện rõ sự ô hợp, nhộn nhạo trong thgi cử. Hai câu thực. Sĩ tử: Nghệ thuật đảo ngữ ¦ nhấn mạnh sự luộm thuộm, xốc xếch, không gọn gàng. Đó là hình ảnh “nho phong sĩ khí” do sự ô hợp, nhốn nháo của xã hội đưa lại. Quan trường: “ậm oẹ miếng thét loa”¦ cái oai nhưng là cái oai cố tạo ra. Nt đảo ngữ giúp người đọc thấy được tính chất lộn xộn của kì thi. ª Tạp nhạp, lôi thôi của thi cử và cái nhố nhăng của xã hội VN trong buổi đầu giao thời. Hai câu luận Đối lập với hình ảnh sĩ tử và quan trường là hình ảnh quan sứ và bà đầm. Hai nhân vật này được đón tiếp rất linh đình “lọng cắm rợp trời”. Nghệ thuật đảo ngữ kết hợp nghệ thuật đối tạo nên sức mạnh đả kích, châm biếm dữ dội, sâu cay. Hai câu kết Hai câu kết chuyển đổi giọng từ mỉa mai châm biếm sang trữ tình. Đó là lời kêu gọi, đánh thức lương tri. Câu hỏi phiếm chỉ không chỉ hướng đến các sĩ tử thi năm đó mà còn là những người được xem là nhân tài đất Bắc hãy “ngoảnh cổ mànước nhà”. Từ một khoa thi nhưng bức tranh về hiện thực xã hội năm Đinh Dậu đã được hiện lên. Bên cạnh đó còn là nỗi nhục mất nước, sự tác động đến tâm lnh người đọc. Tổng kết Qua bài thơ “Vịnh khoa thi Hương” Tú Xương đã vẽ lại cái cảnh trường thi nhỏ thôi mà bộc lộ được bản chất của cả xã hội Việt Nam. 4. Củng cố. – Phân tích cảch trường thi năm Đinh Dậu, qua đó nêu rõ thái độ, tâm trạng của Trần Tế Xương trong bài. 5. Dặn dò. – Học bài, soạn bài “Tìm hiểu thêm về Nguyễn Khuyến” Rút kinh nghiệm:

Giáo Án Ngữ Văn 11Cb Tiết 10 Bài Đọc Thêm: Vịnh Khoa Thi Hương

Trần Tế Xương

I – MỤC TIÊU BÀI HỌC:

Giúp HS hiểu : bài thơ “Vịnh khoa thi hương” qua cảnh khoa thi hương ô hợp, thiếu tôn nghiêm phản ánh thực trạng đất nước, bài thơ cho thấy tấm lòng yêu nước của TTX : căm ghét bọn thực dân xâm lược , đau xót trước tình cảnh đất nước bằng NT trào phúng kết hợp với bút pháp trữ tình.

II – CHUẨN BỊ

-GV : Sưu tầm một số bài thơ nói về việc thi cử của TTX. Bình giảng cácbài thơ trên.

-HS : Đọc bài & soạn bài .

Tuần:3 Trần Tế Xương I - MỤC TIÊU BÀI HỌC: Giúp HS hiểu : bài thơ "Vịnh khoa thi hương" qua cảnh khoa thi hương ô hợp, thiếu tôn nghiêm phản ánh thực trạng đất nước, bài thơ cho thấy tấm lòng yêu nước của TTX : căm ghét bọn thực dân xâm lược , đau xót trước tình cảnh đất nước bằng NT trào phúng kết hợp với bút pháp trữ tình. II - CHUẨN BỊ -GV : Sưu tầm một số bài thơ nói về việc thi cử của TTX. Bình giảng cácbài thơ trên. -HS : Đọc bài & soạn bài . III - TIẾN TRÌNH BÀI DẠY: Ổn định lớp: Kiểm tra: Anh (chị ) hãy cho biết Tú Xương sáng tác theo mấy mảng đề tài? Đó là đề tài gì? 3.Bài mới: Chúng ta đã biết bài thơ trữ tình "Thương vợ" của Tú Xương, một bài thơ ngọt ngào chứa đựng tình cảm chân thành của tác giả. Nay ta lại làm quen với tác giả ở mảng đề tài khác , đề tài trào phúng. Với bài "Vịnh khoa thi hương" Hoạt động của GV Hoạt động của HS Yêu cầu cần đạt HĐ1: Hướng dẫn đọc hiểu tiểu dẫn. *GV: Về tác giả Tú Xương học sinh đã tìm hiểu ở bài "Thương Vợ", ở bài này yêu cầu hs nhắc lại về tác giả. *GV: Cho hs đọc tiểu dẫn rút ra ý chính. HĐ2.: Hướng dẫn đọc hiểu vb *GV: Gọi hs đọc bài thơ . *GV hỏi hs câu hỏi 1 sgk *GV hỏi hs câu hỏi 2 sgk Biện pháp đảo ngữ "lôi thôi sĩ tử": tác giả vừa nhấn mạnh sự luộm thuộm không gọn gàng, vừa khái quát được những hình ảnh sĩ tử trong kì thi ấy. * Giảng ý về nd hai câu thực Từ "ậm oẹ"là biểu đạt âm thanh của tiếng nói nhưng bị cản lại trong cổ họng. Điều đó đã khẳng định cái oai hờ của bọn quan trường. Hình ảnh " quan trường ậm oẹ miệng thét loa" gợi lên cái oai nhưng là cái oai cố tạo ra. * câu hỏi 3 sgk *GV hỏi hs câu hỏi 4 sgk * Định hướng Lời kêu gọi đánh thức lương tri. không chỉ hướng đến các sĩ tử thi năm đó mà còn là những người được xem là "nhân tài đất Bắc" hãy "ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà". GV: Gọi hs khái quát lại nội dung bài. -HS đọc phần tiểu dẫn phát biểu một số ý : "thi cử" một đề tài khá đậm nét trong thơ Tú Xương, thể hiện thái độ mỉa mai phẫn uất của nhà thơ với chế độ thi cử đương thời và với con đường thi cử của riêng ông. -HS: Đọc bài thơ -HS: Hai câu mở đầu nhằm có tính tự sự nhằm kể lại cuộc thi. Sang câu thứ 2 sự bất bình thường đã bộc lộ rõ trong cách tổ chức kì thi. -HS: Hai câu thực thể hiện rõ sự ô hợp trog kì thi. Tác giả chú ý miêu tả hai đối tượng: sĩ tử (người đi thi luộm thuộm không gọn gàng không giống nho sinh ) quan trường ( người coi thi ậm ọe nói không rõ ràng , không có vẻ tôn nghiêm ) - HS tìm ý trả lời Quan sứ và bà đầm được đón tiếp linh đình "cờ cắm rợp trời' -HS trả lời Hai câu kết tác giả chuyển giọng điệu mỉa mai châm biến sang trữ tình. HS: Bài thơ là một khoa thi nhưng bức tranh hiện thực xã hội năm Đinh Dậu đã được hiện lên. Bên cạnh đó là tâm sự của Tú Xương: nỗi nhục mất nước là sự tác động đến tâm linh người đọc. I. TIỂU DẪN -Đề tài :thi cử -Bài thơ viết về kì thi hương ở Nam Định qua ngòi bút châm biếm sâu sắc của TTX. II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN 1. Hai câu đề :điều khác thường của kì thi năm này "Trường NamHà" Từ "lẫn" đã thể hiện rõ tính chất lộn xộn , láo nháo ,lôi thôi , thiếu nề nếp qui cũ. 2.Hai câu thực a. Hình ảnh sĩ tử -Lôi thôi tư thế - vai đeo lọ tính cách b. Hình ảnh quan trường - Từ "ậm oẹ" lời nói ú ớ , không rõ ràng ,không thành câu , cố hét to lên ra oai (oai cố tạo ) -Đảo ngữ: "ậm oẹ quan trường" người đọc thấy rõ tính chất lộn xộn của kì thi. 3.Hai câu luận - Biện pháp đảo ngữ: Cờ trước- người sau, váy trước -người sautạo nên sức mạnh đả kích, châm biếm dữ dội sâu cay. 4.Hai câu kết -Câu hỏi tu từ "Nhân tài đất Bắc nào ai đó" lời nhắn nhủ đầy xót xa gửi đến các sĩ tử. -Câu cuối thể hiện thái độ mỉa mai của tác giả phê phán chế độ thi cử & con đường khoa cử của xh thực dân nửa pk buổi đầu . III . CHỦ ĐỀ Bằng bút pháp trào phúng đặc sắc tác giả đã phơi bày hiện thực xh thực dân nửa pk một cách đau đớn và xót xa 4.Củng cố: Chú ý hoàn cảnh xã hội lúc bài thơ ra đời, từ đó thấy được nỗi niềm tâm sự của tác giả. 5.Dặn dò: Tìm đọc một số bài thơ khác của Tú Xương có cùng đề tài thi cử

Soạn Bài Vịnh Khoa Thi Hương (Trần Tế Xương

Soạn bài Vịnh khoa thi Hương (Trần Tế Xương)

Bố cục

Phần 1 (hai câu thơ đầu): Lời giới thiệu kì thi hương.

Phần 2 (bốn câu thơ tiếp theo): Cảnh tượng trường thi.

Phần 3 (hai câu thơ còn lại): Thái độ của nhà thơ trước kì thi hương.

Câu 1 (trang 34 SGK Ngữ văn 11 tập 1):

Hai câu thơ đầu cho thấy sự tạp nham, hình thức lộn xộn của kì thi, kì thi không còn nhằm tuyển chọn những nhân tài thực sự cho đất nước: Các sĩ tử ở trường Hà Nội xuống thi “lẫn” với sĩ tử ở trường Nam Định.

Câu 2 (trang 34 SGK Ngữ văn 11 tập 1):

– Hình ảnh sĩ tử:

+ Lôi thôi: khác xa với hình ảnh sĩ tử ngày xưa.

+ Phép đảo ngữ “vai đeo lọ” nhấn mạnh sự lôi thôi.

– Quan trường:

+ Ậm ọe: Lời nói không ra lời nói, không có phong thái nghiêm túc.

+ Phép đảo ngữ “miệng thét loa”: gợi cảnh tượng om sòm, nhốn nháo.

⇒ Cảnh thi cử nhốn nháo, om sòm như một cái chợ, không còn vẻ nghiêm túc của trường thi.

Câu 3 (trang 34 SGK Ngữ văn 11 tập 1):

– Hình ảnh quan sứ: đến trong sự phô trương, “lọng cắm rợp trời”.

– Hình ảnh mụ đầm: đến trường thi nhưng lại mặc trang phục lố lăng, rườm rà “váy lê quét đất”.

– Biện pháp đối: “Lọng cắm rợp trời” đối với “váy lê quét đất”, “quan sứ” đối với “mụ đầm”, “đến” đối với “ra” → đả kích những kẻ biến trường thi thành chốn phô trương danh thế, ô hợp, nhốn nháo.

Câu 4 (trang 34 SGK Ngữ văn 11 tập 1):

– Tâm trạng, thái độ của tác giả: Khinh ghét, căm tức, châm biếm, đả kích.

– Lời nhắn gửi ở hai câu cuối: thể hiện nỗi trăn trở, sự lo lắng của nhà thơ trước vận mệnh đất nước thời buổi ô hợp, nhốn nháo, việc học, việc chọn người tài bị coi nhẹ.

Ý nghĩa

Tác giả Tú Xương thông qua bài thơ đã vẽ nên một phần hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội thực dân nửa phong kiến buổi đầu, đồng thời nói lên tâm sự của mình trước tình cảnh đất nước.

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k4: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Phân Tích Bài Thơ “Vịnh Khoa Thi Hương” Của Trần Tế Xương

Phân tích bài thơ “Vịnh khoa thi hương” của Trần Tế Xương – Bài làm 1

Tú Xương là một nhà thơ được sinh ra và lớn lên trong giai đoạn có thể nói là bi thương nhất của đất nước – nước ta bị Pháp tấn công và thống trị. Trước cảnh đất nước bị tù đày ấy, thơ của ông là một bức tranh hiện thực vừa bày tỏ sự đau xót của một người con nước Nam, đồng thời cũng tố cáo tội ác đen tối của bọn thực dân. Và ” Vịnh khoa thi hương ” cũng là một tác phẩm như thế.

Mở đầu bài thơ là hai câu thơ giới thiệu kì thi Hương năm ấy:

“Nhà nước ba năm mở một khoa

Trường Nam thi lẫn với trường Hà”

Kì thi này được tổ chức một cách bình thường, cứ ba năm một lần. Nhưng điều bất thường của nó là, các thí sinh của trường Hà Nội cũng bị dồn về trường Nam Định để thi. Chỉ một từ “lẫn”, tác giả đã khéo léo nói lên tình trạng hồn loạn, bát nháo, tạp nham của khoa thi Hương năm ấy.

Và đúng là, việc thi cử ấy tạp nham thật:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”

Từ “lôi thôi” được đặt lên đầu câu, nhấn mạnh vẻ lếch thếch, không gọn gàng của các vị “sĩ tử”. Bình thường, những người đi thi đều là những người đọc sách, những người luôn gọn gàng, chỉn chu. Vậy mà nay, thí sinh đi thi với vẻ xốc xếch, với lọ chai lỉnh kỉnh, không còn cái vẻ tao nhã của người đọc sách. Chỉ một đối tượng, nhưng cũng đủ để chỉ sự xuống cấp của toàn xã hội. Thí sinh không còn vẻ nho nhã trí thức thì những vị giám khảo cũng không còn vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước nữa, chỉ còn cái dáng “thét loa” như ngoài chợ, mà nói thì cũng “ậm ọe” chẳng thành câu. Một lần nữa, tính từ miêu tả “ậm ọe” lại được cho lên đầu câu giống như từ “lôi thôi” ở trên để làm nổi bật lên sự bất tài của đám quan trông trường thi. Chúng chỉ là những kẻ vênh váo, dựa hơi, chẳng có tài năng cũng chẳng có thực quyền. Trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh của một trường thi nhốn nháo, quan trông thi thì luôn miệng hống hách, quát tháo, sĩ tử đi thi thì lôi thôi, lếch thếch, xiêu vẹo lều chõng lọ giấy đi thi. Thật là đáng buồn và đáng cười thay!

Trong cái nhốn nháo, tạp nham ấy, hai nhân vật “quan trọng” xuất hiện một cách hoành tráng:

“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến

Váy lê quét đất mụ đầm ra”

Theo như lịch sử, kì thi năm Đinh Dậu 1897 có vợ chồng toàn quyền Pháp và vợ chồng tôn công sứ Nam Định đến dự. Đang trong không khí trường thi căng thẳng, vậy mà quan sứ và vợ vẫn được đón tiếp một cách long trọng, “lọng cắm rợp trời”, mưa không đến mặt, nắng không đến đầu. Kẻ xâm lược được đón tiếp một cách tốt nhất, đặt lên một vị trí cao nhất cho thấy một thực trạng đau lòng nước ta thời bấy giờ – một xã hội mà thực dân nắm quyền và xã hội phong kiến chỉ làm bù nhìn. Ở đây, Tú Xương dùng từ vô cùng đắt. Gọi “quan sứ” một cách quan trọng, nhưng lại gọi vợ chúng là “mụ đầm”. “Mụ” là một từ để chỉ người đàn bà không ra gì, là cách gọi thô tục. Tú Xương “chửi” một cách vô cùng sắc bén. Vừa châm biếm, nhưng đó cũng vừa là nỗi đau xót, căm hận của một con người phải chứng kiến cảnh nước mất nhà tan.

Trước cảnh nhốn nháo, biến chất ấy, nhà thơ đã phải thốt lên rằng:

“Nhân tài đất Bắc nào ai đó,

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”

Hai câu thơ vừa là lời tự vấn bản thân, cũng là tự vấn những người đồng cảnh ngộ. Có mấy người còn nghĩ đến nỗi nhục của cảnh nước mất nhà tan, mà cùng nhau đứng lên hành động? Có bao nhiêu người vẫn đang mù quáng tin vào nhà nước, tin vào chính quyền mà không chịu nhìn vào thực tế? Thơ của Tú Xương, là sự kết hợp của cả hiện thực và trữ tình. Từ việc tả lại kì thi Hương đã thoái hóa, biến chất, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh đất nước bị tù đày, đàn áp bởi bọn thực dân, đồng thời cũng bày tỏ nỗi niềm đau xót trước cảnh nước mất nhà tan của một người, một thế hệ trí thức yêu nước trước cảnh nước mất nhà tan.

Phân tích bài thơ “Vịnh khoa thi hương” của Trần Tế Xương – Bài làm 2

Có lẽ đây là bức tranh sinh động và chân thực nhất về tình hình xã hội thi cử của Việt Nam buổi giao thời trong chế độ thực dân và phong kiến. Bức tranh miêu tả quang cảnh kì thi Hương cuối mùa, lố lăng, trơ trẽn, bộc lộ nỗi nhục mất nước và niềm đau xót của một kẻ sĩ đương thời.

Mở đầu bài thơ, tác giả viết:

Nhà nước ba năm mở một khoa,

Trường Nam thi lẫn với trường Hà”.

Hai câu thơ giới thiệu khéo léo đặc điểm của kì thi Hương này. Đặc điểm thứ nhất là cứ ba năm, “nhà nước” mở một kì thi như thế. Đó là quy định bình thường của lệ thi cử. Đặc điểm thứ hai làm cho cái bình thường đó trở nên hơi bất thường: trường Nam Định thi lẫn với trường Hà Nội. Đời nhà Nguyễn, toàn Bắc Kì có hai địa điểm thi Hương, đó là Nam Định và Hà Nội. Năm Đinh Dậu 1897, vì sợ các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta nên thực dân Pháp không cho tổ chức thi ở Hà Nội nữa, nên chính quyền nhà Nguyễn cho dồn tất cả vùng Nam Định. Chữ “lẫn” diễn tả khéo cái tính chất hỗn tạp, láo nháo, không còn thể thống gì. Cho nên, về mặt nghệ thuật, hai câu đề đã làm tốt nhiệm vụ giới thiệu của nó.

Tính chất tạp nhạp, lôi thôi của thi cử lập tức hiện ra trước mắt người đọc khi bước sang hai câu thực:

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.

Những nhân vật trọng tâm của trường thi – sĩ tử và quan trường – được khắc hoạ rất sắc nét, bộc lộ tính cách kỳ thi và tính chất xã hội. Sĩ tử là người đi thi quan trường là những ông quan coi thi, chấm thi có trách nhiệm trong việc thi cử. Bằng nghệ thuật đảo ngữ, tác giả đã vẽ nên trước mắt người đọc hình ảnh người thí sinh lôi thôi với những chai lọ trên vai thật là xốc xếch. Chữ “lôi thôi” này đặt ở đầu câu, gây ấn tượng mạnh, làm cho hình ảnh “vai đeo” chụp được tư thế và tư cách của những kẻ một thời được mang danh là kẻ sĩ, tiêu biểu cho ý thức xã hội phong kiến.

“Lọ” ở đây người có người hiểu là lọ mực, có người hiểu là lọ đựng nước uống mà thí sinh phải mang theo. Dù là hiểu theo nghĩa nào, hình ảnh “vai đeo lọ” vẫn nổi lên thật mỉa mai cái vẻ xiêu vẹo, gãy đổ, lếch thếch, chẳng ra gì của những ông cử tương lai.

Đối với đám sĩ tử như thế, còn bọn quan trường cũng được Tú Xương tìm cho một từ thật xứng đáng:

“Ậm oẹ quan trường miệng thét loa”

Bọn sĩ tử thì “lôi thôi”; lũ quan trường thì “ậm oẹ”. Ậm oẹ là một từ rất sáng tạo của Tú Xương. Lũ quan trường dùng cái loa để chỉ dẫn, điều khiển, nhắc nhở gọi tên các thí sinh. Vì vùng đất đặt trường thi rất rộng, và số thí sinh hẳn là rất đông, nên quan trường phải thét vào loa thì người ta mới nghe được. Đây là một chi tiết rất chân thực, gần như Tú Xương chỉ làm nhiệm vụ của một nhà nhiếp ảnh thu hình mà thôi. Nhưng chính từ ngữ “ậm oẹ” hết sức độc đáo này đã khiến người thợ chụp hình bình thường ấy thành một nghệ sĩ rất sắc sảo, rất thú vị.

Nó bộc lộ thực chất và chân tướng tay sai của đám quan trường này. Ậm oẹ là âm thanh ú ớ, nói không thành tiếng rõ, nhưng cái giọng điệu lên gân la lối, vênh váo của những kẻ dựa hơi chứ không có thực quyền.

Cho nên, nếu “thí sinh” mất đi cái vẻ nho nhã trí thức của thuở nào thì giám thị, giám khảo cũng không còn cái dáng nghiêm trang đáng tôn kính nữa.

Tất cả hiện lên song song trong hai câu bình đối làm nổi bật cảnh tượng hết sức khôi hài của một trường thi. Và cảnh tượng ấy nói lên với ta bao nhiêu ý nghĩ về cái xã hội hỗn tạp, nhố nhăng trong buổi đầu của chế độ thực dân và phong kiến Việt Nam, mà triều đình nhà Nguyễn chỉ còn là cái bóng mờ thảm hại đến buồn cười.

Tư tưởng đó bộc lộ rõ hơn nữa trong hai câu luận tiếp theo:

“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,

Váy lê quét đất mụ đầm ra.”

Tác giả lại tiếp tục “tả thực” cảnh trường thi. Theo như sách sử cho biết, kì thi năm Đinh Dậu 1897 có vợ chồng tên toàn quyền Paul Doumer và vợ chồng tôn công sứ Nam Định Le Normand đến dự. Vì vậy, tả kì thi này mà thiếu cái chi tiết ấy thì là thiếu tất cả. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà một người làm thơ sành sõi như Tú Xương lại đem hình ảnh này đặt vào cặp luận của bài thơ. Nếu hai câu luận có vị trí chủ chốt trong bài thơ, thì hình ảnh của “ông Tây mụ đầm” ở đây là một phản ánh đúng bản chất xã hội Việt Nam lúc bấy giờ: xã hội nô lệ, mà người nắm thực quyền là thực dân. Hình ảnh “lọng cắm rợp trời” cho thấy cảnh tiếp đón dành cho Tây thật là long trọng, thật là kính cẩn.

Hình ảnh quan Tây mụ đầm ngồi trên vị trí cao ngất đó cho thấy cảnh mất nước của chúng ta.

Nhưng cái thú vị nhất trong hai câu thơ này không phải chỉ có bấy nhiêu chi tiết đó. Cái thú vị nhất chính là Tú Xương đã biến nghệ thuật làm thơ Đường thành một vũ khí sắc bén để bày tỏ thái độ của mình đối với cái mà mình không ưa thích.

Lợi dụng nghệ thuật đối, Tú Xương, đã đặt cái “váy” của bà đầm ngang với cái “lọng” của ông Tây. Nói cách khác, ghép hai hình ảnh đó với nhau, cho nó đối nhau, Tú Xương đã chơi một vố rất đau và rất thẳng tay đối với lũ quan Tây. Và cũng trong nghệ thuật đối, “quan sứ” đối với “mụ đầm” là một dụng ý của Tú Xương. Quan sứ là chữ trang trọng để gọi ông Tây, nhưng “mụ đầm” là chữ “chơi xỏ”, là chữ để chửi. Mụ là tiếng gọi hạng đàn bà không ra gì. Gọi ông quan Tây thì trang trọng, nhưng gọi vợ ông quan là con mụ chẳng ra gì, đó là một cách chửi của Tú Xương.

Người ta nói ” văn học là suy tư chứ không phải là miêu tả”. Chính ở trong trường hợp này, qua miêu tả, nhà thơ Tú Xương đã thể hiện một suy tư sắc sảo, một thái độ phê phán sắc bén. Cho nên, đậm đà chất hiện thực, nhưng thơ Tú Xương không phải chỉ là hiện thực đơn điệu, lạnh lùng, ở trong hiện thực mà ông phơi bày có cơn giận và niềm đau của tâm hồn, của tấm lòng con người.

Cho nên, không lạ gì, đứng trước cảnh oái oăm và nhục nhã ấy, nhà thơ đã buột miệng thốt lên:

Nhân tài đất Bắc nào ai đó,

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.

Đất Bắc chỉ vùng Hà Nội, kinh đô của ngàn năm văn vật, nơi tụ hội của nhân tài đất nước. Câu thơ là một tiếng kêu than đối với chính mình hay là một lời kêu gọi đối với những ai còn nghĩ tới cái nhục mất nước, còn tự hào về truyền thống của dân tộc? Âm điệu câu thơ có cái gì xót xa, cho thấy tâm trạng xốn xang của chính nhà thơ. Nhân tài ở đây chỉ ai, nếu không phải là nhằm tới những người trí thức của thời đại đã từng đi qua cái cửa của trường thi này?

Kết thúc bài thơ “Chạy Tây”, Nguyễn Đình Chiểu cũng kêu gọi:

Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng,

Nỡ để dân đen mắc nạn này ?

Đối với hai tâm trạng, ta thấy có chỗ khác nhau mặc dù mỗi người để bộc lộ nỗi đau xót của mình trước cảnh nước mất nhà tan.

Ở Nguyễn Đình Chiểu, lời kêu gọi của ông nhắm tới những người “dẹp loạn”. Điều đó đã bộc lộ ý thức đánh giặc, và quyết tâm “dẹp loạn” của nhà thơ ca ngợi và chủ xướng quan niệm “Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây”.

Ở Trần Tế Xương, lời kêu gọi của ông không thể hiện một tư tưởng quyết liệt như vậy. Nó chỉ gợi lên một nỗi nhục mất nước đang sờ sờ trước mắt mà có người còn không thấy, có kẻ còn làm ngơ, quay mặt đi như vậy, nên Tú Xương mới kêu gọi “ngoảnh cổ mà trông”. Ngoảnh cổ là một từ rất bạo của Tú Xương. Chữ “ngoảnh cổ” của Tú Xương rất hình ảnh và biểu cảm, loại hình ảnh biếm họa của truyện cười. Cho nên không phải đến hai câu kết, cái cười của Tú Xương chợt tắt để nhường chỗ cho nỗi đau của ông. Mà ngay ở trong cái cười ấy, và vẫn cái cười sâu cay ấy, tiếng lòng của ông bật ra như một giọt nước mắt rơi xuống bất ngờ.

3. Vì vậy, không có gì là khó hiểu khi có người cho rằng “thơ Tú Xương” đi bằng cả hai chân: hiện thực và trữ tình, mà cái chân hiện thực ở người Tú Xương chỉ là một cẳng chân trái (Nguyễn Tuân).

Trên đôi chân đó, mà cái chân trữ tình là chủ yếu qua bài thơ “Vịnh khoa thi Hương”, Tú Xương đã vẽ lại cái cảnh trường thi nhỏ thôi mà bộc lộ được bản chất của cả xã hội Việt Nam.

Cập nhật thông tin chi tiết về Giáo Án Ngữ Văn 11 Tiết 13 Đọc Thêm: Vịnh Khoa Thi Hương (Trần Tế Xương ) trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!