Bạn đang xem bài viết Bài Văn: Soạn Bài: Uy được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
I. Kiến thức cơ bản 1. Tóm tắt đoạn trích Sau khi hạ được thành Tơ-roa, Uy-lít-xơ “hồi quân” trở về quê hương. Chàng phải lênh đênh góc biển chân trời mười năm đằng đẵng mà vẫn chưa về tới quê nhà. Chàng bị nữ thần Ca-líp-xô, vì yêu chàng nên cầm giữ. Cảm thương số phận Uy-lít-xơ, thần Dớt sai Héc-mét đến lệnh cho Ca-líp-xô phải để chàng đi. Bị bão đánh chìm bè, chàng dạt vào xứ Phê-a-ki, được công chúa Nô-xi-ca yêu và nhà vua tiếp đãi tử tế. Theo ý nhà vua, Uy-lít-xơ kể lại những chuyện li kì, mạo hiểm trên bước đường gian truân phiêu bạt của mình cùng đồng đội: chuyện thoát khỏi xứ sở những tên khổng lồ một mắt, chuyện thoát khỏi tiếng hát đầy quyến rũ của các nàng tiên cá Xi-ren nguy hiểm,… Cảm phục, nhà vua cho thuyền đưa chàng về quê hương I-tác. Về đến nhà, chàng giả dạng người hành khất nên Pê-nê-lốp, vợ chàng, không nhận ra. Để trả lời sự thúc ép của bọn cầu hôn, Pê-nê-lốp thách ai giương được chiếc cung của Uy-lít-xơ và bắn một phát xuyên qua mười hai chiếc vòng rìu thì sẽ lấy người đó. Tất cả bọn cầu hôn đều thất bại, Uy-lít-xơ xin được bắn và chàng đã thắng. Nhân cơ hội đó, cha con chàng trừng trị bọn cầu hôn cùng những gia nhân phản bội. 2. Đoạn trích là cảnh gặp gỡ của hai vợ chồng sau hai mươi năm xa cách nhưng nó diễn ra không bình thường mà trở thành một cảnh nhận mặt. Trong cảnh ấy các nhân vật đã thử thách lẫn nhau để tìm về hạnh phúc. Câu chuyện là bài ca về vẻ đẹp trí tuệ và khát vọng hạnh phúc của người Hi Lạp. Nó nhắc nhở ta tình cảm gia đình bao giờ cũng rất cao quý, thiêng liêng. II. Hướng dẫn học bài Câu 1: Cảnh này có thể chia thành hai phần: – Phần một từ đầu đến “…người kém gan dạ”. Cuộc đối thoại giữa bốn nhân vật (nhũ mẫu Ơ-ri-clê, con trai Tê-lê-mác, Pê-nê-lốp, Uy-lít-xơ), Pê-nê-lốp thận trọng chưa chịu nhận chồng. – Phần hai là đoạn còn lại. Pê-nê-lốp thử thách Uy-lít-xơ về bí mật của chiếc giường. Pê-nê-lốp nhận ra chồng. Câu 2: – Khi Pê-nê-lốp không chịu nhận chàng là người chồng Uy-lít-xơ, chàng vẫn mỉn cười bảo: “Đừng làm rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thế nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy?”. Điều này thể hiện sự nhẫn nãi, bình tĩnh của Uy-lít-xơ, đồng thời thể hiện niềm tin mãnh liệt của chàng đối với vợ.
– Uy-lít-xơ bàn với con là Tê-lê-mác việc đối phó với những gia đình quyền quý có người bị chàng giết. Điều này thể hiện sự khôn ngoan, sáng suốt của Uy-lít-xơ. – Uy-lít-xơ hờn dỗi khi Pê-nê-lốp mãi vẫn không nhận ra chàng và chàng khóc khi nghe vợ giải thích nguyên nhân. Điều đó chứng tỏ Uy-lít-xơ là một người rất giàu tình cảm và rất yêu vợ. Câu 3: Pê-nê-lốp “lòng vẫn rất đỗi phân vân” vì nếu những vị hành khất là chồng nàng thực thì tại sao trong lần gặp trước lại không nói ra. Hơn nữa, nếu Pê-nê-lốp vội vã mà nhận lầm thì danh dự của nàng sẽ bị tổn thương rất lớn (điều tối kỵ của người Hi Lạp). Pê-nê-lốp có nhiều phẩm chất cao đẹp, đặc biệt là trí tuệ sắc sảo, sự bình tĩnh tự tin và luôn thận trọng trong mọi tình huống. Khi nàng nhấn mạnh “cha và mẹ… không ai biết hết” chính là lúc nàng cố ý tạo ra một hoàn cảnh thử thách đối với Uy-lít-xơ. Nó là gợi ý về dấu hiệu nhận ra nhau của vợ chồng nàng. Câu nói ấy vừa thể hiện sự thận trọng, vừa thể hiện sự thông minh sắc sảo của Pê-nê-lốp. Thực ra Pê-nê-lốp không phải là người “bao giờ lòng dạ cũng rắn hơn cả đá”, có “một trái tim sắt đá hơn ai hết”. Hai mươi năm phải làm chủ gia đình, lại phải đối diện với bao thử thách, nàng đã phải tạo cho mình cái vỏ bọc cứng rắn. Có như vậy nàng mới chờ được đến ngày người chồng trở về để được ùa vào lòng chàng mà bật lên bao nhiêu cảm xúc dồn nén mấy chục năm. Pê-nê-lốp phải dùng đến cách thử bí mật của chiếc giường trong màn nhận mặt nàng vì bí mật ấy giúp giải toả được nhiều mối nghi ngờ. Trước hết, để Pê-nê-lốp biết đó không phải là Uy-lít-xơ giả. Sau nữa, nó còn là minh chứng cho lòng chung thuỷ của nàng. Nếu chiếc giường đã bị chuyển đi hoặc đã không còn là bí mật của riêng hai vợ chồng nữa thì cũng có nghĩa là phẩm giá của Pê-nê-lốp cũng không còn nguyên vẹn. Phép thử ấy không những chỉ nói lên phẩm chất kiên trinh của Pê-nê-lốp mà còn khắc sâu sự bền vững của tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng cha con. Qua hành động của Pê-nê-lốp (một sự cẩn trọng gần như thái quá) chúng ta có thể thấy được tính chất phức tạp của thời đại – nơi mà những hiểm nguy luôn rình rập, đe doạ con người. Câu 4: Cách kể của Hô-me-rơ qua đoạn này thể hiện đặc trưng của phong cách kể chuyện sử thi, vừa chậm rãi, vừa tỉ mỉ, trang trọng. Ở đoạn trích này Pê-nê-lốp nghi ngờ, không tin Uy-lít-xơ là người chồng xa cách của mình. Do đó kiểu kể chuyện tỉ mỉ này tạo ra những đoạn đối thoại mang hình thức thăm dò, thử phản ứng từ đó dẫn tới bản chất của vấn đề. Để khắc hoạ bản chất nhân vật, Hô-me-rơ thường sử dụng hình thức gọi nhân vậ bằng cụm danh – tính từ rất phổ biến trong sử thi Hi Lạp (ví dụ: Pê-nê-lốp thận trọng, nhũ mẫu Ơ-ri-clê hiền thảo, Uy-lít-xơ cao quý và nhẫn nại…). Điều này tạo cho sử thi phong cách riên, hấp dẫn, đặc sắc. Biện pháp nghệ thuật được Hô-me-rơ sử dụng ở khố cuối đoạn trích (“Dịu hiền”… “buông rời”) là biện pháp so sánh có đuôi dài, ở đây, Hô-me-rơ đã ví niềm vui tái ngộ của Pê-nê-lốp với Uy-lít-xơ cũng giống như hạnh phúc của con người thoát nạn biển khởi. Vế so sánh được nói trước, dài hơn với hình ảnh cụ thể, sinh động, như cái đòn bẩy nghệ thuật nhằm tôn lên sự việc được so sánh, tạo hiệu quả đặc biệt cho câu văn.
Sau khi hạ được thành Tơ-roa, Uy-lít-xơ “hồi quân” trở về quê hương. Chàng phải lênh đênh góc biển chân trời mười năm đằng đẵng mà vẫn chưa về tới quê nhà. Chàng bị nữ thần Ca-líp-xô, vì yêu chàng nên cầm giữ. Cảm thương số phận Uy-lít-xơ, thần Dớt sai Héc-mét đến lệnh cho Ca-líp-xô phải để chàng đi. Bị bão đánh chìm bè, chàng dạt vào xứ Phê-a-ki, được công chúa Nô-xi-ca yêu và nhà vua tiếp đãi tử tế. Theo ý nhà vua, Uy-lít-xơ kể lại những chuyện li kì, mạo hiểm trên bước đường gian truân phiêu bạt của mình cùng đồng đội: chuyện thoát khỏi xứ sở những tên khổng lồ một mắt, chuyện thoát khỏi tiếng hát đầy quyến rũ của các nàng tiên cá Xi-ren nguy hiểm,… Cảm phục, nhà vua cho thuyền đưa chàng về quê hương I-tác. Về đến nhà, chàng giả dạng người hành khất nên Pê-nê-lốp, vợ chàng, không nhận ra. Để trả lời sự thúc ép của bọn cầu hôn, Pê-nê-lốp thách ai giương được chiếc cung của Uy-lít-xơ và bắn một phát xuyên qua mười hai chiếc vòng rìu thì sẽ lấy người đó. Tất cả bọn cầu hôn đều thất bại, Uy-lít-xơ xin được bắn và chàng đã thắng. Nhân cơ hội đó, cha con chàng trừng trị bọn cầu hôn cùng những gia nhân phản bội.Đoạn trích là cảnh gặp gỡ của hai vợ chồng sau hai mươi năm xa cách nhưng nó diễn ra không bình thường mà trở thành một cảnh nhận mặt. Trong cảnh ấy các nhân vật đã thử thách lẫn nhau để tìm về hạnh phúc. Câu chuyện là bài ca về vẻ đẹp trí tuệ và khát vọng hạnh phúc của người Hi Lạp. Nó nhắc nhở ta tình cảm gia đình bao giờ cũng rất cao quý, thiêng liêng.Cảnh này có thể chia thành hai phần:- Phần một từ đầu đến “…người kém gan dạ”. Cuộc đối thoại giữa bốn nhân vật (nhũ mẫu Ơ-ri-clê, con trai Tê-lê-mác, Pê-nê-lốp, Uy-lít-xơ), Pê-nê-lốp thận trọng chưa chịu nhận chồng.- Phần hai là đoạn còn lại. Pê-nê-lốp thử thách Uy-lít-xơ về bí mật của chiếc giường. Pê-nê-lốp nhận ra chồng.- Khi Pê-nê-lốp không chịu nhận chàng là người chồng Uy-lít-xơ, chàng vẫn mỉn cười bảo: “Đừng làm rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thế nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy?”. Điều này thể hiện sự nhẫn nãi, bình tĩnh của Uy-lít-xơ, đồng thời thể hiện niềm tin mãnh liệt của chàng đối với vợ.- Uy-lít-xơ bàn với con là Tê-lê-mác việc đối phó với những gia đình quyền quý có người bị chàng giết. Điều này thể hiện sự khôn ngoan, sáng suốt của Uy-lít-xơ.- Uy-lít-xơ hờn dỗi khi Pê-nê-lốp mãi vẫn không nhận ra chàng và chàng khóc khi nghe vợ giải thích nguyên nhân. Điều đó chứng tỏ Uy-lít-xơ là một người rất giàu tình cảm và rất yêu vợ.Pê-nê-lốp “lòng vẫn rất đỗi phân vân” vì nếu những vị hành khất là chồng nàng thực thì tại sao trong lần gặp trước lại không nói ra. Hơn nữa, nếu Pê-nê-lốp vội vã mà nhận lầm thì danh dự của nàng sẽ bị tổn thương rất lớn (điều tối kỵ của người Hi Lạp).Pê-nê-lốp có nhiều phẩm chất cao đẹp, đặc biệt là trí tuệ sắc sảo, sự bình tĩnh tự tin và luôn thận trọng trong mọi tình huống. Khi nàng nhấn mạnh “cha và mẹ… không ai biết hết” chính là lúc nàng cố ý tạo ra một hoàn cảnh thử thách đối với Uy-lít-xơ. Nó là gợi ý về dấu hiệu nhận ra nhau của vợ chồng nàng. Câu nói ấy vừa thể hiện sự thận trọng, vừa thể hiện sự thông minh sắc sảo của Pê-nê-lốp.Thực ra Pê-nê-lốp không phải là người “bao giờ lòng dạ cũng rắn hơn cả đá”, có “một trái tim sắt đá hơn ai hết”. Hai mươi năm phải làm chủ gia đình, lại phải đối diện với bao thử thách, nàng đã phải tạo cho mình cái vỏ bọc cứng rắn. Có như vậy nàng mới chờ được đến ngày người chồng trở về để được ùa vào lòng chàng mà bật lên bao nhiêu cảm xúc dồn nén mấy chục năm.Pê-nê-lốp phải dùng đến cách thử bí mật của chiếc giường trong màn nhận mặt nàng vì bí mật ấy giúp giải toả được nhiều mối nghi ngờ. Trước hết, để Pê-nê-lốp biết đó không phải là Uy-lít-xơ giả. Sau nữa, nó còn là minh chứng cho lòng chung thuỷ của nàng. Nếu chiếc giường đã bị chuyển đi hoặc đã không còn là bí mật của riêng hai vợ chồng nữa thì cũng có nghĩa là phẩm giá của Pê-nê-lốp cũng không còn nguyên vẹn. Phép thử ấy không những chỉ nói lên phẩm chất kiên trinh của Pê-nê-lốp mà còn khắc sâu sự bền vững của tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng cha chúng tôi hành động của Pê-nê-lốp (một sự cẩn trọng gần như thái quá) chúng ta có thể thấy được tính chất phức tạp của thời đại – nơi mà những hiểm nguy luôn rình rập, đe doạ con người.Cách kể của Hô-me-rơ qua đoạn này thể hiện đặc trưng của phong cách kể chuyện sử thi, vừa chậm rãi, vừa tỉ mỉ, trang trọng. Ở đoạn trích này Pê-nê-lốp nghi ngờ, không tin Uy-lít-xơ là người chồng xa cách của mình. Do đó kiểu kể chuyện tỉ mỉ này tạo ra những đoạn đối thoại mang hình thức thăm dò, thử phản ứng từ đó dẫn tới bản chất của vấn đề.Để khắc hoạ bản chất nhân vật, Hô-me-rơ thường sử dụng hình thức gọi nhân vậ bằng cụm danh – tính từ rất phổ biến trong sử thi Hi Lạp (ví dụ: Pê-nê-lốp thận trọng, nhũ mẫu Ơ-ri-clê hiền thảo, Uy-lít-xơ cao quý và nhẫn nại…). Điều này tạo cho sử thi phong cách riên, hấp dẫn, đặc sắc.Biện pháp nghệ thuật được Hô-me-rơ sử dụng ở khố cuối đoạn trích (“Dịu hiền”… “buông rời”) là biện pháp so sánh có đuôi dài, ở đây, Hô-me-rơ đã ví niềm vui tái ngộ của Pê-nê-lốp với Uy-lít-xơ cũng giống như hạnh phúc của con người thoát nạn biển khởi. Vế so sánh được nói trước, dài hơn với hình ảnh cụ thể, sinh động, như cái đòn bẩy nghệ thuật nhằm tôn lên sự việc được so sánh, tạo hiệu quả đặc biệt cho câu văn.
Soạn Bài Môn Văn Lớp 10 Bài Uy
1. Soạn bài Uy-Lít-Xơ trở về mẫu 1 1.1. Tìm hiểu chung
Việc tìm hiểu chung giúp chúng ta hiểu rõ về nội dung, ý nghĩa của bài, và trả lời câu hỏi cuối bài.
Nội dung chính:Đoạn trích kể về cảnh gặp gỡ của hai vợ chồng Uy – lít – xơ sau hai mươi năm xa cách. Trong cảnh ấy các nhân vật đã thử thách lẫn nhau để tìm về hạnh phúc. Câu chuyện ngợi ca vẻ đẹp trí tuệ và khát vọng hạnh phúc của người Hi Lạp. Nó nhắc nhở ta tình cảm gia đình bao giờ cũng rất cao quý, thiêng liêng.
Mở bài Uy-Lít-Xơ trở về
Kết bài Uy-Lít-Xơ trở về
Ý nghĩa văn bản:– Ca ngợi tình vợ chồng son sắt, thủy chung.
– Ca ngợi trí tuệ và đạo đức con người.
1.2. Câu 1 (trang 52 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1)Bố cục: 2 phần
– Phần 1 (từ đầu…người kém gan dạ): Cuộc đối thoại giữa bốn nhân vật, Pê – nê – lốp chưa chịu nhận chồng.
– Phần 2 (còn lại): Vượt qua thử thách, Uy – lít – xơ được đoàn tụ cùng gia đình.
1.3. Câu 2 (trang 52 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1)– Tâm trạng của Uy – lít – xơ khi gặp lại vợ và gia đình:
+ Vui vẻ, mừng rỡ, vui sướng.
+ Bình tĩnh, sáng suốt.
+ Nhẫn nại mỉm cười với con trai.
– Cách ứng xử của chàng bộc lộ phẩm chất:
+ Cao quý: yêu thương vợ con, quê hương.
+ Nhẫn nại: bị Pê – nê – lốp dửng dung, thử thách mà không hề tức giận.
+ Khôn ngoan: hiểu được tấm lòng của Pê – nê – lốp, lo liệu trước mọi chuyện để đối phó với những kẻ cầu hôn vừa bị giết.
1.4. Câu 3 (trang 52 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1)– Pê – nê – lốp “lòng vẫn rất đỗi phân vân” vì Uy – lít – xơ xuất hiện với bộ dạng của người hành khất, quần áo rách mướp…Nàng không muốn nhận nhầm chồng vì đó là điều tối kị của người Hi Lạp.
– Pê – nê – lốp đặt ra thử thách “bí mật của chiếc giường” cho thấy nàng là con người trí tuệ sắc sảo, thận trọng, bình tĩnh, tự tin và giàu lòng yêu thương.
1.5. Câu 4 (trang 52 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1)– Cách kể của Hô – me – rơ qua đoạn trích thể hiện đặc trưng phong cách sử thi: chậm rãi, tỉ mỉ, trang trọng.
– Tác giả dùng cụm danh – tính từ để gọi nhân vật, khắc họa bản chất của nhân vật.
– Ở đoạn cuối, tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh mở rộng và so sánh có đuôi dài.
1.6. Luyện tập Câu 1 (trang 52 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):Tổ chức diễn kịch cảnh “cảnh nhận mặt bằng phép thử bí mật của chiếc giường”.
Câu 2 (trang 52 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):Kể lại đoạn trích Uy-lít-xơ trở về trích Ô-đi-xê – sử thi Hi Lạp theo nhân vật Uy-lít-xơ
Nhập vai kể lại cảnh:
Sau khi tiêu diệt hết bọn cầu hôn và cùng với con trai Tê – lê – mác trừng phạt lũ đầy tớ, ta hồi hộp đợi mong thời khắc, Pê – nê – lốp nhận ra ta. Thế nhưng hôm ấy, ta ngồi đợi rất lâu nàng yên lặng bước vào và lặng thing không nói. Trong lúc đang băn khoăn thì Tê – lê – mác lên lời trách mẹ. Nàng khẳng định với con trai nếu ta đúng là chồng nàng thật thì hẳn sẽ có những dấu hiệu riêng để nhận ra nhau. Ta trở về ngồi đối diện vớ Pê – nê – lốp trên chiếc ghé bành rồi nhắc nhũ mẫu Ơ – ri – clê chuẩn bị kê riêng cho mình một chiếc giường để ngủ. Nghe Pê – nê – lốp nói, ta bỗng nhắc lại tất cả bí mật về quá trình chế tác chiếc giường xưa. Vừa mới nói dứt lời, ta thấy Pê – nê – lốp chạy đến ôm chầm lấy cổ ta và nói lời yêu thương nghẹn ngào trong nước mắt. Ta ôm chặt nàng, người vợ xiết bao thân yêu, người bạn đời thủy chung sau bao nhiêu năm xa cách.
2. Soạn bài Uy-Lít-Xơ trở về mẫu 2 2.1. KIẾN THỨC CƠ BẢNTóm tắt đoạn trích
Sau khi hạ được thành Tơ-roa, Uy-lít-xơ “hồi quân” trở về quê hương. Chàng phải lênh đênh góc biển chân trời mười năm đằng đẵng mà vẫn chưa về tới quê nhà. Chàng bị nữ thần Ca-líp-xô, vì yêu chàng nên cầm giữ. Cảm thương số phận Uy-lít-xơ, thần Dớt sai Héc-mét đến lệnh cho Ca-líp-xô phải để chàng đi. Bị bão đánh chìm bè, chàng dạt vào xứ Phê-a-ki, được công chúa Nô-xi-ca yêu và nhà vua tiếp đãi tử tế. Theo ý nhà vua, Uy-lít-xơ kể lại những chuyện li kì, mạo hiểm trên bước đường gian truân phiêu bạt của mình cùng đồng đội: chuyện thoát khỏi xứ sở những tên khổng lồ một mắt, chuyện thoát khỏi tiếng hát đầy quyến rũ của các nàng tiên cá Xi-ren nguy hiểm,… Cảm phục, nhà vua cho thuyền đưa chàng về quê hương I-tác. Về đến nhà, chàng giả dạng người hành khất nên Pê-nê-lốp, vợ chàng, không nhận ra. Để trả lời sự thúc ép của bọn cầu hôn, Pê-nê-lốp thách ai giương được chiếc cung của Uy-lít-xơ và bắn một phát xuyên qua mười hai chiếc vòng rìu thì sẽ lấy người đó. Tất cả bọn cầu hôn đều thất bại, Uy-lít-xơ xin được bắn và chàng đã thắng. Nhân cơ hội đó, cha con chàng trừng trị bọn cầu hôn cùng những gia nhân phản bội.
Đoạn trích là cảnh gặp gỡ của hai vợ chồng sau hai mươi năm xa cách nhưng nó diễn ra không bình thường mà trở thành một cảnh nhận mặt. Trong cảnh ấy các nhân vật đã thử thách lẫn nhau để tìm về hạnh phúc. Câu chuyện là bài ca về vẻ đẹp trí tuệ và khát vọng hạnh phúc của người Hi Lạp. Nó nhắc nhở ta tình cảm gia đình bao giờ cũng rất cao quý, thiêng liêng.
2.2. RÈN KĨ NĂNG1. Cảnh này có thể chia thành hai phần: Phần một từ đầu đến “…người kém gan dạ” và phần hai là đoạn còn lại.
Đoạn 1 (từ đầu đến… xác chết của bọn cầu hôn và người giết chúng.), Ơ-ri-clê và Pê-nê-lốp: Ơ-ri-clê báo tin và thuyết phục Pê-nê-lốp.
Đoạn 2 (từ Nói xong, nàng bước xuống lầu cho đến chúng tôi cũng không phải là người kém gan dạ), Tê-lê-mác, Uy-lít-xơ và Pê-nê-lốp: Thái độ của Tê-lê-mác đối với việc mẹ không chịu thừa nhận cha.
Đoạn 3 (phần còn lại), Pê-nê-lốp và Uy-lít-xơ: Pê-nê-lốp thử thách Uy-lít-xơ, vợ chồng đoàn tụ.
2. Đối thoại của các nhân vật trong các đoạn ấy thể hiện những sắc thái tình cảm riêng: đối thoại của nhũ mẫu Ơ-ri-clê cho thấy niềm vui sướng của người đầy tớ trung thành gắn bó với gia đình, đối thoại của Pê-nê-lốp với nhũ mẫu cho thấy sự thanh thản, với con trai lại cho thấy sự phân vân v.v…
3. Pê-nê-lốp “lòng vẫn rất đỗi phân vân” vì nếu những vị hành khất là chồng nàng thực thì tại sao trong lần gặp trước lại không nói ra. Hơn nữa, nếu Pê-nê-lốp vội vã mà nhận lầm thì danh dự của nàng sẽ bị tổn thương rất lớn (điều tối kỵ của người Hi Lạp).
4. Pê-nê-lốp có nhiều phẩm chất cao đẹp, đặc biệt là trí tuệ sắc sảo, sự bình tĩnh tự tin và luôn thận trọng trong mọi tình huống. Khi nàng nhấn mạnh “cha và mẹ… không ai biết hết” chính là lúc nàng cố ý tạo ra một hoàn cảnh thử thách đối với Uy-lít-xơ. Nó là gợi ý về dấu hiệu nhận ra nhau của vợ chồng nàng. Câu nói ấy vừa thể hiện sự thận trọng, vừa thể hiện sự thông minh sắc sảo của Pê-nê-lốp.
Thực ra Pê-nê-lốp không phải là người “bao giờ lòng dạ cũng rắn hơn cả đá”, có “một trái tim sắt đá hơn ai hết”. Hai mươi năm phải làm chủ gia đình, lại phải đối diện với bao thử thách, nàng đã phải tạo cho mình cái vỏ bọc cứng rắn. Có như vậy nàng mới chờ được đến ngày người chồng trở về để được ùa vào lòng chàng mà bật lên bao nhiêu cảm xúc dồn nén mấy chục năm.
5. Pê-nê-lốp phải dùng đến cách thử bí mật của chiếc giường trong màn nhận mặt nàng vì bí mật ấy giúp giải tỏa được nhiều mối nghi ngờ. Trước hết, để Pê-nê-lốp biết đó không phải là Uy-lít-xơ giả. Sau nữa, nó còn là minh chứng cho lòng chung thủy của nàng. Nếu chiếc giường đã bị chuyển đi hoặc đã không còn là bí mật của riêng hai vợ chồng nữa thì cũng có nghĩa là phẩm giá của Pê-nê-lốp cũng không còn nguyên vẹn. Phép thử ấy không những chỉ nói lên phẩm chất kiên trinh của Pê-nê-lốp mà còn khắc sâu sự bền vững của tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng cha con.
Qua hành động của Pê-nê-lốp (một sự cẩn trọng gần như thái quá) chúng ta có thể thấy được tính chất phức tạp của thời đại – nơi mà những hiểm nguy luôn rình rập, đe dọa con người.
Sau khi nghe Pê-nê-lốp nói với Tê-lê-mác, Uy-lít-xơ vẫn nhẫn nại mỉm cười nói với con trai: “Tê-lê-mác, con! Đừng làm rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thế nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy…”; thì còn là nói với chính Pê-nê-lốp. Như vậy, khi nói những lời này, Uy-lít-xơ đã nhận ra ý định thử thách của Pê-nê-lốp và mặc dù chưa biết sự thử thách đó là gì nhưng chàng vẫn sẵn sàng chấp nhận. Có thể nói, Pê-nê-lốp và Uy-lít-xơ đã ngầm đối thoại với nhau. Cái “mỉm cười” của Uy-lít-xơ cho thấy chàng là người hết sức bản lĩnh, biết kìm chế tình cảm để có được sự sáng suốt, chín chắn. Đó là cái “mỉm cười” của người hiểu rõ khả năng của mình, tin vào mình, cũng là cái cười thấu hiểu và độ lượng đối với vợ và con trai mình.
7. Cách kể của Hô-me qua màn gặp mặt là một lối kể mang đậm phong cách kể chuyện của sử thi: chậm rãi, tỉ mỉ và trang trọng. Lối kể ấy làm các sự việc như được kéo dài ra và hồi hộp hơn. Sử thi thường được kể (diễn xướng) trong những khoảng thời gian dài. Vì thế phong cách kể ấy làm cho những đêm nghe kể sử thi hứng khởi và hấp dẫn hơn. Phẩm chất của các nhân vật thường được nhà văn miêu tả qua đối thoại – những đối thoại đầy trí tuệ, có chiều sâu và thường đa nghĩa. Bên cạnh đó biện pháp phân tích diễn biến nội tâm của nhân vật cũng tham gia tích cực vào việc xây dựng nên hình tượng các nhân vật trong đoạn trích này.
Trong khổ cuối (“Dịu hiền… buông rời”), Hô-me đã sử dụng biện pháp so sánh mở rộng, kiểu câu tầng bậc và lối lặp đi lặp lại các định ngữ chỉ phẩm chất của nhân vật. Các biện pháp nghệ thuật ấy đã cho thấy vẻ đẹp, phẩm chất đặc biệt là niềm vui mừng khôn xiết của Pê-nê-lốp khi nhận ra người chồng yêu quý của mình.
Để khắc hoạ nổi bật hình tượng nhân vật, Hô-me-rơ đã sử dụng một nghệ thuật miêu tả tâm lí đặc sắc. Trong đoạn trích, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sử thi được thể hiện rất rõ trong đoạn từ “Nói xong, nàng bước xuống lầu” cho đến “dưới bộ quần áo rách mướp.”. Nếu như trong tiểu thuyết hiện đại, tâm lí nhân vật thường được diễn tả trực tiếp, với cái nhìn từ bên trong thì ở đây, bút pháp sử thi lại diễn tả tâm lí nhân vật thông qua hành động, cách ứng xử, thái độ từ những biểu hiện bên ngoài, với cái nhìn từ bên ngoài. Tâm trạng phân vân, đầy nghi hoặc của Pê-nê-lốp được diễn tả bằng những chi tiết như :
… nàng không biết nên đứng xa xa hỏi chuyện người chồng yêu quý của mình hay nên lại gần, ôm lấy đầu, cầm lấy tay người mà hôn?
Khi vào đến nhà, bước qua ngưỡng cửa bằng đá, nàng đến ngồi trước mặt Uy-lít-xơ, dưới ánh lửa hồng, dựa vào bức tường đối diện…
…nàng vẫn ngồi lặng thinh trên ghế hồi lâu, lòng sửng sốt, khi thì đăm đăm âu yếm nhìn chồng, khi lại không nhận ra chồng dưới bộ quần áo rách mướp.
8. Có thể so sánh giữa cách miêu tả tâm lí nhân vật giữa sử thi Đam Săn của Việt Nam và sử thi cổ điển Ô-đi-xê của Hi Lạp qua hai đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây và đoạn trích Uy-lít-xơ trở về để thấy được sự giống nhau và khác nhau về bút pháp sử thi giữa hai tác phẩm, hai truyền thống văn học, qua đó nắm được những đặc điểm tiêu biểu của bút pháp sử thi:
Giống nhau:
Dùng cái bên ngoài hay trực tiếp diễn tả từ bên trong tâm lí nhân vật? Ví dụ?
Có sử dụng lối miêu tả cụ thể, tỉ mỉ, chi tiết không? Những đặc điểm miêu tả được lí tưởng hoá như thế nào? Ví dụ?
Khác nhau:
Những chi tiết dùng để diễn tả tâm lí nhân vật trong trích đoạn sử thi Đam Săn có gì khác so với những chi tiết dùng để diễn tả tâm lí nhân vật trong trích đoạn sử thi Ô-đi-xê?
Chất dân gian trong sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ ở trích đoạn Đam Săn khác như thế nào cách sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ trau chuốt, trang trọng, cao nhã trong trích đoạn Ô-đi-xê?
9. Dựa theo đoạn trích, có thể tự biểu diễn cảnh Uy-lít-xơ trở về. Để tổ chức được một buổi biểu diễn, mỗi lớp cần chọn ra một số bạn có năng khiếu kịch, tổ chức phân vai, học lời thoại… Để tập luyện và biểu diễn được dễ dàng cần có sự cố vấn của thày cô, cũng cần rút bớt những phần rườm rà trong lời thoại có như vậy, mục đích của buổi biểu diễn mới thành công.
Sau khi tiêu diệt hết bọn cầu hôn và cùng với con trai Tê-lê-mác yêu quý trừng phạt những lũ đầy tớ vong ân phản chủ, ta hồi hộp đợi mong thời khắc, Pê-nê-lốp nhận mình. Thế nhưng hôm ấy, sau khi đã ngồi đợi rất lâu, ta mới thấy nang yên lặng bước vào. Nàng ngồi đối diện vơi ta nhưng lặng thinh không nói. Có lúc ta thấy nàng đăm đăm âu yếm nhìn ta nhưng có lúc lại thấy nàng thờ ơ lạnh nhạt. Trong lúc đang băn khoăn quá đỗi thì Tê-lê-mác lên lời. Ta chờ đợi sự phản ứng của nàng sau những lời con trai trách mẹ nhưng nàng vẫn không vồ vập. Nàng khẳng định với con trai nếu ta đúng là chồng nàng thật thì hẳn sẽ có những dấu hiệu riêng để nhận ra nhau. Nghe nàng nói vậy ta đã hiểu nàng muốn nói điều gì. Ta bèn vừa an ủi vừa nhắc nhở con trai Tê- lê-mác hãy đề phòng sự trả thù của bọn cầu hôn, nhắc nhở mọi người mặc quần áo đẹp ca múa làm người ngoài lầm tưởng trong nhà đang làm lễ cưới, rồi ta cũng đi tắm rửa.
Ta trở về chỗ cũ ngồi đối diện với Pê-nê-lốp trên chiếc ghế bành rồi nhắc nhũ mẫu Ơ- ri-clê chuẩn bị kê riêng cho mình một chiếc giường để ngủ. Không ngờ ngay lúc ấy người cũng bạo dạn nói với u già: Già hãy khiêng chiếc giường chắc chắn ra khỏi gian phòng vách tường kiên cố do chính tay Uy-lít-xơ đã kê nó ngày xưa. Nghe Pê-nê-lốp nói vậy, ta bỗng giật nẩy mình bởi ta nghĩ rằng bí mật về chiếc giường xưa không còn nữa. Buột miệng ta đã nhắc lại tất cả bí mật về quá trình chế tác chiếc giường. Nhưng vừa mới nói dứt lời song bỗng dưng ta thấy Pê-nê-lốp chạy đến ôm chầm lấy cỏ ta và nói bao lời yêu thương nghẹn ngào trong nước mắt. Lúc ấy ta mới chợt hiểu ra sự thông minh và sắc sảo của vợ mình. Ta ôm chặt lấy nàng, người vợ xiết bao thân yêu, người bạn đời thuỷ chung sau bao nhiêu năm xa cách.
………………………………………………………………………………………..
Soạn Bài Ngữ Văn Lớp 10: Uy
I. VÀI NÉT VỀ Ô-ĐI-XÊ, SỬ THI HI LẠPTheo truyền thuyết, Hô-me-rơ là tác giả của hai thiên sử thi nổi tiếng của đất nước Hi Lạp: I-li-át và Ô-đi-xê.
Ô-đi-xê gồm 12.110 câu thơ, được chia thành 24 khúc ca, kể lại hành trình trở về quê hương của Uy-lít-xơ (tiếng Hi Lạp là Ô-đi-xê-uýt) sau khi hạ thành Tơ-roa. Trải qua nhiều gian truân, vất vả, nhưng được thần Dớt và vua An-ki-nô-ốt giúp đỡ, sau 20 năm ròng rã xa cách (gồm 10 năm đánh thành Tơ-roa và 10 năm trôi dạt lênh đênh), Uy-lít-xơ đã trở về quê hương. Trong khi đó, tại quê nhà, Pê-nê-lốp, vợ của Uy-lít-xơ phải đối mặt với 108 kẻ quyền quý trong vùng đến cầu hôn; và Tê-lê-mác, con trai của chàng phải đương đầu với bọn chúng để bảo vệ gia đình, về đến nhà, chàng giả dạng người hành khất nên vợ chàng không nhận ra. Chàng đã chiến thắng trong cuộc thi bắn cung, nhân cơ hội đó, cha con chàng trừng trị bọn cầu hôn cùng những gia nhân phản bội. Cuối cùng, qua phép thử “bí mật về chiếc giường”, vợ chàng đã nhận ra chàng, vợ chồng đoàn tụ và cuộc sống mới bắt đầu trên quê hương yêu dấu của Uy-lít-xơ.
Chủ đề chính của Ô-đi-xê là chinh phục thiên nhiên để khai sáng, mở rộng giao lưu. Ô-đi-xê tái hiện xung đột giữa các nền văn minh, các trình độ văn hóa; là cuộc đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Nếu A-sin, người anh hùng trận mạc xuất chúng trong sử thi I-li-át, là biểu tượng sức mạnh thể chất thì Uy-lít-xơ là biểu tượng sức mạnh trí tuệ của người Hi Lạp. Đây là hai mẫu anh hùng văn hóa tiêu biểu của dân tộc Hi Lạp. Họ cũng thuộc về kiểu nhân vật siêu mẫu kết tinh từ các truyền thuyết và huyền thoại cổ xưa.
II. ĐOẠN TRÍCH “ƯY-LÍT-XƠ TRỞ VỀ”Đoạn trích Uy-lít-xơ trở về thuộc khúc ca thứ XXIII của sử thi Ô-đi-xê. Uy-lít-xơ dưới bộ áo hành khất tham gia cuộc thi bắn cung và chàng đã thắng. Chàng tiêu diệt những tên cầu hôn đầu sỏ, trừng phạt lũ đầy tớ phản chủ. Nhưng Pê-nê-lốp vẫn không tin đó là chồng nàng. Đoạn trích kể tiếp quá trình Pê-nê-lốp nhận ra Uy-lít-xơ và vợ chồng đoàn viên.
HƯỚNG DẪN HỌC BÀICác em cần đọc đoạn trích vài lần để có cảm nhận chung về “cảnh nhận mặt bằng phép thử bí mật của chiếc giường” cũng như giọng điệu, kết cấu, các biện pháp nghệ thuật đặc trưng của sử thi Hi Lạp; sau đó mới đi vào tìm hiểu sâu và cụ thể trong từng câu hỏi. Đây là sử thi, nhưng ở đoạn trích này, có thể tái hiện thành dạng đối thoại kịch được. Màn kịch này có bốn nhân vật: nhũ mẫu ơ-ri-clê, người con trai Tê-lê-mác, Uy-lít-xơ và Pê-nê-lốp, vợ chàng (trong đó hai nhân vật chính là Uy-lít-xơ và Pê-nê-lốp). Các em cần tập đọc diễn cảm theo các vai này, cố gắng thể hiện đúng tình cảm, tâm trạng của từng nhân vật – đặc biệt là hai nhân vật chính.
1. Văn bản trên có thể chia làm mấy đoạn ? Mỗi đoạn có nội dung gì ?
Đoạn trích được chia thành hai phần:– Phần 1: từ đầu đến “kém gan dạ”: cuộc đối thoại giữa bốn nhân vật (nhũ mẫu ơ-ri-clê, con trai Tê-lê-mác, Pê-nê-lốp, uy-lít-xơ), Pê-nê- lốp vẫn chưa nhận ra chồng.
– Phần 2: đoạn còn lại: qua phép thử bí mật của chiếc giường, Pê- nê-lốp đã nhận ra chồng. Họ mừng vui khôn xiết trong nước mắt sung sướng của cảnh đoàn viên.
Như vậy, có thể thấy cuộc đối thoại ở phần 1 chính là để chuẩn bị cho cảnh nhận mặt chồng ở phần 2, từ đó tính cách, phẩm chất của các nhân vật được bộc lộ rõ.2. Khi trở về gặp lại vợ mình, Uy-lít-xơ có tâm trạng ra sao ? Cách ứng xử của chàng bộc lộ phẩm chất gì ?Uy-lít-xơ vừa tin vào người vợ chung thủy của mình (Thế nào rồi mẹ con củng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy) lại vừa trách nàng có “một trái tim sắt đá” đến mức chồng ngồi ngay trước mặt mà vẫn không chịu nhận ra. Đây là tâm trạng điển hình của một người đàn ông xa vợ biền biệt hai mươi năm trời, nay trở về nhà trong một hoàn cảnh oái oăm như thế. Nhưng chàng không chỉ quan tâm tới việc vợ mình có nhận ra mình không mà còn quan tâm tới việc đối phó với gia đình bọn cầu hôn sau khi đã tiêu diệt chúng để đảm bảo hanh phúc trọn vẹn cho gia đình mình (Xem lời chàng nói vói con trai Tê-lê-mác).
3. Vì sao Pê-nê-lốp “rất đỗi phân vân” ? Việc chọn cách thử “bí mật của chiếc giường” cho thấy vẻ đẹp gì về trí tuệ và tâm hồn của nàng ?Khi nghe nhũ mẫu ơ-ri-clê khẳng định người đó là chồng mình, bước xuống lầu, lòng nàng vẫn rất đỗi phân vân. Vì sao vậy? Nếu người hành khất này là “chồng” thực thì không sao, nếu không phải thì lúc đó danh dự của Pê-nê-lốp sẽ bị tổn thương mà đối với người Hi Lạp thì không thể sống thiếu danh dự được. Vả lại, nếu là “chồng” thực thì tại sao trong lần được gặp đầu tiên, người đó lại không nói ra? Và còn cái bề ngoài hành khất với bộ áo quần rách mướp nữa.. Pê- nê-lốp phân vân là phải, và điều đó rất đúng với tâm trạng của nàng trong hoàn cảnh oái oăm lúc bấy giờ. Tâm trạng này vừa bộc lộ tính cách vừa nói lên phẩm chất của nhân vật mà người đọc sẽ dần dần thấy rõ trong “cảnh nhận mặt bằng phép thử bí mật của chiếc giường” ở phần sau.
Phẩm chất và tính cách của Pê-nê-lốp được sử thi khắc họa đậm nét và có chiều sâu trong đoạn trích này. Đó là một người phụ nữ trọng danh dự, một người vợ thủy chung yêu chồng tha thiết nhưng luôn luôn thận trọng để bảo vệ danh dự và cương vị của mình. Tác giả sử thi đã dành cho nhân vật từ thận trọng (được lặp lại nhiều lần) chính là để nói lên điều đó (từ “thận trọng” đi kèm với tên của Pê-nê- lốp không phải là động từ (thận trọng nói) mà là tính từ chỉ phẩm chất (Pê-nê-lốp thận trọng) nói lên nàng là con người thận trọng).
Chính vì thận trọng, nên nàng bình tĩnh và tự tin, không hề nôn nóng, không hề vội vã. Trong tình huống oái oăm ấy, nàng vẫn bình tĩnh để tìm ra lời giải cho bài toán nhận mặt chồng của mình. Bởi nàng luôn tự tin vào mình, như nàng đã khẳng định với con trai: “Cha và mẹ có những dấu hiệu riêng, chỉ hai người biết với nhau, còn người ngoài không ai biết hết”. Cho nên, khi nhũ mẫu ơ-ri-clê đưa ra “một dấu hiệu không sao cãi được” là cái sẹo trên chân Uy-lít-xơ thì nàng vẫn không tin đó là chồng mình. Ở đây, không chỉ là sự thận trọng vì danh dự của người phụ nữ Hi Lạp mà còn là tình yêu của người vợ chung thủy đối với chồng. Sự thận trọng ấy đã khiến cho Tê-lê-mác phải trách mẹ gay gắt “bao giờ lòng dạ cũng rắn hơn cả đá” và Uy-lít- xơ thì cho rằng nàng có “một trái tim sắt đá hơn ai hết”. Nhưng thực ra không phải thế, bởi khi đã nhận ra chồng thì Pê-nê-lốp lại giống như tất cả những người vợ yêu chồng nhất trên thế gian này.
Cách thử bí mật của chiếc giường trong màn nhận mặt, trước hết thể hiện phẩm chất trí tuệ của Pê-nê-lốp bởi đây mới là bằng chứng xác thực nhất, dấu hiệu đáng tin cậy nhất để nhận ra chồng vì bí mật ấy “chỉ hai người biết với nhau, còn người ngoài không ai biết hết” – người nói đúng được bí mật ấy ắt hẳn phải là chồng mình. Cách thử bí mật của chiếc giường qua “những dấu hiệu riêng, chỉ hai người biết với nhau” còn cho thấy phẩm chất kiên trinh của nàng. Nó cũng là điều kiện tạo ra quy ước để đảm bảo cho sự bền vững của gia đình, để củng cố tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng cha con. Bí mật chiếc giường được công bố (qua lời thử của Pê-nê-lốp và lời đáp của Uy-lít-xơ) đã giải tỏa nhiều mối nghi ngờ. Trước hết, để Pê-nê-lốp biết đó không phải là Uy-lít-xơ giả mà là người chồng thật của mình. Thứ hai, để Uy-lít-xơ biết được sự thủy chung của vợ. Bởi khi chiếc giường đã bị khiêng đi chỗ khác, hay có ai đó đã biết bí mật của nó thì chắc chắc phẩm giá của Pê-nê-lốp cũng không còn nguyên vẹn. Nó cũng giải tỏa được ấm ức của Uy-lít-xơ khi Pê-nê-lốp vẫn không chịu nhận anh là chồng, cho dù anh đã tắm rửa và đẹp như một vị thần.
Sự thận trọng trong cách thử của Pê-nê-lốp còn cho thấy tính chất phức tạp của thời đại, những nguy hiểm đang rình rập và đe dọa họ. Sau hai mươi năm xa cách, khi trở về quê hương, Uy-lít-xơ phải cải trang thành người hành khất, phải đội lốt người ăn xin mới lọt được vào ngôi nhà của mình, phải đóng vai người bịa chuyện khéo léo để được ở lại trong ngôi nhà ấy…, những chi tiết này đã góp phần tô đậm thêm tính chất phức tạp đó.
4. Nhận xét về cách kể của Hô-me-rơ và những hiện pháp nghệ thuật mà sử thi thường dùng. Biện pháp nghệ thuật nào đã được sử dụng ở cuối của đoạn trích ?Phong cách kể chuyện của sử thi thường là chậm rãi, tỉ mỉ, trang trọng, ở đoạn trích này, Hô-me-rơ đã thể hiện khá rõ phong cách ấy. Màn gặp mặt giữa Pê-nê-lốp và Uy-lít-xơ được thể hiện bằng thứ ngôn ngữ trang trọng với nhiều định ngữ, ví von so sánh – đặc biệt là kiểu so sánh có đuôi dài, với cách nói kéo dài thành chuỗi vừa nhấn mạnh vừa tập trung, với cách dùng cụm danh từ – tính từ chỉ phẩm chất rất phổ biến trong sử thi Hi Lạp (trong đoạn trích này, cụm từ Pê-nê-lốp thận trọng được lặp lại nhiều lần), mang vẻ đẹp riêng của phong cách sử thi và tạo nên một sức hấp dẫn, mạnh mẽ, kì lạ. Lời nói của nhân vật thường được trau chuốt (những lời có cánh) vừa có hình ảnh vừa có chiều sâu trí tuệ gây ấn tượng mạnh về từng nhân vật (có thể thấy rõ điều này qua các lời đối thoại của Uy-lít-xơ và Pê-nê-lốp trong màn thử nhận mặt).
Biện pháp nghệ thuật đã được sử dụng ở khổ cuối đoạn trích là biện pháp so sánh có đuôi dài (còn gọi là so sánh mở rộng) khá phổ biến trong sử thi Hô-me-rơ mà bản dịch không lột tả hết được. Ở đây, Hô-me-rơ đã ví cuộc tái ngộ của Pê-nê-lốp và Uy-lít-xơ như những hạnh phúc của con người sau khi thoát nạn ở biển khơi. Có nghĩa là tác giả sử thi đã lấy những hạnh phúc thật lớn lao mang ý nghĩa tiêu biểu của con người (ở đây là những người từ cõi chết trở về cõi sống – “những người sống sót mừng rỡ bước lên đất liền mong đợi”) để so sánh với hạnh phúc của Pê-nê-lốp sau hai mươi năm sống cô đơn, nay mới được gặp lại người chồng thân yêu của mình, vế so sánh được nói trước, dài hơn, nhiều hơn bằng một hình ảnh cụ thể, sinh động như cái đòn bẩy nghệ thuật để tôn cao vế được so sánh chính là hạnh phúc tràn trề của người vợ thủy chung đang “ôm lấy cổ chồng không nỡ buông rời”.
LUYỆN TẬP1. Các em chuyển đoạn trích thành hoạt cảnh kịch “Cảnh nhận mặt”, tập và tổ chức biểu diễn trong các buổi ngoại khóa hay “Ngày hội văn học” của lớp.
2. Ở bài tập này, cần chú ý một số điểm sau đây:– Phải nắm vững nội dung, diễn biến, các nhân vật trong “cảnh nhận mặt”.– Phải kể lại cảnh đó theo ngôi thứ nhất, xưng “tôi” (“tôi” ở đây chính là Uy-lít-xơ).– Phải kể lại theo cách tóm tắt, ngắn gọn hơn bằng ngôn ngữ của mình nhưng phải giữ đúng cốt truyện và linh hồn của đoạn trích, giữ được không khí và phong cách của sử thi, không biến thành một câu chuyện hiện đại (Đoạn trích trong SGK dài 4 trang rưỡi, tóm tắt lại khoảng 1 trang rưỡi).
Soạn Bài Tình Yêu Và Thù Hận Của Uy
1. Tóm tắt nội dung bài học
Vẻ đẹp của tình người, tình đời qua cậu chuyện tình yêu đầy cảm động của Rô-mê-ô và Giu-li-ét
Chú ý diễn biên tâm trạng của hai nhân vật Rô-mê-ô và Giu-li-ét
1.2. Nghệ thuật
Miêu tả diễn tâm lí và diễn biến tâm lí nhân vật.
Ngôn ngữ độc thoại và đối thoại thể hiện sự phát triển của xung đột nhân vật
Câu 1: Đoạn trích có mười sáu lời thoại. Sáu lời thoại đầu có gì khác biệt với những lời thoại sau? Hình thức của các lời thoại đó là gì?
Sáu lời thoại đầu là giai đoạn độc thoại của hai nhân vật: Từng nhân vật Rô-mê-ô và Giu-li-ét độc thoại để bộc lộ tâm trạng của mình (mỗi nhân vật độc thoại 3 lần, xen kẽ nhau). Họ đều bộc lộ tình yêu tha thiết và say đắm của mình với người yêu, nhưng nội dung các lời độc thoại của họ cũng có nét khác nhau:
Rô-mê-ô tập trung ca ngợi sắc đẹp lộng lẫy của Giu-li-ét
Giu-li-ét thì lại quan tâm nhiều hơn đến chuyện dòng họ của Rô-mê-ô – dòng họ đã gây hận thù cho dòng họ của nhà nàng.
Có hai lời độc thoại dài nhất, bộc lộ rõ nhất tâm trạng của hai nhân vật: đó là lời độc thoại mở đầu của Rô-mê-ô và lời độc thoại khép lại giai đoạn này (lời thoại số 6) của Giu-li-ét.
Mười lời thoại tiếp theo là giai đoạn đối thoại của hai nhân vật: Mỗi nhân vật nói 5 lời thoại, mở đầu là Rô-mê-ô, kết thúc là Giu-li-ét, nội dung các lời thoại đều tập trung vào việc giải quyết mối hận thù giữa hai dòng họ để mở đường, chắp cánh cho tình yêu của họ đi tới, bay cao.
Câu 2: Tìm những cụm từ chứng tình yêu của Rô-me-ô và Giu-li-ét diễn ra trong bối cảnh hai dòng họ thù địch.
Những cụm từ chứng tình yêu của Rô-me-ô và Giu-li-ét diễn ra trong bối cảnh hai dòng họ thù địch
Lời thoại của Rô-mê-ô: nàng tiên lộng lẫy, nàng tiên kiều diễm, nàng tiên yêu quý của tôi ơi, đôi cánh nhẹ nhàng của tình yêu; tôi thù ghét cái tên tôi, vì nó là kẻ thù của em, …
Lời thoại của Giu-li-ét: … em sẽ không còn là con cháu nhà Ca-piu-lét nữa. Chàng ơi! Hãy mang tên họ nào khác đi… chàng hãy vứt bỏ tên họ của chàng đi,Chỉ có tên họ chàng là thù địch của em như thế nào …
Câu 3: Phân tích diễn biến tâm trạng cuả Rô-mê-ô qua hình thức so sánh liên tưởng trong lời thoại đầu tiền của hai nhân vật này?
Đây là lời thoại dài nhất và là lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Lời thoại được viết rất trau chuốt, với nhiều hình ảnh đẹp, nhiều liên tưởng độc đáo, thú vị, những so sánh bất ngờ, táo bạo. Tất cả là để bộc lộ một tâm trạng yêu đương nồng cháy, đam mê, ngỡ như không có sức gì cản được của Rô-mê-ô khi trèo tường đến dưới cửa sổ phòng ngủ của Giu-li-ét.
Đoạn trích mở đầu trong bối cảnh đêm khuya – trăng sáng. Ở đó “mảnh trăng thiêng liêng kia đương dát bạc trên những ngọn cây trĩu quả”. Màn đêm thanh vắng với những mảnh bạc đang lướt trên trời cao tạo ra chiều sâu cho sự bộc lộ tình cảm của đôi tình nhân. Thiên nhiên được nhìn qua các điểm nhìn của nhân vật. Thiên nhiên là thiên nhiên hoà cảm, đồng tình, trân trọng, chở che. Ánh trăng không thật sáng, không phải sáng ngời hay sáng loá để soi rọi mọi cái mà là ánh trăng mờ ảo.
Tiếp đến, mạch suy nghĩ của Rô-mê-ô hướng vào đôi mắt của tình nhân: “Đôi mắt nàng lên tiếng”. Đôi mắt lấp lánh của Giu-li-ét cảm nhận được sự mấp máy của làn môi khi nói. Nếu vẻ đẹp của Giu-li-ét được so sánh với “vầng dương” thì đôi mắt của nàng lại được so sánh với các ngôi sao và đó là “hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời”. Sự so sánh được đẩy lên cấp độ cao hơn bằng một sự tự vấn: “Nếu mắt nàng lên thay cho sao và sao xuống nằm dưới đôi lông mày kia thì thế nào nhỉ ?”. Lời tự vấn đầy ý nghĩa. “Đôi mắt lên thay sao” là một sự khẳng định đầy lãng mạn vẻ đẹp của đồi mắt, bởi lúc đó“cặp mắt nàng trên bầu trời sẽ rọi khắp khoảng không một làn ánh sáng tưng bừng…”. Còn nếu “sao xuống nằm dưới đôi lông mày kia” thì lúc dó: “Vẻ đẹp của đôi gò má nàng sẽ làm cho các vì tinh tú phải hổ ngươi”. Các nét đẹp trên khuôn mặt Giu-li-ét lần lượt hiện lên: đẹp của đôi mắt, đẹp của đôi gò má. Điều đó dấy lên một khao khát yêu đương hết sức mãnh liệt: “Kìa ! Nàng tì má lên bàn tay ! Ước gì ta là chiếc bao tay đê mơn trớn đôi gò má ấy !”.
Trong tâm trạng đó, Rô-mê-ô chỉ còn nhìn thấy một điều: Giu-li-ét đẹp như một nàng tiên lộng lẫy át cả vẻ đẹp của trăng, sao trên bầu trời; chỉ còn biết làm một việc duy nhất: tìm những lời lẽ đẹp nhất, những hình ảnh rực rỡ nhất để ca ngợi nhan sắc tuyệt mĩ trời phú cho nàng.
Đây là tâm trạng của một chàng trai mà tình yêu đầy ắp trong tim, đã trào ra và tuôn chảy ào ạt thành “những lời có cánh” như một khúc nhạc ái tình nồng nàn, ngây ngất, đắm say…
Câu 4: Lời thoại “Chỉ có tên họ chàng là thù địch với em thôi…” cho thấy diễn biến nội tâm phức tạp của Giu-li-ét. Phân tích diễn biến nội tâm của Giu-li-ét để làm rõ Sếch-xpia đã miêu tả tuyệt vời tâm trạng người thiếu nữ đang yêu.
Lời thoại “Chỉ có tên họ chàng là thù địch với em thôi…” cho thấy diễn biến nội tâm phức tạp cảu Giu-li-ét:
Vì yêu Rô-mê-ô tha thiết nên Giu-li-ét chỉ nghĩ đến trở ngại lớn nhất là vấn đề dòng họ (thù hận), từ đó mà có những ý nghĩ thật táo bạo: hoặc Rô-mê-ô từ bỏ dòng họ của chàng, hoặc nàng sẽ không còn là con cháu nhà Ca-piu-lét nữa (dám từ bỏ dòng họ để đến với tình yêu). Đối với nàng, điều quan trọng là con người mình yêu chứ không phải dòng họ. Lời độc thoại nội tâm của nàng cho ta thấy tình yêu bùng lên mãnh liệt đã tiếp thêm sức mạnh để vượt qua thù hận của dòng họ.
Đó là ý nghĩ trong lời độc thoại nội tâm mà nàng đã trở đi trở lại nhiều lần với bao day dứt, giằng xé trong tim. Đến khi đối thoại trực tiếp với Rô-mê-ô, nàng lại bày tỏ cùng chàng điều đó để cùng chia sẻ và tìm cách vượt qua. Nàng không quên nhắc chàng những khó khăn và cả những nguy hiểm.
Diễn biến nội tâm của Giu-li-ét để làm rõ Sếch-xpia đã miêu tả tuyệt vời tâm trạng người thiếu nữ đang yêu
Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-et nảy sinh trong một hoàn cảnh rất éo le, đó là mối hận thù truyền kiếp của hai dòng họ. Vì thế tâm trạng của Giu-li-et sau buổi găp gỡ diễn biến rất phức tạp. Nó diễn biến qua các chặng sau:
Thổ lộ tình yêu mãnh liệt với Rô-mê-ô và những lo lắng tình yêu của mình sẽ gặp trở ngại.
Vô tình thổ lộ tình yêu của mình vì không biết Rô-mê-ô đang đứng trong vườn. Nàng lo lắng cho người yêu.
Nàng tin tưởng vào tình yêu của Rômêô và luôn lo lắng cho sự an nguy của chàng.
→ Giu-li-et cũng yêu Rô-mê-ô tha thiết, nhưng với trái tim phụ nữ nhạy cảm nàng lo lắng cho mối tình đầy ngang trái của mình. Song tâm trạng của Giu-li-et cho thấy nàng là một cô gái có trai tim biết yêu say đắm, nàng sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn để giành lấy tình yêu cho mình.
Câu 5: Chứng minh rằng vấn đề “Tình yêu và thù hận” đã được giải quyết xong trong mười sáu lời thoại này
Về vấn đề thù hận dòng họ: thái độ của Rô-mê-ô rất kiên quyết.
Có đến ba trên năm lời đối thoại của Rô-mê-ô thể hiện thái độ dứt khoát của chàng trong việc giải quyết dứt điểm vấn đề thù hận: Tôi sẽ thay đổi tên họ ; sẽ xé nát cái tên đó vì nó là kẻ thù của em ; chẳng phải Rô-mê-ô cũng chẳng phải Môn-ta-ghiu, nếu em không ưa tên họ đó.
Tình yêu có sức mạnh to lớn, có thể vượt qua được hận thù thể hiện trong lời thoại thứ 13 và 15 trong đoạn trích. Các câu như cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm ; em hãy nhìn tôi âu yếm là tôi chẳng ngại gì lòng thù hận của dòng họ nữa đâu thể hiện ý chí vượt qua tất cả để đến với tình yêu của Rô-mê-ô.
⇒ Như vậy, có thể nói vấn đề tình yêu và thù hận đã được giải quyết dứt khoát qua 16 lời thoại, và trên tinh thần các lời thoại đó của hai nhân vật Rô-mê-ô và Giu-li-ét, thì tình yêu đã chiến thắng hận thù. Đó là bản chất, sức mạn, vẻ đẹp của tình yêu con người mà Uy-li-am Sếch-xpia đã ca ngợi trong đoạn trích cũng như trong toàn bộ vở kịch.
3. Soạn bài Tình yêu và thù hận chương trình Nâng caoMod Ngữ văn sẽ cập nhật bài soạn trong thời gian sớm nhất!
4. Hướng dẫn luyện tập
Câu 1: Qua đoạn trích Tình yêu và thù hận, chứng minh rằng “Ca ngợi tình yêu chân chính của con người cũng chính là khẳng định con người”
Phân tích và chứng minh câu nói trên qua đoạn trích Tình yêu và thù hận. Phân tích tình yêu say đắm của hai nhân vật qua diễn biến câu chuyện và qua các lời thoại.
5. Một số bài văn mẫu về văn bản Tình yêu và thù hậnNếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em.
Hướng dẫn soạn Tình yêu và Thù hận
Hướng dẫn soạn bài “Tình yêu và Thù hận” – Trích “Rô-mê-ô và Giu -li-et _ Sêch- xia – Văn lớp 11
Soạn Bài Và Tóm Tắt Uy Lít Xơ Trở Về
Giới thiệu về nhà văn Hô-me-rơ
Tác giả Hô-me-rơ ( Hómēros) là nhà văn mù nổi tiếng của xứ sở Hi Lạp, sống trong khoảng thời gian từ thế kỉ IX đến VIII giai đoạn trước Công nguyên. Nhà văn sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo khó, từng phải trải qua cuộc sống mưu sinh khổ cực bươn trải. Những kiệt tác mà ông để lại cho đời là hai bộ sử thi nổi tiếng I-li-at và Ô-đi-xê.
Giới thiệu về tác phẩm Ô-đi-xê và đoạn tríchNhân vật chính của tác phẩm kinh điển này hai nhân vật Uy lít xơ và Pê nê lốp. Tác giả đã gửi gắm và hiện thức hóa, lí tưởng hóa những điều tốt đẹp vào hai nhân vật trung tâm này. Họ là biểu tượng của cao đẹp về hạnh phúc, khát khao tự do và mơ ước bình yên về mái ấm gia đình.
Tác phẩm Ô-đi-xê bao gồm 24 khúc ca với 12110 câu thơ kể về cuộc hành trình gian truân của Uy lít xơ. Khi tóm tắt Uy lít xơ trở về cùng đoạn trích trong sách ngữ văn 10, các em cần lưu ý nắm được nội dung của tác phẩm Ô-đi-xê.
Đoạn trích trong chương trình thuộc khúc ca XVIII của tác phẩm Ô-đi-xê. Khi đó, Uy lít xơ giả vờ làm người khách khất, sau đó thử thách những tên nô bộc phản hồi và những kẻ cầu hôn vợ mình. Tiếp đó, cha con chàng đã tiêu diệt 108 tên công tử láo xược và gia nhân không trung thành. Đoạn trích này được bắt đầu từ đây. Do vậy, khi tóm tắt Uy lít xơ trở về, các em cần lưu ý về nội dung của tác phẩm Ô-đi-xê cũng như đoạn trích cần nghiên cứu trong sách giáo khoa.
Hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm Ô-đi-xêĐể nắm được trọn nội dung cũng như soạn bài một cách tốt nhất, khi tóm tắt Uy lít xơ trở về, các em cần nắm được hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Qua đó, các em sẽ nắm được căn nguyên nội dung và tính cách của nhân vật khi tác giả tạo dựng lên.
Ô-đi-xê là kiệt tác được ra đời khi người Hi Lạp mở rộng vùng hoạt động ra vùng biển cả. Hình tượng nhân vật Uy lít xơ chính là sự thần tượng hóa và lí tưởng hóa của những mơ ước và khao khát của người dân Hi Lạp trong công cuộc chinh phục thế giới và khám phá thiên nhiên. Con người ngoài sự gan góc kiên cường cũng cần phải có sự thông minh, nhanh nhaỵ và khôn ngoan để giành được những mơ ước đó.
Bên cạnh đó, ảnh hưởng của đời sống xã hội đã tác động đến suy nghĩ của tác giả khi tạo nên tác phẩm. Ô-đi-xê ra đời khi nhân dân Hi Lạp đang ở giai đoạn từ giã chế độ công xã thị tộc, và đang ở ngưỡng chế độ chiếm hữu nô lệ. Do vậy, thời điểm này xuất hiện tổ chức gia đình với hình thái một vợ một chồng. Chính vì thế, bên cạnh là tình yêu với quê hương, tác phẩm còn ngợi ca tình cảm gia đình gắn bó, thủy chung và son sắt.
Người anh hùng Uy lít xơ lênh đênh mười năm trên biển mà vẫn chưa đặt chân đến mảnh đất quê hương. Vì tình yêu say đắm của mình mà nữ thần Ca-lip-xô ích kỉ đã giữ chàng lại. Thương thay thân phận Uy lít xơ, thần Dớt bèn sai Hec-mec đến để lệnh cho nữ thần Ca-lip-xô phải cho chàng đi. Trong quá trình trở về, chàng phải dạt vào xứ Phê a ki vì thuyền đã bị bão đánh chìm.
Tại xứ Phê a ki, Uy lít xơ được nhà vua tiếp đón tử tế, đồng thời cũng được công chúa Nô xi ca yêu mến và phải lòng. Theo ý cửa đức vua, chàng kể lại bước đường gian truân và chặng đường gian nan của mình cùng đồng đội: từ câu chuyện thoát khỏi xứ sở khổng lồ của tên một mắt, chuyện thoát khỏi tiếng hát nguy hiểm của những nàng tiên cá Xi ren…
Nghe xong những câu chuyện ấy, nhà vua cảm phục chàng, bèn cho thuyền đưa chàng về quê hương. Về đến nhà, chứng kiến cảnh vợ mình khi xa chồng được nhiều người theo đuổi cầu hôn, Uy lít xơ giả dạng người hành khất để vợ không nhận ra mình. Trước sự thúc ép của những người cầu hôn, chàng thách ai giương được chiếc cung của Uy lít xơ và bắn một phát trúng mười hai chiếc vòng rìu thì sẽ lấy người đó. Tuy nhiên, tất cả đều thất bại. Chàng ra tay trừng phạt những tên cầu hôn và những kẻ gia nhân phản bội.
Văn bản được học trong chương trình Ngữ Văn 10 là đoạn trích về cảnh gặp gỡ giữa Uy lít xơ và gia đình tại quê hương. Tuy nhiên, cảnh gặp mặt trong lần trở về này lại trở thành cảnh “nhận mặt”. Các nhân vật trong đoạn trích đều được thử thách để tìm được hạnh phúc. Câu chuyện chính là bài ca về hạnh phúc gia đình, khát vọng và ước mơ đoàn tụ và tự do của người dân Hi Lạp.
Bên cạnh đó, tác giả của đoạn trích cũng gửi đến bạn đọc thông điệp về sự trân quý hạnh phúc gia đình giản đơn. Chỉ có gia đình mới đem lại những giá trị to lớn và bên lâu. Đó chính là thứ tình cảm cao quý, thiêng liêng mà mỗi người cần phải lưu giữ trong tim mình.
Phần 1 – Từ đầu… người kém gan dạ: Đây là cuộc đối thoại giữa các nhân vật, trong đó có những người cầu hôn vợ Uy lít xơ và chàng. Tuy nhiên, vợ chàng vẫn chưa chịu nhận chồng
Phần 2- Đoạn còn lại: Vợ chàng thử thách qua bí mật về chiếc giường, cuộc thánh thức diễn ra thành công do Uy lít xơ khởi xướng.
Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều mang giá trị và ý nghĩa riêng của nó. Để một kiệt tác đi vào lòng người đọc nó cần có nội dung sâu sắc và nghệ thuật điêu luyện, và đoạn trích này cũng không phải một ngoại lệ.
Nội dung của tác phẩm: Đây là bài ca đề cao sức mạnh của trí tuệ, của ý chí nghị lực và niềm tin của loài người về khát vọng chinh phục tự nhiên. Đồng thời, khi khám phá tác phẩm qua việc tóm tắt Uy lít xơ trở về, chúng ta còn thấy được ở đó là khát khao về một cuộc sống hạnh phúc ấm no.
Nghệ thuật của tác phẩm: Năng lực quan sát và tưởng tượng đầy phong phú đa dạng, sự quan sát tỉ mỉ tinh tế đầy sâu sắc, cốt truyện gây cấn với nhiều chi tiết hấp dẫn, tính cách nhân vật nhất quán tiêu biểu, ngôn ngữ sử dụng nhiều định ngữ với các hình ảnh ẩn dụ, so sánh…
Chàng lập mưu kế để tiêu diệt chúng một cách êm đẹp. Với sự trợ giúp của cậu con trai tên là Tê-lê-mác, bọn cầu hôn láo xược cùng những kẻ thất tín đã bị chàng dẹp bỏ. Mặc dù hồi hộp khi gặp vợ là thế, những chàng vẫn giữ được phong thái bình tĩnh của mình, kiên nhẫn để Pê nê lốp nhận ra chàng. Chi tiết đơn giản này cũng cho thấy phẩm chất cao quý và nhân phẩm sáng ngời của chàng trai Hi Lạp. Do vậy, khi tóm tắt Uy lít xơ trở về, chúng ta cần phân tích kĩ tâm trạng của nhân vật.
Sự phân vân trong tâm trạng của nàng Pê nê lốp thể hiện cụ thể trong từng cử chỉ, điệu bộ, dáng vẻ, sự lúng túng trong cách ứng xử. Nàng tính toán, xem xét, suy nghĩ mông lung nhưng cũng không giấu được sự bàng hoàng xúc động “lòng sửng sốt, khi thì đăm đăm âu yếm nhìn chồng, khi lại không nhận ra chồng“
Việc nàng Pê-nê-lốp sử dụng cách thử bí mật của chiếc giường cho thấy sự thông minh, lanh lơi của nàng, đồng thời cũng thể hiện sự bình tĩnh, thận trọng và cốt cách thanh tao. Điều này là vô cùng phù hợp với hoàn cành của nàng lúc đó. Sự tế nhị, tỉnh táo và đầy kiên quyết của Pê nê lốp thể hiện nàng là con người tình cảm và có lối sống cao thượng. Khi tóm tắt Ut lít xơ trở về, chúng ta cần lưu ý đến tâm trạng cũng như phân tích suy nghĩ của nàng để thấy được vẻ đẹp sáng ngời mà tác giả gửi gắm trong nhân vật.
Một số biện pháp nghệ thuật điển hình được vận dùng tài tình đầy tinh tế trong đoạn trích chính là biện pháp tương phản, tạo bất ngờ kịch tính… Ở đoạn cuối của đoạn trích, biện pháp so sánh được sử dụng vô cùng thành công. “Người đi biển” và “mặt đất” là hai hình ảnh nói lên tâm trạng khát khao đến tuyệt vọng nhưng cũng mừng vui của nàng Pê nê lốp khi gặp lại người chồng bấy lâu xa cách.
Có thể thấy, ngòi bút của nhà văn Hô mê rơ mang đậm phong cách sử thi, vừa chậm rãi nhưng cũng đầy trang trọng. Kiểu kể chuyện tỉ mỉ trong các cuộc đối thoại khiến tính cách các nhân vật trở nên chân thật hơn. Để khắc họa nhân vật một cách cụ thể nhất, tác giả đã sử dụng hình thức gọi thân mật bằng cụm danh-tính từ rất đặc trưng của sử thi Hi Lạp, ví dụ điển hình như Uy lít xơ cao quý, Pê nê lốp thận trọng hay nhũ mẫu Ori cle hiền thảo…
Soạn Bài: Văn Bản Văn Học
Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:
Những tiêu chí chủ yếu của văn bản văn học: có 3 tiêu chí:
Tiêu chí 1: Văn bản văn học đi sâu phản ánh và khám phá thế giới tình cảm, tư tưởng và thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người.
Tiêu chí 2: Ngôn từ của văn bản văn học là ngôn từ nghệ thuật có hình tượng mang tính thẩm mĩ cao, trau chuốt biểu cảm, gợi cảm, hàm súc, đa nghĩa.
Tiêu chí 3: Văn bản văn học bao giờ cũng thuộc về một thể loại nhất định với những quy ước riêng, cách thức của thể loại đó.
Câu 2:
Nói: “hiểu tầng ngôn từ mới là bước thứ nhất cần thiết để đi vào chiều sâu của văn bản văn học” là bởi vì:
Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Khi đọc văn bản văn học, chúng ta phải hiểu rõ nghĩa của từ, từ nghĩa tường minh đến hàm nghĩa, từ nghĩa đen đến nghĩa bóng.
Ngôn từ là đối tượng đầu tiên khi tiếp xúc với văn bản văn học
Chiều sâu của văn bản văn học tạo nên từ tầng hàm nghĩa, tầng hàm nghĩa được ẩn dưới bóng tầng hình tượng, mà hình tượng lại được hình thành từ sự khái quát của lớp nghĩa ngôn từ.
Nói tóm lại, khi đọc văn bản văn học phải hiểu được tầng hàm nghĩa nhưng hiểu được tầng ngôn từ là bước thứ nhất cần thiết để đi vào chiều sâu của văn bản văn học.
Câu 3:
Ý nghĩa một hình tượng trong bài thơ hoặc đoạn thơ: Hàm nghĩa của văn bản văn học là những lớp nghĩa ẩn kín, tiềm tàng của văn bản được gửi gắm trong hình tượng. Các em có thể tìm hiểu ý nghĩa của hình tượng trong câu ca dao sau:
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
Câu ca dao trên không chỉ mang ý nghĩa tả thực. “Tre non đủ lá” là chỉ những người đã trưởng thành, đủ lớn; còn “đan sàng” là chỉ việc cưới xin, kết duyên với nhau.
Như vậy, khi chàng trai nói đến chuyện tre, đan sàng thì câu ca dao không chỉ mang ý nghĩa tả thực như vậy. Mà nó còn là lời ngỏ ý của chàng trai hỏi cô gái có đồng ý nên duyên với chàng hay không.
Câu 4:
* Hàm nghĩa của văn bản văn học là những ý nghĩa ẩn kín, nghĩa tiềm tàng của một văn bản văn học. Đó là những điều mà nhà văn gửi gắm, tâm sự, kí thác, những thể nghiệm về cuộc sống.
Ví dụ:
Bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương: mới đọc thì chỉ là miêu tả chiếc bánh trôi đơn thuần, nhưng nghĩa hàm ẩn mà tác giả muốn gửi gắm lại là vẻ đẹp cũng như số phận bi đát của người phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công.
Bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến: kể về tình huống người bạn lâu không gặp đến nhà chơi mà chủ nhà không có gì tiếp khách. Thực chất, tất cả những vật chất không đầy đủ đó chỉ để nổi bật lên tình bạn thắm thiết của nhà thơ với bạn mình.
Cập nhật thông tin chi tiết về Bài Văn: Soạn Bài: Uy trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!