Xu Hướng 3/2023 # Bài Văn: Soạn Bài: Uy # Top 3 View | Englishhouse.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Bài Văn: Soạn Bài: Uy # Top 3 View

Bạn đang xem bài viết Bài Văn: Soạn Bài: Uy được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

I. Kiến thức cơ bản 1. Tóm tắt đoạn trích Sau khi hạ được thành Tơ-roa, Uy-lít-xơ “hồi quân” trở về quê hương. Chàng phải lênh đênh góc biển chân trời mười năm đằng đẵng mà vẫn chưa về tới quê nhà. Chàng bị nữ thần Ca-líp-xô, vì yêu chàng nên cầm giữ. Cảm thương số phận Uy-lít-xơ, thần Dớt sai Héc-mét đến lệnh cho Ca-líp-xô phải để chàng đi. Bị bão đánh chìm bè, chàng dạt vào xứ Phê-a-ki, được công chúa Nô-xi-ca yêu và nhà vua tiếp đãi tử tế. Theo ý nhà vua, Uy-lít-xơ kể lại những chuyện li kì, mạo hiểm trên bước đường gian truân phiêu bạt của mình cùng đồng đội: chuyện thoát khỏi xứ sở những tên khổng lồ một mắt, chuyện thoát khỏi tiếng hát đầy quyến rũ của các nàng tiên cá Xi-ren nguy hiểm,… Cảm phục, nhà vua cho thuyền đưa chàng về quê hương I-tác. Về đến nhà, chàng giả dạng người hành khất nên Pê-nê-lốp, vợ chàng, không nhận ra. Để trả lời sự thúc ép của bọn cầu hôn, Pê-nê-lốp thách ai giương được chiếc cung của Uy-lít-xơ và bắn một phát xuyên qua mười hai chiếc vòng rìu thì sẽ lấy người đó. Tất cả bọn cầu hôn đều thất bại, Uy-lít-xơ xin được bắn và chàng đã thắng. Nhân cơ hội đó, cha con chàng trừng trị bọn cầu hôn cùng những gia nhân phản bội. 2. Đoạn trích là cảnh gặp gỡ của hai vợ chồng sau hai mươi năm xa cách nhưng nó diễn ra không bình thường mà trở thành một cảnh nhận mặt. Trong cảnh ấy các nhân vật đã thử thách lẫn nhau để tìm về hạnh phúc. Câu chuyện là bài ca về vẻ đẹp trí tuệ và khát vọng hạnh phúc của người Hi Lạp. Nó nhắc nhở ta tình cảm gia đình bao giờ cũng rất cao quý, thiêng liêng. II. Hướng dẫn học bài Câu 1: Cảnh này có thể chia thành hai phần: – Phần một từ đầu đến “…người kém gan dạ”. Cuộc đối thoại giữa bốn nhân vật (nhũ mẫu Ơ-ri-clê, con trai Tê-lê-mác, Pê-nê-lốp, Uy-lít-xơ), Pê-nê-lốp thận trọng chưa chịu nhận chồng. – Phần hai là đoạn còn lại. Pê-nê-lốp thử thách Uy-lít-xơ về bí mật của chiếc giường. Pê-nê-lốp nhận ra chồng. Câu 2: – Khi Pê-nê-lốp không chịu nhận chàng là người chồng Uy-lít-xơ, chàng vẫn mỉn cười bảo: “Đừng làm rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thế nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy?”. Điều này thể hiện sự nhẫn nãi, bình tĩnh của Uy-lít-xơ, đồng thời thể hiện niềm tin mãnh liệt của chàng đối với vợ.

– Uy-lít-xơ bàn với con là Tê-lê-mác việc đối phó với những gia đình quyền quý có người bị chàng giết. Điều này thể hiện sự khôn ngoan, sáng suốt của Uy-lít-xơ. – Uy-lít-xơ hờn dỗi khi Pê-nê-lốp mãi vẫn không nhận ra chàng và chàng khóc khi nghe vợ giải thích nguyên nhân. Điều đó chứng tỏ Uy-lít-xơ là một người rất giàu tình cảm và rất yêu vợ. Câu 3: Pê-nê-lốp “lòng vẫn rất đỗi phân vân” vì nếu những vị hành khất là chồng nàng thực thì tại sao trong lần gặp trước lại không nói ra. Hơn nữa, nếu Pê-nê-lốp vội vã mà nhận lầm thì danh dự của nàng sẽ bị tổn thương rất lớn (điều tối kỵ của người Hi Lạp). Pê-nê-lốp có nhiều phẩm chất cao đẹp, đặc biệt là trí tuệ sắc sảo, sự bình tĩnh tự tin và luôn thận trọng trong mọi tình huống. Khi nàng nhấn mạnh “cha và mẹ… không ai biết hết” chính là lúc nàng cố ý tạo ra một hoàn cảnh thử thách đối với Uy-lít-xơ. Nó là gợi ý về dấu hiệu nhận ra nhau của vợ chồng nàng. Câu nói ấy vừa thể hiện sự thận trọng, vừa thể hiện sự thông minh sắc sảo của Pê-nê-lốp. Thực ra Pê-nê-lốp không phải là người “bao giờ lòng dạ cũng rắn hơn cả đá”, có “một trái tim sắt đá hơn ai hết”. Hai mươi năm phải làm chủ gia đình, lại phải đối diện với bao thử thách, nàng đã phải tạo cho mình cái vỏ bọc cứng rắn. Có như vậy nàng mới chờ được đến ngày người chồng trở về để được ùa vào lòng chàng mà bật lên bao nhiêu cảm xúc dồn nén mấy chục năm. Pê-nê-lốp phải dùng đến cách thử bí mật của chiếc giường trong màn nhận mặt nàng vì bí mật ấy giúp giải toả được nhiều mối nghi ngờ. Trước hết, để Pê-nê-lốp biết đó không phải là Uy-lít-xơ giả. Sau nữa, nó còn là minh chứng cho lòng chung thuỷ của nàng. Nếu chiếc giường đã bị chuyển đi hoặc đã không còn là bí mật của riêng hai vợ chồng nữa thì cũng có nghĩa là phẩm giá của Pê-nê-lốp cũng không còn nguyên vẹn. Phép thử ấy không những chỉ nói lên phẩm chất kiên trinh của Pê-nê-lốp mà còn khắc sâu sự bền vững của tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng cha con. Qua hành động của Pê-nê-lốp (một sự cẩn trọng gần như thái quá) chúng ta có thể thấy được tính chất phức tạp của thời đại – nơi mà những hiểm nguy luôn rình rập, đe doạ con người. Câu 4: Cách kể của Hô-me-rơ qua đoạn này thể hiện đặc trưng của phong cách kể chuyện sử thi, vừa chậm rãi, vừa tỉ mỉ, trang trọng. Ở đoạn trích này Pê-nê-lốp nghi ngờ, không tin Uy-lít-xơ là người chồng xa cách của mình. Do đó kiểu kể chuyện tỉ mỉ này tạo ra những đoạn đối thoại mang hình thức thăm dò, thử phản ứng từ đó dẫn tới bản chất của vấn đề. Để khắc hoạ bản chất nhân vật, Hô-me-rơ thường sử dụng hình thức gọi nhân vậ bằng cụm danh – tính từ rất phổ biến trong sử thi Hi Lạp (ví dụ: Pê-nê-lốp thận trọng, nhũ mẫu Ơ-ri-clê hiền thảo, Uy-lít-xơ cao quý và nhẫn nại…). Điều này tạo cho sử thi phong cách riên, hấp dẫn, đặc sắc. Biện pháp nghệ thuật được Hô-me-rơ sử dụng ở khố cuối đoạn trích (“Dịu hiền”… “buông rời”) là biện pháp so sánh có đuôi dài, ở đây, Hô-me-rơ đã ví niềm vui tái ngộ của Pê-nê-lốp với Uy-lít-xơ cũng giống như hạnh phúc của con người thoát nạn biển khởi. Vế so sánh được nói trước, dài hơn với hình ảnh cụ thể, sinh động, như cái đòn bẩy nghệ thuật nhằm tôn lên sự việc được so sánh, tạo hiệu quả đặc biệt cho câu văn.

Sau khi hạ được thành Tơ-roa, Uy-lít-xơ “hồi quân” trở về quê hương. Chàng phải lênh đênh góc biển chân trời mười năm đằng đẵng mà vẫn chưa về tới quê nhà. Chàng bị nữ thần Ca-líp-xô, vì yêu chàng nên cầm giữ. Cảm thương số phận Uy-lít-xơ, thần Dớt sai Héc-mét đến lệnh cho Ca-líp-xô phải để chàng đi. Bị bão đánh chìm bè, chàng dạt vào xứ Phê-a-ki, được công chúa Nô-xi-ca yêu và nhà vua tiếp đãi tử tế. Theo ý nhà vua, Uy-lít-xơ kể lại những chuyện li kì, mạo hiểm trên bước đường gian truân phiêu bạt của mình cùng đồng đội: chuyện thoát khỏi xứ sở những tên khổng lồ một mắt, chuyện thoát khỏi tiếng hát đầy quyến rũ của các nàng tiên cá Xi-ren nguy hiểm,… Cảm phục, nhà vua cho thuyền đưa chàng về quê hương I-tác. Về đến nhà, chàng giả dạng người hành khất nên Pê-nê-lốp, vợ chàng, không nhận ra. Để trả lời sự thúc ép của bọn cầu hôn, Pê-nê-lốp thách ai giương được chiếc cung của Uy-lít-xơ và bắn một phát xuyên qua mười hai chiếc vòng rìu thì sẽ lấy người đó. Tất cả bọn cầu hôn đều thất bại, Uy-lít-xơ xin được bắn và chàng đã thắng. Nhân cơ hội đó, cha con chàng trừng trị bọn cầu hôn cùng những gia nhân phản bội.Đoạn trích là cảnh gặp gỡ của hai vợ chồng sau hai mươi năm xa cách nhưng nó diễn ra không bình thường mà trở thành một cảnh nhận mặt. Trong cảnh ấy các nhân vật đã thử thách lẫn nhau để tìm về hạnh phúc. Câu chuyện là bài ca về vẻ đẹp trí tuệ và khát vọng hạnh phúc của người Hi Lạp. Nó nhắc nhở ta tình cảm gia đình bao giờ cũng rất cao quý, thiêng liêng.Cảnh này có thể chia thành hai phần:- Phần một từ đầu đến “…người kém gan dạ”. Cuộc đối thoại giữa bốn nhân vật (nhũ mẫu Ơ-ri-clê, con trai Tê-lê-mác, Pê-nê-lốp, Uy-lít-xơ), Pê-nê-lốp thận trọng chưa chịu nhận chồng.- Phần hai là đoạn còn lại. Pê-nê-lốp thử thách Uy-lít-xơ về bí mật của chiếc giường. Pê-nê-lốp nhận ra chồng.- Khi Pê-nê-lốp không chịu nhận chàng là người chồng Uy-lít-xơ, chàng vẫn mỉn cười bảo: “Đừng làm rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thế nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy?”. Điều này thể hiện sự nhẫn nãi, bình tĩnh của Uy-lít-xơ, đồng thời thể hiện niềm tin mãnh liệt của chàng đối với vợ.- Uy-lít-xơ bàn với con là Tê-lê-mác việc đối phó với những gia đình quyền quý có người bị chàng giết. Điều này thể hiện sự khôn ngoan, sáng suốt của Uy-lít-xơ.- Uy-lít-xơ hờn dỗi khi Pê-nê-lốp mãi vẫn không nhận ra chàng và chàng khóc khi nghe vợ giải thích nguyên nhân. Điều đó chứng tỏ Uy-lít-xơ là một người rất giàu tình cảm và rất yêu vợ.Pê-nê-lốp “lòng vẫn rất đỗi phân vân” vì nếu những vị hành khất là chồng nàng thực thì tại sao trong lần gặp trước lại không nói ra. Hơn nữa, nếu Pê-nê-lốp vội vã mà nhận lầm thì danh dự của nàng sẽ bị tổn thương rất lớn (điều tối kỵ của người Hi Lạp).Pê-nê-lốp có nhiều phẩm chất cao đẹp, đặc biệt là trí tuệ sắc sảo, sự bình tĩnh tự tin và luôn thận trọng trong mọi tình huống. Khi nàng nhấn mạnh “cha và mẹ… không ai biết hết” chính là lúc nàng cố ý tạo ra một hoàn cảnh thử thách đối với Uy-lít-xơ. Nó là gợi ý về dấu hiệu nhận ra nhau của vợ chồng nàng. Câu nói ấy vừa thể hiện sự thận trọng, vừa thể hiện sự thông minh sắc sảo của Pê-nê-lốp.Thực ra Pê-nê-lốp không phải là người “bao giờ lòng dạ cũng rắn hơn cả đá”, có “một trái tim sắt đá hơn ai hết”. Hai mươi năm phải làm chủ gia đình, lại phải đối diện với bao thử thách, nàng đã phải tạo cho mình cái vỏ bọc cứng rắn. Có như vậy nàng mới chờ được đến ngày người chồng trở về để được ùa vào lòng chàng mà bật lên bao nhiêu cảm xúc dồn nén mấy chục năm.Pê-nê-lốp phải dùng đến cách thử bí mật của chiếc giường trong màn nhận mặt nàng vì bí mật ấy giúp giải toả được nhiều mối nghi ngờ. Trước hết, để Pê-nê-lốp biết đó không phải là Uy-lít-xơ giả. Sau nữa, nó còn là minh chứng cho lòng chung thuỷ của nàng. Nếu chiếc giường đã bị chuyển đi hoặc đã không còn là bí mật của riêng hai vợ chồng nữa thì cũng có nghĩa là phẩm giá của Pê-nê-lốp cũng không còn nguyên vẹn. Phép thử ấy không những chỉ nói lên phẩm chất kiên trinh của Pê-nê-lốp mà còn khắc sâu sự bền vững của tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng cha chúng tôi hành động của Pê-nê-lốp (một sự cẩn trọng gần như thái quá) chúng ta có thể thấy được tính chất phức tạp của thời đại – nơi mà những hiểm nguy luôn rình rập, đe doạ con người.Cách kể của Hô-me-rơ qua đoạn này thể hiện đặc trưng của phong cách kể chuyện sử thi, vừa chậm rãi, vừa tỉ mỉ, trang trọng. Ở đoạn trích này Pê-nê-lốp nghi ngờ, không tin Uy-lít-xơ là người chồng xa cách của mình. Do đó kiểu kể chuyện tỉ mỉ này tạo ra những đoạn đối thoại mang hình thức thăm dò, thử phản ứng từ đó dẫn tới bản chất của vấn đề.Để khắc hoạ bản chất nhân vật, Hô-me-rơ thường sử dụng hình thức gọi nhân vậ bằng cụm danh – tính từ rất phổ biến trong sử thi Hi Lạp (ví dụ: Pê-nê-lốp thận trọng, nhũ mẫu Ơ-ri-clê hiền thảo, Uy-lít-xơ cao quý và nhẫn nại…). Điều này tạo cho sử thi phong cách riên, hấp dẫn, đặc sắc.Biện pháp nghệ thuật được Hô-me-rơ sử dụng ở khố cuối đoạn trích (“Dịu hiền”… “buông rời”) là biện pháp so sánh có đuôi dài, ở đây, Hô-me-rơ đã ví niềm vui tái ngộ của Pê-nê-lốp với Uy-lít-xơ cũng giống như hạnh phúc của con người thoát nạn biển khởi. Vế so sánh được nói trước, dài hơn với hình ảnh cụ thể, sinh động, như cái đòn bẩy nghệ thuật nhằm tôn lên sự việc được so sánh, tạo hiệu quả đặc biệt cho câu văn.

Soạn Bài Tình Yêu Và Thù Hận Của Uy

1. Tóm tắt nội dung bài học

Vẻ đẹp của tình người, tình đời qua cậu chuyện tình yêu đầy cảm động của Rô-mê-ô và Giu-li-ét

Chú ý diễn biên tâm trạng của hai nhân vật Rô-mê-ô và Giu-li-ét

1.2. Nghệ thuật

Miêu tả diễn tâm lí và diễn biến tâm lí nhân vật.

Ngôn ngữ độc thoại và đối thoại thể hiện sự phát triển của xung đột nhân vật

Câu 1: Đoạn trích có mười sáu lời thoại. Sáu lời thoại đầu có gì khác biệt với những lời thoại sau? Hình thức của các lời thoại đó là gì?

Sáu lời thoại đầu là giai đoạn độc thoại của hai nhân vật: Từng nhân vật Rô-mê-ô và Giu-li-ét độc thoại để bộc lộ tâm trạng của mình (mỗi nhân vật độc thoại 3 lần, xen kẽ nhau). Họ đều bộc lộ tình yêu tha thiết và say đắm của mình với người yêu, nhưng nội dung các lời độc thoại của họ cũng có nét khác nhau:

Rô-mê-ô tập trung ca ngợi sắc đẹp lộng lẫy của Giu-li-ét

Giu-li-ét thì lại quan tâm nhiều hơn đến chuyện dòng họ của Rô-mê-ô – dòng họ đã gây hận thù cho dòng họ của nhà nàng.

Có hai lời độc thoại dài nhất, bộc lộ rõ nhất tâm trạng của hai nhân vật: đó là lời độc thoại mở đầu của Rô-mê-ô và lời độc thoại khép lại giai đoạn này (lời thoại số 6) của Giu-li-ét.

Mười lời thoại tiếp theo là giai đoạn đối thoại của hai nhân vật: Mỗi nhân vật nói 5 lời thoại, mở đầu là Rô-mê-ô, kết thúc là Giu-li-ét, nội dung các lời thoại đều tập trung vào việc giải quyết mối hận thù giữa hai dòng họ để mở đường, chắp cánh cho tình yêu của họ đi tới, bay cao.

Câu 2: Tìm những cụm từ chứng tình yêu của Rô-me-ô và Giu-li-ét diễn ra trong bối cảnh hai dòng họ thù địch.

Những cụm từ chứng tình yêu của Rô-me-ô và Giu-li-ét diễn ra trong bối cảnh hai dòng họ thù địch

Lời thoại của Rô-mê-ô: nàng tiên lộng lẫy, nàng tiên kiều diễm, nàng tiên yêu quý của tôi ơi, đôi cánh nhẹ nhàng của tình yêu; tôi thù ghét cái tên tôi, vì nó là kẻ thù của em, …

Lời thoại của Giu-li-ét: … em sẽ không còn là con cháu nhà Ca-piu-lét nữa. Chàng ơi! Hãy mang tên họ nào khác đi… chàng hãy vứt bỏ tên họ của chàng đi,Chỉ có tên họ chàng là thù địch của em như thế nào …

Câu 3: Phân tích diễn biến tâm trạng cuả Rô-mê-ô qua hình thức so sánh liên tưởng trong lời thoại đầu tiền của hai nhân vật này?

Đây là lời thoại dài nhất và là lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Lời thoại được viết rất trau chuốt, với nhiều hình ảnh đẹp, nhiều liên tưởng độc đáo, thú vị, những so sánh bất ngờ, táo bạo. Tất cả là để bộc lộ một tâm trạng yêu đương nồng cháy, đam mê, ngỡ như không có sức gì cản được của Rô-mê-ô khi trèo tường đến dưới cửa sổ phòng ngủ của Giu-li-ét.

Đoạn trích mở đầu trong bối cảnh đêm khuya – trăng sáng. Ở đó “mảnh trăng thiêng liêng kia đương dát bạc trên những ngọn cây trĩu quả”. Màn đêm thanh vắng với những mảnh bạc đang lướt trên trời cao tạo ra chiều sâu cho sự bộc lộ tình cảm của đôi tình nhân. Thiên nhiên được nhìn qua các điểm nhìn của nhân vật. Thiên nhiên là thiên nhiên hoà cảm, đồng tình, trân trọng, chở che. Ánh trăng không thật sáng, không phải sáng ngời hay sáng loá để soi rọi mọi cái mà là ánh trăng mờ ảo.

Tiếp đến, mạch suy nghĩ của Rô-mê-ô hướng vào đôi mắt của tình nhân: “Đôi mắt nàng lên tiếng”. Đôi mắt lấp lánh của Giu-li-ét cảm nhận được sự mấp máy của làn môi khi nói. Nếu vẻ đẹp của Giu-li-ét được so sánh với “vầng dương” thì đôi mắt của nàng lại được so sánh với các ngôi sao và đó là “hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời”. Sự so sánh được đẩy lên cấp độ cao hơn bằng một sự tự vấn: “Nếu mắt nàng lên thay cho sao và sao xuống nằm dưới đôi lông mày kia thì thế nào nhỉ ?”. Lời tự vấn đầy ý nghĩa. “Đôi mắt lên thay sao” là một sự khẳng định đầy lãng mạn vẻ đẹp của đồi mắt, bởi lúc đó“cặp mắt nàng trên bầu trời sẽ rọi khắp khoảng không một làn ánh sáng tưng bừng…”. Còn nếu “sao xuống nằm dưới đôi lông mày kia” thì lúc dó: “Vẻ đẹp của đôi gò má nàng sẽ làm cho các vì tinh tú phải hổ ngươi”. Các nét đẹp trên khuôn mặt Giu-li-ét lần lượt hiện lên: đẹp của đôi mắt, đẹp của đôi gò má. Điều đó dấy lên một khao khát yêu đương hết sức mãnh liệt: “Kìa ! Nàng tì má lên bàn tay ! Ước gì ta là chiếc bao tay đê mơn trớn đôi gò má ấy !”.

Trong tâm trạng đó, Rô-mê-ô chỉ còn nhìn thấy một điều: Giu-li-ét đẹp như một nàng tiên lộng lẫy át cả vẻ đẹp của trăng, sao trên bầu trời; chỉ còn biết làm một việc duy nhất: tìm những lời lẽ đẹp nhất, những hình ảnh rực rỡ nhất để ca ngợi nhan sắc tuyệt mĩ trời phú cho nàng.

Đây là tâm trạng của một chàng trai mà tình yêu đầy ắp trong tim, đã trào ra và tuôn chảy ào ạt thành “những lời có cánh” như một khúc nhạc ái tình nồng nàn, ngây ngất, đắm say…

Câu 4: Lời thoại “Chỉ có tên họ chàng là thù địch với em thôi…” cho thấy diễn biến nội tâm phức tạp của Giu-li-ét. Phân tích diễn biến nội tâm của Giu-li-ét để làm rõ Sếch-xpia đã miêu tả tuyệt vời tâm trạng người thiếu nữ đang yêu.

Lời thoại “Chỉ có tên họ chàng là thù địch với em thôi…” cho thấy diễn biến nội tâm phức tạp cảu Giu-li-ét:

Vì yêu Rô-mê-ô tha thiết nên Giu-li-ét chỉ nghĩ đến trở ngại lớn nhất là vấn đề dòng họ (thù hận), từ đó mà có những ý nghĩ thật táo bạo: hoặc Rô-mê-ô từ bỏ dòng họ của chàng, hoặc nàng sẽ không còn là con cháu nhà Ca-piu-lét nữa (dám từ bỏ dòng họ để đến với tình yêu). Đối với nàng, điều quan trọng là con người mình yêu chứ không phải dòng họ. Lời độc thoại nội tâm của nàng cho ta thấy tình yêu bùng lên mãnh liệt đã tiếp thêm sức mạnh để vượt qua thù hận của dòng họ.

Đó là ý nghĩ trong lời độc thoại nội tâm mà nàng đã trở đi trở lại nhiều lần với bao day dứt, giằng xé trong tim. Đến khi đối thoại trực tiếp với Rô-mê-ô, nàng lại bày tỏ cùng chàng điều đó để cùng chia sẻ và tìm cách vượt qua. Nàng không quên nhắc chàng những khó khăn và cả những nguy hiểm.

Diễn biến nội tâm của Giu-li-ét để làm rõ Sếch-xpia đã miêu tả tuyệt vời tâm trạng người thiếu nữ đang yêu

Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-et nảy sinh trong một hoàn cảnh rất éo le, đó là mối hận thù truyền kiếp của hai dòng họ. Vì thế tâm trạng của Giu-li-et sau buổi găp gỡ diễn biến rất phức tạp. Nó diễn biến qua các chặng sau:

Thổ lộ tình yêu mãnh liệt với Rô-mê-ô và những lo lắng tình yêu của mình sẽ gặp trở ngại.

Vô tình thổ lộ tình yêu của mình vì không biết Rô-mê-ô đang đứng trong vườn. Nàng lo lắng cho người yêu.

Nàng tin tưởng vào tình yêu của Rômêô và luôn lo lắng cho sự an nguy của chàng.

→ Giu-li-et cũng yêu Rô-mê-ô tha thiết, nhưng với trái tim phụ nữ nhạy cảm nàng lo lắng cho mối tình đầy ngang trái của mình. Song tâm trạng của Giu-li-et cho thấy nàng là một cô gái có trai tim biết yêu say đắm, nàng sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn để giành lấy tình yêu cho mình.

Câu 5: Chứng minh rằng vấn đề “Tình yêu và thù hận” đã được giải quyết xong trong mười sáu lời thoại này

Về vấn đề thù hận dòng họ: thái độ của Rô-mê-ô rất kiên quyết.

Có đến ba trên năm lời đối thoại của Rô-mê-ô thể hiện thái độ dứt khoát của chàng trong việc giải quyết dứt điểm vấn đề thù hận: Tôi sẽ thay đổi tên họ ; sẽ xé nát cái tên đó vì nó là kẻ thù của em ; chẳng phải Rô-mê-ô cũng chẳng phải Môn-ta-ghiu, nếu em không ưa tên họ đó.

Tình yêu có sức mạnh to lớn, có thể vượt qua được hận thù thể hiện trong lời thoại thứ 13 và 15 trong đoạn trích. Các câu như cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm ; em hãy nhìn tôi âu yếm là tôi chẳng ngại gì lòng thù hận của dòng họ nữa đâu thể hiện ý chí vượt qua tất cả để đến với tình yêu của Rô-mê-ô.

⇒ Như vậy, có thể nói vấn đề tình yêu và thù hận đã được giải quyết dứt khoát qua 16 lời thoại, và trên tinh thần các lời thoại đó của hai nhân vật Rô-mê-ô và Giu-li-ét, thì tình yêu đã chiến thắng hận thù. Đó là bản chất, sức mạn, vẻ đẹp của tình yêu con người mà Uy-li-am Sếch-xpia đã ca ngợi trong đoạn trích cũng như trong toàn bộ vở kịch.

3. Soạn bài Tình yêu và thù hận chương trình Nâng cao

Mod Ngữ văn sẽ cập nhật bài soạn trong thời gian sớm nhất!

4. Hướng dẫn luyện tập

Câu 1: Qua đoạn trích Tình yêu và thù hận, chứng minh rằng “Ca ngợi tình yêu chân chính của con người cũng chính là khẳng định con người”

Phân tích và chứng minh câu nói trên qua đoạn trích Tình yêu và thù hận. Phân tích tình yêu say đắm của hai nhân vật qua diễn biến câu chuyện và qua các lời thoại.

5. Một số bài văn mẫu về văn bản Tình yêu và thù hận

Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em.

Hướng dẫn soạn Tình yêu và Thù hận

Hướng dẫn soạn bài “Tình yêu và Thù hận” – Trích “Rô-mê-ô và Giu -li-et _ Sêch- xia – Văn lớp 11

Soạn Bài Văn Bản Văn Học

II – Cấu trúc của văn bản văn học

1. Tầng ngôn từ – từ ngữ âm đến ngữ nghĩa

2. Tầng hình tượng

3. Tầng hàm nghĩa

III – Từ văn bản đến tác phẩm văn học

1. Hãy nêu những tiêu chí chủ yếu của văn bản văn học.

2. Vì sao nói : hiểu tầng ngôn ngữ mới là bước thứ nhất cần thiết để đi vào chiều sâu của văn bản văn học ?

3. Phân tích ý nghĩa một hình tượng mà anh (chị) yêu thích trong một bài thơ, hoặc đoạn thơ ngắn.

4. Hàm nghĩa của văn bản văn học là gì ? Cho ví dụ cụ thể.

IV. Luyện tập

Đọc các văn bản sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới.

– Văn bản 1 : (trang 121 – SGK Ngữ văn 10 tập 2)

a) Hãy tìm hai đoạn có cấu trúc (cách tổ chức) câu, hình tượng tương tự nhau của bài Nơi dựa.

b) Những hình tượng (người đàn bà – em bé, người chiến sĩ – bà cụ già) gợi lên những suy nghĩ gì về nơi dựa trong cuộc sống ?

– Văn bản 2 : (trang 122 – SGK Ngữ văn 10 tập 2 )

a) Theo anh (chị), các câu sau đây hàm chứa ý nghĩa gì ?

– Kỉ niệm trong tôi

Rơi

như tiếng sỏi

trong lòng giếng cạn

– Riêng những câu thơ

còn xanh

Riêng những bài hát

còn xanh

(đối sánh với hai câu mở đầu của bài, chú ý từ xanh)

b) Qua bài Thời gian, Văn Cao định nói lên điều gì ?

– Văn bản 3 : (trang 123 – SGK Ngữ văn 10 tập 2)

a) Giải thích rõ quan niệm của Chế Lan Viên về mối quan hệ giữa người đọc (mình) và nhà văn (ta) ở các câu 1, 2.

b) Nói rõ quan niệm của Chế Lan Viên về văn bản văn học và tác phẩm văn học trong tâm trí của người đọc ở các câu 3, 4.

I – Tiêu chí chủ yếu của văn bản văn học (trang 117 – SGK Ngữ văn 10 tập 2) II – Cấu trúc của văn bản văn học (trang 118 – SGK Ngữ văn 10 tập 2)

1. Tầng ngôn từ – từ ngữ âm đến ngữ nghĩa

2. Tầng hình tượng

3. Tầng hàm nghĩa

III – Từ văn bản đến tác phẩm văn học

Câu 1 trang 121 – SGK Ngữ văn 10 tập 2 : Hãy nêu những tiêu chí chủ yếu của văn bản văn học.

Trả lời :

– Văn bản văn học là những văn bản đi sâu phản ánh và khám phá thế giới, tình cảm, tư tưởng và thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người.

– Văn bản văn học được xây dựng bằng ngôn từ nghệ thuật, có hình tượng, có tính thẩm mĩ cao, rất giàu hàm nghĩa và gợi nhiều liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc.

– Văn bản văn học bao giờ cũng thuộc về một thể loại nhất định với những quy ước riêng, những cách thức riêng của thể loại đó.

Câu 2 trang 121 – SGK Ngữ văn 10 tập 2 : Vì sao nói : hiểu tầng ngôn ngữ mới là bước thứ nhất cần thiết để đi vào chiều sâu của văn bản văn học ?

Trả lời :

Trong một tác phẩm văn học, bao giờ nhà văn cũng gửi gắm những tư tưởng, tình cảm và thái độ của mình trước cuộc đời thông qua hình tượng. Mà hình tượng nghệ thuật của tác phẩm chính lại được hình thành từ sự khái quát của lớp nghĩa ngôn từ. Vì thế rõ ràng nếu mới chỉ hiểu tầng ngôn từ mà chưa biết tổng hợp nên ý nghĩa của hình tượng, chưa hiểu các ý nghĩa hàm ẩn của văn bản thì chưa thể coi là đã nắm được nội dung tác phẩm.

Câu 3 trang 121 – SGK Ngữ văn 10 tập 2 : Phân tích ý nghĩa một hình tượng mà anh (chị) yêu thích trong một bài thơ, hoặc đoạn thơ ngắn.

Trả lời :

Hàm nghĩa của văn bản văn học là những lớp nghĩa ẩn kín, tiềm tàng của văn bản được gửi gắm trong hình tượng. Ví dụ trong câu ca dao :

Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng

Tre non đủ lá đan sàng nên chăng ?

Khi chàng trai nói đến chuyện tre, đan sàng thì câu ca dao không chỉ mang ý nghĩa tả thực như vậy. Nó còn mang ý nghĩa chỉ chuyện tình yêu nam nữ, chỉ chuyện ướm hỏi, chuyện cưới xin.

Câu 4 trang 121 – SGK Ngữ văn 10 tập 2 : Hàm nghĩa của văn bản văn học là gì ? Cho ví dụ cụ thể. Trả lời :

– Hàm nghĩa của văn bản văn học là khả năng gợi ra nhiều lớp ý nghĩa tiềm tàng, ẩn kín của văn bản văn học mà qua quá trình tiếp cận, người đọc dần dần nhận ra.

– Hàm nghĩa của văn bản văn học không phải lúc nào cũng dễ hiểu và không phải lúc nào cũng hiểu đúng và hiểu đủ.

Ví dụ : Bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương mới đọc qua tưởng chỉ là chuyện của chiếc bánh trôi, từ đặc điểm đến các cung đoạn làm bánh. Nhưng hàm chứa trong đề tài bánh trôi là cảm hứng về cuộc đời và thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Người phụ nữ than thân trách phận nhưng không dừng lại ở đó, còn khẳng định vẻ đẹp của mình và lên tiếng phê phán xã hội bất công, vô nhân đạo.

Ghi nhớ :

Ngày nay một văn bản được coi là văn bản văn học khi :

– Phản ánh và khám phá cuộc sống, bồi dưỡng tư tưởng và tâm hồn, thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người.

– Ngôn từ có nhiều tìm tòi sáng tạo, có tính hình tượng, có hàm nghĩa sâu sắc, phong phú.

– Được viết theo một thể loại nhất định với những quy ước thẩm mĩ riêng : truyện, thơ, kịch, …

Vản bản văn học mang nhiều tầng lớp : ngôn từ, hình tượng, hàm nghĩa. Đi sâu vào các tầng lớp đó ta mới hiểu được văn bản văn học.

IV. Luyện tập

Đọc các văn bản sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới.

– Văn bản 1 : (trang 121 – SGK Ngữ văn 10 tập 2)

a) Hãy tìm hai đoạn có cấu trúc (cách tổ chức) câu, hình tượng tương tự nhau của bài Nơi dựa.

b) Những hình tượng (người đàn bà – em bé, người chiến sĩ – bà cụ già) gợi lên những suy nghĩ gì về nơi dựa trong cuộc sống ?

Trả lời :

a) Đây là bài thơ văn xuôi (nghĩa là bài có ý thơ, ngôn từ có nhịp điệu, khác với ngôn từ văn xuôi thông thường). Bài có hai đoạn gần như đối xứng nhau (về cách cấu trúc câu : câu mở đầu và câu kết của mỗi đoạn). Các nhân vật được trình bày cốt làm nổi bật tính tương phản.

b) Hình tượng nhân vật được trình bày cốt làm nổi bật tính tương phản :

– Người mẹ trẻ : dựa vào đứa con mới chập chững biết đi.

– Anh bộ đội : dựa vào cụ già bước run rẩy không vững.

– Văn bản 2 : (trang 122 – SGK Ngữ văn 10 tập 2 )

a) Theo anh (chị), các câu sau đây hàm chứa ý nghĩa gì ?

– Kỉ niệm trong tôi

Rơi

như tiếng sỏi

trong lòng giếng cạn

– Riêng những câu thơ

còn xanh

Riêng những bài hát

còn xanh

(đối sánh với hai câu mở đầu của bài, chú ý từ xanh)

b) Qua bài Thời gian, Văn Cao định nói lên điều gì ?

Trả lời : a) Bố cục :

Đoạn 1 (bốn câu thơ đầu): sức tàn phá của thời gian.

Đoạn 2 (còn lại): những giá trị bền vững tồn tại mãi với thời gian.

– Thời gian trôi chảy từ từ, nhẹ, im, tưởng như yếu ớt “thời gian qua kẽ tay”, thời gian “làm khô những chiếc lá”. “Chiếc lá” là một hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng. Chiếc lá hay chính là những mảnh đời đang trôi đi theo nhịp thời gian ? Những chiếc lá khô hay chính là những cuộc đời không thể tránh khỏi vòng sinh diệt ? Những chiếc lá khô, những cuộc đời ngắn ngủi và những kỉ niệm của đời người cũng sẽ bị rơi vào quên lãng (hòn sỏi rơi vào lòng giếng cạn đầy bùn cát thì chẳng có tiếng vang gì cả). Như thế cuộc đời và những kỉ niệm đều tàn tạ, đều bị thời gian xóa nhòa.

– Thế nhưng trong cuộc sống vẫn có những điều tồn tại mãnh liệt với thời gian, đó là: “Riêng những câu thơ còn xanh/ Riêng những bài hát còn xanh” . Đó là nghệ thuật khi đã đạt đến độ kết tinh xuất sắc sẽ tươi xanh mãi mãi, bất chấp thời gian, như Truyện Kiều chẳng hạn.

– Câu kết thật bất ngờ: “Và đôi mắt em/ như hai giếng nước”. Dĩ nhiên đây là “hai giếng nước” chứa đầy những kỉ niệm tình yêu, những kỉ niệm tình yêu sống mãi, đối lập với những kỉ niệm “rơi” vào “lòng giếng cạn” quên lãng của thời gian.

b) Qua bài thơ “Thời gian”, Văn Cao muốn nói rằng: thời gian có thể xoá nhoà tất cả, chỉ có văn học nghệ thuật và tình yêu là có sức sống lâu bền.

– Văn bản 3 : (trang 123 – SGK Ngữ văn 10 tập 2)

a) Giải thích rõ quan niệm của Chế Lan Viên về mối quan hệ giữa người đọc (mình) và nhà văn (ta) ở các câu 1, 2.

b) Nói rõ quan niệm của Chế Lan Viên về văn bản văn học và tác phẩm văn học trong tâm trí của người đọc ở các câu 3, 4.

Trả lời :

a) Hai câu thơ thể hiện quan niệm sâu sắc của Chế Lan Viên về mối quan hệ giữa người đọc (mình) và nhà văn (ta). Trong quá trình sáng tạo, nhà văn luôn có sự đồng cảm với bạn đọc cũng như trong quá trình tiếp nhận tác phẩm, bạn đọc luôn có sự đồng cảm với nhà văn. Sự đồng cảm phải có được nơi tận cùng “sâu thắm” thì tác phẩm mới thực sự là tiếng nói chung, là nơi gặp gỡ của tâm hồn, tình cảm con người.

b) Hai câu sau là quan niệm của Chế Lan Viên về văn bản văn học và tác phẩm văn học trong tâm trí của người đọc :

Ta gửi tro, mình nhen thành lửa cháy,

Gửi viên đá con, mình dựng lại nên thành.

Nhà văn viết tác phẩm văn học là sáng tạo nghệ thuật theo những đặc trưng riêng. Những điều nhà văn muốn nói đều đã được gửi gắm vào hình tượng nghệ thuật và nghệ thuật chỉ có giá trị gợi mở chứ không bao giờ nói hết, nói rõ. Người đọc phải tái tạo lại, tưởng tượng thêm, suy ngẫm, phân tích để sao cho từ bếp “tro” tưởng như tàn lại có thể “nhen thành lửa cháy”, từ “viên đá con” có thể dựng nên thành, nên luỹ, nên những lâu đài, cung điện nguy nga.

Quan niệm trên của Chế Lan Viên đã được nhà thơ phát biểu theo cách của thơ và đó cũng là một minh chứng cho quan niệm của chính nhà thơ.

Soạn Văn 10 Bài: Văn Bản Văn Học

Soạn văn 10 bài: Văn bản văn học

Soạn văn lớp 10 ngắn gọn

VnDoc mời bạn đọc tham khảo tài liệu , chắc chắn qua bộ tài liệu các bạn học sinh sẽ có kết quả cao hơn trong học tập. chúng tôi mời thầy cô cùng các bạn học sinh tham khảo.

Soạn văn lớp 10 Văn bản văn học

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 121 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Những tiêu chí chủ yếu của văn bản văn học:

– Văn bản văn học đi sâu phản ánh và khám phá thế giới tình cảm, tư tưởng và thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người.

– Văn bản văn học được xây dựng bằng ngôn từ nghệ thuật, có hình tượng, có tính thẩm mĩ cao.

– Văn bản văn học bao giờ cũng thuộc về một thể loại nhất định với những quy ước riêng, cách thức của thể loại đó.

Câu 2 (trang 121 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): “hiểu tầng ngôn từ mới là bước thứ nhất cần thiết để đi vào chiều sâu của văn bản văn học” vì:

– Ngôn từ là đối tượng đầu tiên khi tiếp xúc với văn bản văn học.

– Chiều sâu của văn bản văn học tạo nên từ tầng hàm nghĩa, tầng hàm nghĩa được ẩn dưới bóng tầng hình tượng, mà hình tượng lại được hình thành từ sự khái quát của lớp nghĩa ngôn từ.

Câu 3 (trang 121 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Phân tích ý nghĩa hình tượng trong câu ca dao:

Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?

Câu ca dao không chỉ mang nghĩa tả thực. “Tre non đủ lá” chỉ người đã trưởng thành, đủ tuổi, đủ lớn ; “đan sàng” có ám chỉ chuyện kết duyên, cưới xin. Câu ca dao là lời ngỏ ý của chàng trai hỏi cô gái có thuận tình đợi chàng mối lái chưa.

Câu 4 (trang 121 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2):

Hàm nghĩa của văn bản văn học là ý nghĩa ẩn kín, nghĩa tiềm tàng của văn bản. Đó là những điều nhà văn gửi gắm, tâm sự, kí thác, những thể nghiệm về cuộc sống.

Ví dụ:

– Bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương, mới đọc thì chỉ là miêu tả chiếc bánh trôi đơn thuần, nhưng nghĩa hàm ẩn mà tác giả muốn nói đến lại là vẻ đẹp cũng như số phận bi đát của người phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công.

– Bài Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến kể về tình huống người bạn lâu không gặp đến chơi mà chủ nhà không có gì tiếp khách. Thực chất, tất cả những vật chất không đầy đủ đó chỉ để nổi bật lên tình bạn thắm thiết của nhà thơ với bạn mình.

Luyện tập

Câu 1 (trang 121 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Văn bản “Nơi dựa”:

a. Hai đoạn có cấu trúc câu, hình tượng tương tự nhau là mở bài – kết bài: người đàn bà và đứa nhỏ – người chiến sĩ và bà cụ.

b. Hình tượng nhân vật được trình bày cốt làm nổi bật tính tương phản:

+ Người mẹ trẻ lấy điểm dựa tinh thần là đứa con mới chập chững biết đi.

+ Anh bộ đội : dựa vào cụ già bước run rẩy không vững.

Câu 2 (trang 121 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Văn bản “Thời gian”:

a. Hàm nghĩa của các câu:

– Kỉ niệm trong tôi

Rơi như tiếng sỏi trong lòng giếng cạn.

– Riêng những câu thơ còn xanh

Riêng những bài hát còn xanh

“Và đôi mắt em/ như hai giếng nước”: Những kỉ niệm tình yêu sống mãi, đối lập với những kỉ niệm “rơi” vào “lòng giếng cạn” bị quên lãng.

b. Qua bài thơ “Thời gian”, Văn Cao muốn nói rằng: thời gian có thể xoá nhoà tất cả, chỉ có văn học nghệ thuật và tình yêu là có sức sống lâu bền.

Câu 3 (trang 121 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Văn bản “Mình và ta”:

a. Quan niệm của Chế Lan Viên về mối quan hệ người đọc – nhà văn ở câu 1, 2:

Mình là ta đấy thôi, ta vẫn gửi cho mình. Sâu thẳm mình ư? Lại là ta đấy!

Nhà văn (ta) và bạn đọc (mình) luôn có sự đồng cảm trong quá trình sáng tạo cũng như quá trình tiếp nhận. Sự đồng cảm phải ở nơi tận cùng “sâu thẳm” thì tác phẩm mới thực sự là tiếng nói chung, là nơi gặp gỡ của tâm hồn, tình cảm mình – ta.

b. Quan niệm của Chế Lan Viên về văn bản văn học và tác phẩm văn học trong tâm trí của người đọc trong câu 3, 4:

Ta gửi tro, mình nhen thành lửa cháy, Gửi viên đá con, mình dựng lại nên thành.

Để hiểu được lời gửi gắm, thông điệp của nhà văn, người đọc phải tái tạo, tưởng tượng, suy ngẫm, phân tích sao cho từ bếp “tro” tưởng như tàn lại có thể “nhen thành lửa cháy”, từ “viên đá con” có thể dựng nên thành, nên luỹ.

Cập nhật thông tin chi tiết về Bài Văn: Soạn Bài: Uy trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!