Xu Hướng 6/2023 # Giáo Án Ngữ Văn 11: Đọc Văn Tác Giả: Nguyễn Đình Chiểu # Top 13 View | Englishhouse.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Giáo Án Ngữ Văn 11: Đọc Văn Tác Giả: Nguyễn Đình Chiểu # Top 13 View

Bạn đang xem bài viết Giáo Án Ngữ Văn 11: Đọc Văn Tác Giả: Nguyễn Đình Chiểu được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

NS: 28/9/08 Tác giả: NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU NG: 29/9/08 Mục tiêu cần đạt: Giúp hoc sinh. Nắm đươc thân thế sự nghiệp và giá trị nội dung nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu ( NĐC ). NĐC là một tấm gương sáng ngời về nghị lực, đạo đức, đặc biệt là thái độ suốt đời gắn bó và chiến đấu không mệt mỏi cho lẽ phải cho quyền lợi của nhân dân, đất nước. Về văn chương: sáng tác của NĐC là bông hoa nghệ thuật tiêu biểu cho dòng văn chương đạo đức chữ tình, là lá cờ đầu của văn chương chống thực dân pháp B. Chuẩn bị. Thầy: soạn giáo án Trò: soạn bài Tiến trình tổ chức các hoạt động Hoạt động 1: kiểm tra bài cũ Đọc thuộc lòng văn bản “Lẽ ghét thương”( Trích Lục Vân Tiên ) và cho biết ông Quán thương ai, vì sao mà ông thương, cơ sở tình thương là gì? Hoạt đông 2: Giáo trìng bài mới. Hoạt động 3: Bài mới. Hoạt động của thầy. HĐ của trò Nội dung cần đạt Em hãy nêu những nét cơ bản về hoàn cảnh xuất thân của NĐC Cuộc đời NĐC có thể chia mấy giai đoạn trình bầy những nét chính của từng giai đoạn Giáo viên: khi ông đỗ tú tài có gia đình đã hứa gả con gái cho, xong sau đó thấy ông bị mù nên gia đình đó bội ước. Một học trò “Lê Tăng Quỳnh” cảm nghĩa thấy gả em gái là Lê Thi Điền cho. Đó là một người vợ đẹp cả người lẫn nết. + Từ cuộc đời của NĐC em thấy ông tóa lên những phong cách đáng quý nào? – Ý chí nghị lực sống – Giàu lòng yêu nước thương dân – Tư tưởng bất khuất trước kẻ thù + Kể tên những tác phẩm chính của NĐC + Nội dung thơ văn NĐC chia thành mấy giai đoạn – Trước khi thưc dân pháp xâm lược – Sau khi thực dân pháp xâm lược + Qua tác phẩm truyện “LVT” tác giả muốn đề cập đến vấn dề gì? Lấy ví dụ minh họa. “Khoan khoan ngồi đó chớ ra nàng là phận gái ta là phận trai” -“Gặp đây đương lúc giữa đàng, Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không Gẩm cầu báo đức thủ công, Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi Vân Tiên nghe nói liền cười Làm ơn há dễ cho người chả ơn” – “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” + Qua những câu thơ trên, NĐC muốn nói gì – Tưởng đạo đức của NĐC mang đậm lễ giáo nhà nho: Nam nữ thụ thụ bất thân – Tư tưởng hiệp nghĩa: sẵ sàng xả thân cứu người vì nghĩa hiệp ( chữ không cần báo ơn) Em có nhận xét gì về nhân vật trong chuyện LVT? Nhân vật chia thành 2 tuyến rõ rệt: – Nhân vật phản diện: Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, gia đình võ thể công … – Nhân vật chính diện: LVT, Tử Trực, hớn minh, ông quán,ông ngư, ông tiều, lão bà dệt vải là những con người không màng danh lợi không tham phú quý “xin tròn nhân nghĩa còn hơn bạc vàmg” + Đoạn trích “lẽ ghét thương, NĐC muốn liên tưởng điều gì? – So sánh tư tưởng nhân nghĩa trong thời kì phong kiến với tư tưởng nhân xã trong giai đoạn của NĐC có gì khác biệt. + Tư tương nhân nghĩa thòi kì phong kiến là trung quân nhưng tương nhân nghĩa của NĐC là xuất phát từ dân, quyền lợi của nhân dân khi thực dân pháp xâm lược, thơ văn của NĐC có sự thay đổi như thế nào? VD1: Bài thơ chạy giặc “NĐC” muốn thể hiện điều gì? VD2: Tắc đát sau ơn chúa tác bối cho nước ta; Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi cha ông nó “Văn tế xẽ sĩ cần giuộc”. VD3: “Viên đạn nghịch thần treo trước mắt lưỡi gươm địch khái nằm trong tay” “Thơ điếu Phan Tòng” VD4: “Văn tế xã sĩ cần giuộc” “ văn tế xã sĩ trận vong lục tỉnh” VD5: “Chừng nào thánh đế ân soi thấu một trân mua nhuần rưa núi rừng” (xúc cảnh) VD6: “Sự đời thà khuất đôi trong thịt lòng đạo xin tròn một tâm gương” (ngư tiều y thuật vấn đáp) > trái lại từ những ví dụ trên em hãy khái quát lại nhân dân yêu nước trong thơ văn NĐC + Em hãy cho biết những giá trị nghệ thuật trong thơ văn NĐC. – Giáo viên: Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói “thơ văn của ông như những vì sao có ánh sáng khác thường mắt chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy và càng nhìn thì càng thấy sáng” > Vẻ đep thơ văn NĐC là tiềm ẩn + Em hãy khái quát lại cuộc đời và sự nghiệp văn chương của NĐC. HSTL HSTL HSTL HSTL HSTL HSTL HS nhớ lại đoan trích “LVT cứu KNN” HSTL HSTL HSTL HSTL HSTL HSTL Đọc ghi nhớ Cuộc đời. * Hoàn cảnh xuất thân – NĐC ( 1822-1888 ) tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai ( Căn nhà tối ) – Quê: Làng Tân Thời, huyện Bình Dương tỉnh Gia Định – Cha: Nguyễn Đình Huy làm thư lại tại dinh tổng trấn Lê Văn Duyệt ở Gia Định – Mẹ: Trương Thị Thiết: vợ hai * Cuộc đời. Chia làm hai giai đoạn. Trước khi pháp xâm lược 1843 ông đỗ tú tài + 1846 ông ra Huế học chuẩn bị thi tiếp thì nhận được tin mẹ mất phải bỏ thi về Nam chịu tang ( 1949 ). Dọc đường về NĐC bị đau mắt nặng rồi bị mù cả hai mắt. + ông về quê dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân. – Sau khi thực dân pháp xâm lược (1858) – 1859 NĐCcùng các vị lãnh tụ nghĩa quân bàn mưu tính kế đánh giặc và sánh tác những vần thơ cháy bỏng căm hơn sôi sục ý chí chiến đấu. – Nam Kì mất ông ở lại Ba Tri (Bến Tre) thực dân pháp tìm mọi cách dụ dỗ mua chuộc nhưng ông khẳng khái khước từ tất cả giữ trọn tấm lòng thủy chung son sắc với nước với dân đến hơi thở cuối cùng. II. Sự nghiệp văn chương. 1.Những tác phẩm chính. ( SGK/T57 ) 2.Nội dung thơ văn a,Trước khi thực dân pháp xâm lược. Truyện “LVT” nêu cao lý tưởng đạo đức nhân nghĩa, là những bài học đạo lý làm người. – Đặc biệt ông đề cao chữ nghĩa: Biểu dương những lý tưởng đạo đức tốt đẹp giữa con người với con người quan tâm sâu sác đến quyên lợi và nguyện vọng của nhân dân. b. Sau khi thực dân pháp xâm lược Thơ văn yêu nước chống thực dân pháp + NĐC khóc than cho tổ quốc gặp buổi thương đau + là tiếng nói căm phẫn quất thẳng vào mặt kẻ thù. + Ô hết lời ca ngợi các vị lãnh tụ khởi nghĩa vì nước vì dân + Xây dựng bức tượng đai sừng sững về người xã sĩ người dân, xả thân vì nước. + Giữ niềm tin vào ngày mai tươi sáng của đất nước + Giữ thái độ bất hợp tác với thực dân pháp, với tư tưởng bất khuất. – Thơ văn yêu nước của NĐC có tác dụng cổ vũ cuộc chiến đấu chống pháp của nhân dân ta – NĐC xứng đáng là lá cờ đầu của văn học yêu nước, chống thực dân pháp, sử dụng ngòi bút làm vũ khí sắc bén để chiến đấu chống lại kẻ thù. 3. Nghệ thuật thơ văn NĐC – Văn chương NĐC không cầu kì mà chân thật giản dị. – Hình tương nhân vật mang đậm sắc thai mìên Nam. – Phong cách nổi bật: Chất chữ tình đạo đức kết hợp với chữ tình yêu nước và hình thức nóng hổi III. Tổng kết. Ghi nhớ SGK/59 IV. Luyện tập. Cảm nhân của em về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của NĐC. Hoạt động 4: Hướng dẫn học bài Nắm được những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của NĐC Soạn văn tế nghĩa sĩ cần giuộc

Tác Giả Nguyễn Đình Chiểu

Tác giả: Nguyễn Đình Chiểu

1. Cuộc đời

– Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai

– Quê: làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định

– Ông xuất thân trong gia đình nho học, năm 1843 thi đỗ tú tài ở trường thi Gia Định.

– Trên đường ra Huế học chuẩn bị thi tiếp (năm 1846) ông nhận được tin mẹ mất, phải bỏ thi về quê chịu tang, dọc đường ông bị đau mắt nặng rồi bị mù

– Không chịu khuất phục trước số phận, về quê ông mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, tiếng thơ ông Đồ Chiểu vang khắp lục tỉnh

– Khi Pháp xâm lược ông hăng hái giúp các nghĩa quân bàn mưu tính kế, bị giặc dụ dỗ mua chuộc ông khẳng khái khước từ

⇒ Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sáng ngời về nghi lực và đạo đức đặc biệt là thái độ một đời gắn bó chiến đấu không mệt mỏi vì lẽ phải, vì lợi ích của nước của dân

2. Sự nghiệp sáng tác

– Các tác phẩm chính: chủ yếu bằng chữ Nôm

+ truyện thơ dài: truyện Lục Vân Tiên, Dương Tử- Hà Mậu được sáng tác trước khi thực dân Pháp xâm lược

+ một số tác phẩm mang nội dung tư tưởng tình cảm, nghệ thuật: Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Ngư tiều y thuật vấn đáp,… sáng tác sau khi Pháp xâm lược

– Nội dung thơ văn

+ Mang nặng lí tưởng đạo đức nhân nghĩa:

* Đạo lí làm người của ông mang tinh thần nhân nghĩa của đạo Nho nhưng lại đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc

* Những mẫu người lí tưởng trong sáng tác của ông là những con người nhân hậu, ngay thẳng, thủy chung, dám đấu tranh với các thế lực tàn bạo, cứu độ nhân thế

+ Lòng yêu nước thương dân:

* Thơ văn chống Pháp của ông ghi lại chân thực một thời đại đau thương của đất nước, tố cáo tội ác kẻ thù: Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ trong trận vong Lục tỉnh,…

* Khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí cứu nước của nhân dân ta

* Biểu dương các anh hùng, nghĩa sĩ đã chiến đấu vì đất nước: Văn tế Trương Định, Kì Nhân Sư trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp

– Nghệ thuật thơ văn

+ Bút pháp trữ tình nồng đậm hơi thở cuộc sống

+ Đậm đà sắc thái Nam Bộ

+ Lối thơ thiên về kể mang màu sắc diễn xướng

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k4: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

tac-gia-tac-pham-lop-11.jsp

Soạn Bài Lớp 11: Tác Giả Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho có tấm lòng yêu nước, gắn bó tha thiết với quê hương, với nhân dân. Ông đã có những đóng góp rất lớn cho nên văn học dân tộc: văn học chữ Nôm đạt được nhiều thành tựu, hình tượng người nông dân được đưa vào văn học ở một vị trí trang trọng, tư tưởng nho gia truyền thống thống nhất với quyền lợi nhân dân lao động.

II. RÈN KĨ NĂNG

1. Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) tên tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ. Ông sinh tại quê mẹ, làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Thân phụ ông là Nguyễn Đình Huy, người Thừa Thiên. Mẹ là Trương Thị Thiệt.

Năm 1833, Nguyễn Đình Chiểu được cha đưa ra Huế ăn học. Năm 1849, ra Huế thi thì được tin mẹ mất. Ông trở về chịu tang mẹ, ông vừa ốm nặng vừa thương khó mẹ nên bị mù cả hai mắt. Chi tiết này để lại dấu ấn ở nhân vật Lục Vân Tiên. Ông chuyển sang học thuốc. Năm 1859, giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé, Nguyễn Đình Chiểu về Cần Giuộc, rồi Bến Tre. Đó là thời gian ông viết Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Ông luôn giữ thái độ kiên trung, không hợp tác với giặc.

Những sự kiện lớn trong cuộc đời đều ảnh hưởng rất lớn và để lại dấu ấn đậm nét trong các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu.

Tác phẩm chính: Truyện Lục Vân Tiên, Dương Từ – Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Văn tế nghĩa sĩ càn Giuộc, Văn tế Trương Định, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh và một số bài thơ Đường luật.

3. Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân là hình tượng thành công nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu ở cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Trước Nguyễn Đình Chiểu chưa có nhà văn nào viết riêng về người nông dân. Các nhà văn nhà thơ trung đại chỉ tập trung vào xây dựng các hình tượng các anh hùng dân tộc là các bậc quân thần với các chiến công lẫy lừng. Người nông dân xuất hiện rất mờ nhạt trong các tác phẩm của các nhà văn thời phong kiến và chưa bao giờ họ trở thành hình tượng nghệ thuật chính của tác phẩm. Nhưng đến Nguyễn Đình Chiểu, người nông dân trở thành hình tượng nghệ thuật voiư snhững phẩm chất cao đẹp của những người anh hùng.

Tác giả xây dựng một hình tượng nghệ thuật hoàn chỉnh, từ nguồn gốc xuất thân, hình thức bề ngoài, nội tâm, lí tưởng, hành động …

Người nghĩa sĩ xuất thân là những người nông dân hiền lành, chỉ biết chăm chỉ với công việc đồng áng, họ “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”, họ sống an phận sau lũy tre làng bình yên. Chưa bao giờ họ ngó đến việc quân sự. Thê nhưng khi “súng giặc đất rền”, những người nông dân vốn hiền lành an phận ấy lại là người đầu tiên đứng lên đánh giặc. Họ đánh giặc bằng những thứ vũ khí mộc mạc, đơn giản mà họ có được. Nhưng tinh thần quả cảm, lòng yêu nước đã tạo nên sức mạnh để họ từng chiến thắng kẻ thù.

Thế giặc mạnh, sức người có hạn, nên dù rất anh dũng, dù đã làm chi giặc khiếp sợ những họ vẫn không thể đánh đuổi được kẻ xâm lăng. Nhưng dù thất bại, những người nghĩa sĩ quả cảm ấy đã cho kẻ thù thấy tinh thần bất khuất và lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần trách nhiệm đối với đất nước của nhân dân lao động. Họ ra đi để lại niềm tiếc thương vô hạn cho gia đình, người thân và cả dân tộc song họ đã mang đến niềm tự hào dân tộc cho thế hệ sau.

Nguyễn Đình Chiểu đã mang đến cho văn học Việt Nam một hình tượng đẹp về lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Đó là minh chứng hùng hồn cho tinh thần và sức mạnh Việt Nam.

4. Giá trị thơ văn Nguyễn Đình Chiểu

Dù là thơ Đường luật, văn tế hay truyện thơ, nghệ sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu đều có các đặc điểm nổi bật về nội dung là ca ngợi các phẩm chất đạo đức truyền thống theo quan điểm của nhà nho như trung nghĩa, thủy chung và thể hiện lòng yêu nước sâu sắc. Sáng tác của ông thể hiện trách nhiệm của một công dân đối với dân tộc. Do hoàn cảnh, ông không thể đứng lên trực tiếp cầm vũ khí đánh giặc, nhưng những trang văn của cụ đồ Chiểu có một sức chiến đấu mạnh mẽ. Tấm lòng tha thiết với nhân dân đất nước của ông đãđánh thức lòng yêu nước trong biết bao người dân Việt Nam khi họ soi mình vào trang văn của nhà nho Nguyễn Đình Chiểu.

Về giá trị nghệ thuật: ngôn ngữ và cách diễn đạt bình dị, mộc mạc, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân; kết hợp tính cổ điển với tính dân gian, bút pháp lý tưởng hoá với tả thực; đậm đà bản sắc dân tộc, đặc biệt là bản sắc địa phương Nam Bộ.

III. TƯ LIỆU THAM KHẢO “Con người ta nếu có giáo dục khá thì thường được hướng dẫn trong sự xử thế bởi những nguyên tắc đạo đức nhất định. Nhưng, thường hơn hết là, trong sự xử thế, ta được hướng dẫn bởi những mẫu người mà ta chọn trong tâm trí của ta. Cụ Nguyễn Đình Chiểu là một trong những mẫu người đầu tiên mà tôi chọn để trong tâm trí của tôi không biết từ hồi nào. Học giỏi, thi đỗ, không có gì đáng phục. Đáng phục là đã đui mù rồi mà không thối trí nản lòng, không cầu an tọa lạc, mà lại quyết tâm học thuốc thật giỏi, không phải để sinh sống mà để giúp đời, kiên trì viết sách, không phải để lấy tiếng mà để truyền bá nhân nghĩa và cổ động lòng ưu quốc vị dân. Chí ấy quý lắm. Đáng phục hơn nữa là, đã mang tật đui mù rồi mà còn tích cực tham gia cuộc đấu tranh chống kể xâm lăng. Chắc không ai nỡ trách móc một người mù lòa hoặc ở tại nhà, hoặc tị địa rất xa, một khi giặc Pháp giẫm chân lên thành Phụng. Nhưng Đồ Chiểu của chúng ta đã không ở lại mà cũng không lánh xa; Đồ Chiểu về với đốc binh là cầm đầu nghĩa quân Cần Giuộc và giúp sức Trương Định dựng cờ khởi nghĩa tại Tân Hòa. Cái dũng ấy của người mù là một tấm gương xử thế trong sáng, khiến mỗi người trai máu nóng không thể nào điềm nhiên tọa thị trước cảnh ngựa mình người ta cưỡi, dân tộc mình lũ quỷ giày xéo. Thua cuộc rồi, Nguyễn Đình Chiểu lưng vẫn thẳng, đầu vẫn cao, ngay kẻ thù cũng phải kính nể. Pháp định trả lại đất nhà của cụ ở Gia Định chăng? Cụ rằng: nước chung đã mất, nhà riêng còn đâu! Pháp toan kế đưa tiền cho cụ chăng, lấy danh nghĩa lạc quyên giúp nhà thơ cơn túng thiếu, hoặc lấy cớ trả tiền nhuận bút bản quyền, cụ rằng không cần thiết vì đã sống đầy đủ và vinh dự trong lòng thương của môn đệ và đồng bào! Tiết ấy, ai hơn? Suốt đời áo vải, tuy Gia Định, Ba Tri là những xứ nuôi tằm dệt lụa nhưng mỗi lúc giảng kinh truyện thì- khăn áo chỉnh tề. Trong nhà, thư sinh chen vai. Ngoài ngõ, nối nhau người đến xem mạnh bốc thuốc. Đồ Chiểu là lương y của cả thể xác và tâm hồn. Mù lòa, cụ không ngại đến tận nhà con bệnh. Nếu về sau có thầy thuốc nổi tiếng dán câu đối trước cửa “Đau tiếc thân, lành tiếc của, thói đời là thế; Mất lòng trước, được lòng sau, trả tiền mới hốt” thì trái lại, Nguyễn Đình Chiểu là người lấy âm đức làm mục đích, quên cái đau khổ riêng của mình để chữa cái đau chung của thiên hạ. Đứa ăn mày cũng trời sinh,Vì vậy, cụ xem việc chữa bệnh như một cuộc chiến đấu: Trận đồ tám quẻ còn roi dấuQuý thay lòng Đồ Chiểu! Cho nên ngày đưa linh cụ, một cánh đồng Ba Tri rợp trắng những khăn tang; môn đệ, bệnh nhân, đồng bào vĩnh biệt một con người mà cuộc đời trọn vẹn là tấm gương chí công mài sắt, phục vụ không điều kiện, phò đời cứu dân, tấm gương tiết nghĩa, dũng cảm!… Biết bao văn sĩ, ta chỉ thích họ trong văn chương, mà chưa được phục họ trong đời sống. Còn với thầy Nguyễn Đình Chiểu, văn với đời là một, chỉ là một”. “Chủ nghĩa yêu nước trong văn chương thời kỳ lịch sử cận và hiện đại bắt đầu với Nguyễn Đình Chiểu. Có người bảo: đúng Nguyễn Đình Chiểu khai sáng văn chương yêu nước; nhưng sau cụ còn biết bao nhiêu nhà văn yêu nước khác, thì chủ nghĩa yêu nước của cụ có những nét riêng biệt nào? – Ở Nguyễn Đình Chiểu, yêu nước, trước hết là thương dân. Nguyễn Đình Chiểu nói nhiều đến nhân dân, ít khi nói đến xã tắc. Ông Quán nói về thương ghét thì bao giờ cũng đối lập vua ác với dân lành: Tử Trực khen rằng chùa đất Phật vàng và hỏi ông Quán Thương dân sao chẳng lập thân? Nói một cách khác, việc lập thân của Tử Trực, Vân Tiên, Hớn Minh đều vì lẽ “thương dân” vậy. Trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, “dân” chiếm một miếng đất khá lớn. Mà “dân” thì đáng chú ý nhất là dân đen, dân nghèo, dân ấp, dân lân. Ta chưa hề thấy ở đâu trong văn chương Việt Nam trước Nguyễn Đình Chiểu, nói đến người dân, người dân nghèo với một lòng yêu mến, khâm phục như trong văn chương của Nguyễn Đình Chiểu; ta chưa hề thấy ai như Nguyễn Đình Chiểu xem dân ấp, dân lân như những người tiêu biểu nhất cho tinh thần yêu nước, cho ý chí quật cường của đất nước trong cơn khói lửa. Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa yêu nước trong văn chương Nguyễn Đình Chiểu là ở đó. Mấy ai vượt khỏi điều kiện lịch sử? Cho nên Nguyễn ĐìnhTấm lòng yêu nước thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu, hễ có dịp thì bộc lộ rất cảm động. Ngư Tiều vừa gặp nhau đã than thở vì nước nhà bị xâm lăng, chia cắt: U, Yên mấy quận, cắt bồi Khiết Đan. Ngư, Tiều, Đường, Chu, bốn người bạn gặp nhau vui mừng là vui mừng vì thấy cả bốn đều trong sạch, không chịu phò quân cướp nước. Câu chuyện này hẳn là không nhất thiết phải có để mở đầu cho việc trình bày y thuật, nhưng tác giả Ngư Tiều y thuật vấn đáp là người chiến sĩ yêu nước, cho nên không tách rời dầu một phút “chuyên môn” ra khỏi “chính trị”. Mà làm như thế có gượng gạo gì đâu? Trái lại hết sức tự nhiên như thuyền chài trên nước. Lục Vân Tiên là Nguyễn Đình Chiểu trước 1859. Nhân Sư là Nguyễn Đình Chiểu sau 1867. Vân Tiên mù vì khóc mẹ. Nhân Sư mù vì quyết giữ tiết tháo với non sông, để cho lòng đạo tròn gương.” Chiểu vẫn nói đến chúa, mong ở vua. Nhưng, Nguyễn Đình Chiểu dường như có đặt điều kiện cho việc trung quân: phải là vua hiền, vua kháng chiến thì mới được cụ tôn kính. Hãy nhớ những cái ghét của ông Quán. Hãy nhớ rằng, thuở ấy, hết lời ca tụng một vị tướng không nghe chiếu thiên tử mà thuận theo bụng nhân dân, là một thái độ can đảm phi thường. Theo chúng tôi Binh pháp năm mùi sẵn cỏ cây.

Bệnh còn cứu đặng thuốc dành cho không.

Trần Văn Giàu

(Vì sao tôi thích đọc Nguyễn Đình Chiểu? Mấy vấn đề về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, Sđd)

Trần Văn Giàu

(Vì sao tôi thích đọc Nguyễn Đình Chiểu? Sđd, tr.58- 60)

Giới Thiệu Về Tác Giả Nguyễn Đình Chiểu

– Nguyễn Đình Chiểu(1822-1888) tự là mạch trạch, hiệu trọng phủ, hối trai, sinh ra huyện Bình Dương tỉnh Gia Định nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh.

-Xuất thân trong một gia đình nhà nho, ông là một người có tấm lòng yêu nước thương dân cả cuộc đời của ông đều có gắng đóng góp cho đất nước.

– Vào những năm 50 Nguyễn Đình Chiểu bị mù và về quê dạy học.

– Cuộc đời của nhà thơ là tấm gương sáng, cao đẹp cho nhân cách và nghị lực của con người tuy bị mù những những đóng góp của ông không hề nhỏ và những tác phẩm của ông đậm chất hiện thực và phê phán sâu sắc.

II. Giá trị thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu.

– Lý tưởng đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu được xây dựng chủ yếu trên cơ sở: Nguyễn Đình Chiểu viết truyện Lục Vân Tiên nhằm mục đích truyền dạy những bài học về đạo làm người chân chính.

Đạo lý làm người của Nguyễn Đình Chiểu mang tinh thần nhân nghĩa của đạo Nho, nhưng lại rất đậm đà tính nhân dân, truyền thống dân tộc, những mẫu người lý tưởng là những con người sống chung thủy, biết giữ gìn nhân cách ngay thẳng, cao cả, dám đấu tranh và có đủ sức mạnh để chiến thắng nững thế lực bạo tàn, cứu nhân độ thế.

– Nội dung trữ tình yêu nước của Nguyễn Đỉnh Chiểu: Ông đã sáng tác những tác phẩm đáp ứng nhu cầu xuất sắc yêu cầu của cuộc chiến tranh đấu giữ nước buổi ấy, thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu ghi lại chân thực một thời đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù giặc sâu sắc.

– Tác động của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu: Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu đã để lại những giá trị tố cáo sâu sắc qua những câu thơ mang giá trị tố cáo sâu sắc,ông đã thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc của mình qua tác phẩm Chạy giặc, văn tế nghĩa sĩ cần giuộc…

Mỗi lời thơ của ông viết lên đều mang đậm giá trị tố cáo sâu sắc, bên cạnh đó cũng có rất nhiều những câu thơ nhằm ca ngợi những vị anh hùng của dân tộc, những người đã xả thân vì dân vì nước, trong đó Nguyễn ĐỈnh Chiểu là tấm gương sáng trong những vị anh hùng đó.

– Sắc thái Nam Bộ của Nguyễn Đình Chiểu biểu hiện ở những điểm: thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu rất đậm sắc thái Nam Bộ, mỗi người Nam Bộ đều có thể bắt gặp mình ở các nhân vật của ông, từ lời ăn tiếng nói mộc mạc đến tâm hồn bình dị, chất phác, cách cư xử phóng khoáng hồn nhiên ngây thơ, lối thơ của ông cũng nghiêng về kể các câu truyện mang màu sắc diễn xướng.

III. So sánh tư tưởng trong bài của Nguyễn Đình Chiểu và Nguyễn Trãi:

– Nguyễn Trãi là mang tư tưởng vì dân, cốt ở yên dân quân điếu phạt trước lo trừ bạo, như nước Đại Việt ta từ trước đã mang nền văn hiến đã lâu.

– Nguyễn Đình Chiểu: cũng mang tư tưởng vì dân vì nước cả hai người này đều có tư tưởng vì dân vì nước.

Hai vị nhân tài của đất nước đều là những người hết lòng vì nhân dân trong tư tưởng của mình ông đã cố gắng bày tỏ được những tư tưởng cốt yếu của mình trong thơ ca, mỗi tác phẩm đều thể hiện được tư tưởng yêu dân, mọi lợi ích đều hướng tới nhân dân, nhân dân làm chủ và chiến đấu trên ngòi bút của mình hai người vẫn luôn muốn hướng tới vấn đề đạo đức trong tư tưởng cốt ở dân của mình.

Sự khác nhau: mỗi người có một phong cách viết riêng nhưng mục đích chúng đều phục vụ cho đất nước.

Cập nhật thông tin chi tiết về Giáo Án Ngữ Văn 11: Đọc Văn Tác Giả: Nguyễn Đình Chiểu trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!