Xu Hướng 3/2023 # Bài Soạn Lớp 10: Nhàn # Top 11 View | Englishhouse.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Bài Soạn Lớp 10: Nhàn # Top 11 View

Bạn đang xem bài viết Bài Soạn Lớp 10: Nhàn được cập nhật mới nhất trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà sử học Phan Huy Chú đã viết trong bộ sách lớn Lịch triều hiến chương lọai chí: “Một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở”. Trải qua bao nhiêu năm, tài năng và triết lý của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn được người đời nhớ đến, tư tưởng của ông đã được đúc kết vào tập thơ Bạch Vân quốc ngữ thi, mà tiêu biểu trong đó là bài thơ “Nhàn” - bài thơ được đánh giá là tinh hoa của triết lý nhân sinh nhàn dật. 

Bài thơ Nhàn được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, để phân tích nó, ta có thể đi qua lần lượt từng liên thơ: Khai, thừa, chuyển, hợp để làm rõ được tinh thần và sự kết nối của bài thơ. Khai là Khai đoan, còn gọi là Khởi bút, Khởi thi mà mở đầu tư tưởng – nghệ thuật bài thơ, giống như đại bàng vỗ cánh lấy đà bay lên. Ở đây, bài thơ Nhàn đã được mở đầu bằng một giọng hồn nhiên đầy ấn tượng:

“Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.”

Tác giả đã sử dụng điệp từ “một” để nhấn mạnh sự ít ỏi, đồng thời tạo nhịp điệu thư thái ung dung như đang dạo chơi. Hình ảnh của chủ thể trữ tình hiện lên là một lão nông an nhàn, thảnh thơi với thú vui tao nhã là câu cá và làm vườn. Những vật dụng làm nông ấy góp phần khắc họa nên cuộc sống yên bình, giản dị và chất phác. Tính chất của lối sống này đã được thâu tóm trong từ “thơ thẩn”, chấp nhận “dầu ai vui thú nào”, mặc cho người đời có những lựa chọn khác. Nhà thơ đã gợi lên cho chúng ta những nét đầu tiên của cuộc sống nhàn dật: chấp nhận lối sống an bình dù người đời có cười chê, dù chẳng phải ai cũng có thể từ bỏ danh vọng để đến với cuộc sống “thơ thẩn”, làm những điều mình thích.

Đến liên thơ thứ hai, tư tưởng của nhà thơ được thể hiện rõ hơn thông qua sự đối lập giữa ta và người trên vấn đề xác định mục tiêu của cuộc đời:

“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.”

Ta chính là chủ thể trữ tình – nhà thơ. Còn người chắc chẳng phải là cả thiên hạ, mà chỉ là những kẻ tất bật đâm vào chốn lao xao, tìm ý nghĩa cuộc đời ở những nơi danh lợi quyền quý đầy láo nháo. Cách sử dụng phép đối: dại, khôn; nơi vắng vẻ, chốn lao xao cho thấy được sự khác nhau giữa lối sống của nhà thơ và nhiều người khác. Cớ sao gọi mình là dại, nhưng nhà thơ vẫn cứ khăng khăng giữ lại cái dại ấy? Hay chăng ý nhà thơ là dù cho “tìm nơi vắng vẻ” là dại đi nữa, thì ông vẫn cứ dại, bởi ông không thể hòa vào “chốn lao xao” được, nơi ông không thể tìm thấy được bình yên trong tâm hồn mình. “Nơi vắng vẻ” không nhất thiết phải là một nơi thiên nhiên an tĩnh, đó có thể chỉ là một không gian của riêng ta, nơi ta tìm được miền vắng vẻ thuộc về mình, tìm được cái nhàn ẩn cho riêng bản thân.

Trong liên thơ Chuyển, cái thú vị của “nơi vắng vẻ” mà nhà thơ tìm đến được miêu tả rõ hơn:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”

Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông được nhắc tới trong hai câu thơ gợi lên ý niệm về thời gian. Ở đây, nhà thơ không hẳn nói đến cảnh sống nghèo khó hay giản dị của mình. Mà kẻ nhàn dật muốn nhấn mạnh rằng người đang hạnh phúc khi được sống với con người tự nhiên của mình. Khi sống hài hòa cùng nhịp điệu của thiên nhiên, tự khắc người ta cảm thấy tự do thoải mái. Tưởng như mọi nhu cầu đều được đáp ứng dễ dàng. Mùa nào thức ấy, thức ăn có sẵn quanh ta, thanh đạm nhưng đấy là cái nhàn thanh cao, không phải có được do giành giật và tước đoạt từ tay thiên hạ. Cuộc sống này vốn không xa lạ với tâm thức của người xưa:

“Xuân du phương thảo địa,

Hạ thưởng lục hà trì;

Thu ẩm hoàng hoa tửu,

Đông ngâm bạch tuyết thi.”

(Cổ thi – TQ)

Tư tưởng này gần gũi với triết lý “vô vi” của Đạo giáo, cũng là tư tưởng gắn liền và xuyên suốt trong quá trình sáng tác của Nguyễn Bình Khiêm, đặc biệt là trong tập thơ Bạch Vân quốc ngữ thi.

Đến liên thơ Hợp dường như đúc kết được tinh thần, cốt cách cũng như suy nghĩ của Nguyễn Bình Khiêm:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Tác giả đã sử dụng điển Thuần Vu Phần uống rượu say nằm ngủ dưới gốc cây hòe, mơ thấy mình đến Đại Hòe An quốc, được quốc vương đất ấy cho làm Thái thú quận Nam Kha. Sau, Thuần Vu Phần cầm quân đánh giặc, chẳng may bị thua. Còn công chúa ở nhà bị đau bệnh mà chết. Vua nước Đại Hòe An nghi ngờ, rồi cách chức đuổi đi. Thuần Vu Phần buồn chán và uất ức, liền giật mình thức dậy, thấy mình đang nằm dưới cội cây hòe, nơi cành cây phía Nam, nhìn lên thấy một con kiến chúa đang nằm trong một tổ kiến lớn. Thuần Vu Phần nằm suy nghĩ về giấc mộng vừa qua của mình, chợt tỉnh ngộ, hiểu rằng nước Đại Hòa An là cây hòe lớn, cành cây phía Nam là đất Nam Kha, vua nước Đại Hòe An là con kiến chúa, dân chúng là toàn ổ kiến. Thuần Vu Phần cảm câu chuyện trong mộng, tỉnh ngộ biết cảnh đời là ngắn ngủi, không định liệu được việc gì cả, bèn dốc lòng tìm đạo tu hành. Cuộc đời là phù du mộng ảo; công danh phú quí như giấc chiêm bao. Có lẽ điểm nổi bật nhất của hai câu thơ là hiện tượng đảo cú pháp ở câu 7: “Rượu đến cội cây ta sẽ uống”. Từ rượu được đưa ra đầu câu, khi đọc phải nhấn mạnh, ngắt thành một nhịp thật sảng khoái để thấy được tư thế tiên phong đạo cốt của tác giả đứng ngoài vòng thế sự. Cũng từ đây, ta hình dung ra hình ảnh một ông già thư thái ngồi bên chén rượu, ngửa mặt nhìn phù vân trôi nổi rồi ngủ một giấc thanh thản. Chẳng phải, sống như thế thật là bình yên sao?

Nhàn không phải là một lí tưởng nó là một trạng thái sống. Nhàn ở đây là sự thanh thản của tâm hồn không bận tâm bởi danh lợi chứ không phải là cái nhàn hưởng thụ của kẻ lười nhát. Nhàn là không để lòng vấy bẩn bởi sự tranh đoạt quyền lợi, hơn thua với người đời chứ không phải là quên đời, sống ít kỉ, vô trách nhiệm. Bài thơ Nhàn xuất sắc không chỉ ở tư tưởng được truyền tải trong đó, mà còn ở nghệ thuật và chất thơ được gợi lên trong bài thơ. Bài thơ Nhàn đã mang đến cho chúng ta một cái nhìn khác về cuộc đời và cách chúng ta có thể sống để tìm được cõi bình yên trong tâm hồn mình

Soạn Bài Nhàn Ngữ Văn Lớp 10

Soạn bài Nhàn Ngữ văn lớp 10

Bài làm

Câu 1: Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu hai câu thơ đầu có gì đáng chú ý? Hai câu thơ ấy cho ta hiểu hoàn cảnh cuộc sống và tâm trạng của tác giả như thế nào?

Có thể nhận thấy được âm hưởng hai câu thơ đầu đã gợi ra ngay cái vẻ thung dung. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng sử dụng được nhịp thơ 2/2/3 cộng với việc dùng các số từ tính đếm nhưu các số (một…, một…, một…) đặt trước các danh từ mai, cuốc, cần câu để cho thấy cái chủ động, luôn luôn sẵn sàng của cụ Trạng khi đối với cuộc sống điền dã. Không những thế lại còn có chút ngông ngạo trước thói đời.

Câu 2: Anh / chị hiểu thế nào là nơi “vắng vẻ”, chốn “lao xao”? Quan điểm của tác giả về “dại” và “khôn” như thế nào? Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4?

Nguyễn Bỉnh Khiêm có được một cách nói hóm hỉnh song qua đó toát lên quan niệm nhân sinh của tác giả. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng cứ cố tự nhận mình là “dại”, để có thể chấp nhận tiếng dại của “miệng thế” luôn luôn chê bai để “tìm nơi vắng vẻ”, để mặc cho người khôn thì học cũng sẽ đến chốn lao xao. Câu thơ cũng đã lại sử dụng cách nói ngược nghĩa. Nguyễn Bỉnh Khiêm với sự thâm trầm của mình cùng với những sự từng trải đã tận hiểu sự đua chen, ông cũng như thoát khỏi được sự trói buộc của vòng danh lợi. Có lẽ chính bởi thế ông phủi tay với những sự đua chen ở “chốn lao xao”. Nguyễn Bỉnh Khiêm không ngại ngần gì khi tự nhận là “dại”, song thực chất lại là “khôn”. Ở đây cũng giống như những người trải nghiệm dường như cũng lại cứ luẩn quẩn trong vòng danh lợi hơn nữa lại luôn cứ nghĩ mình “khôn”. Sử dụng nghệ thuật đối lập, cách nói ngược khiến cho bài thơ thật đặc sắc, thông qua đó cũng đã khẳng định triết lí sống của tác giả.

Câu 3: Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu thơ 5, 6 có gì đáng chú ý? Hai câu thơ cho thấy cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm như thế nào? (Quê mùa, khổ cực? Đạm bạc mà thanh cao? Hòa hợp với tự nhiên?)

Dễ dàng nhận thấy được ở hai câu 5, 6, tác giả nói đến chuyện “ăn” và “tắm” một cách đầy thích thú và vô cùng độc đáo. Theo chính những vòng quay bốn mùa quanh năm thì những việc “ăn”, “tắm” của “ta” thuận theo tự nhiên. Tất cả những việc này dường như luôn hoà hợp với tự nhiên. Tuy nó có vẻ đạm bạc, thanh bần nhưng thú vị, thanh thản và chẳng phải nghĩ suy.

Soạn bài Nhàn Ngữ văn lớp 10

Câu 4: Đọc chú thích 4 để hiểu điển tích được vận dụng trong hai câu thơ cuối. Anh / chị cảm nhận như thế nào về nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm?

Ở ngay hai câu cuối thể hiện vẻ đẹp trí tuệ tài tình của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm được biết đến chính là một bậc thức giả uyên thâm, ông dường như cũng đã từng vào ra chốn quan trường chính vì thế mà ông cũng đã lại tận hiểu quy luật biến dịch của cuộc đời. Đồng thời Nguyễn Bỉnh Khiêm lại hiểu danh lợi chỉ là phù du, chính vì thế mà ông cũng đã lại phủi tay với những vòng danh lợi để có thể đi tìm lại những sự tĩnh lặng cho tâm hồn, sự hòa nhập cùng với thiên nhiên.

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã bộc lộ thái độ xem thường phú quý, coi chốn quyền danh phú quý chỉ là giấc chiêm bao và chính vì thế mà nó cũng không có thực. Thông qua đó, tác giả cũng đã lại khẳng định thêm một lần nữa sự lựa chọn phương châm sống thêm nữa đó là một cách ứng xử của riêng mình.

Câu 5: Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là gì? – Không vất vả, cực nhọc. – Không quan tâm tới xã hội, chỉ lo cho cuộc sống nhàn tản của bản thân. – Xa lánh nơi quyền quý giữ cốt cách thanh cao. – Hòa hợp với tự nhiên. – Quan niệm sống đó tích cực hai tiêu cực. Vì sao?

Có thể nhận thấy được chính quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là trốn tránh những sự vất vả để tận hưởng sự nhàn rỗi, đồng thời cũng không phải là thái độ lánh đời cũng lại không quan tâm tới xã hội. Thế rồi cũng luôn cần hiểu chữ “nhàn” chính là một thái độ lánh đời, tác giả như không quan tâm tới xã hội. Chúng ta cũng cần hiểu chữ “nhàn” mà tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm nói là thái độ như cũng không đua chen chính trong vòng danh lợi để có thể giữ cốt cách thanh cao.

Quan niệm nhàn là về với ruộng vườn để có thể hòa hợp với thiên nhiên luôn luôn vui thú cùng cây cỏ. Nhàn được biết đến chính là làm một lão nông gắn với những công cự quen thuộc “Một mai, một cuốc, một cần câu” và tuân theo lẽ tự nhiên đó là mùa nào thức đấy “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá; Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”. Khi đã lánh chốn quan trường nhưng trong lòng cũng vẫn cứ lo cho dân cho nước, luôn luôn lo lắng cho xã. Thế rồi khi được đặt trong hoàn cảnh chế độ phong kiến khi đang trên đà khủng hoảng đó chính là những giá trị đạo đức đang có biểu hiện suy vi, đó chính là người hiền không có đất dụng thi quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm được biết đến là một quan niệm sống tích cực.

Chúc các em học tốt!

Soạn Bài Nhàn Lớp 10 Của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Đề Bài: Soạn Bài Nhàn Lớp 10 Của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bài Làm

Câu 1:

“Một mai/một cuốc/một cần câu

Thơ thẩn dầu ai/ vui thú nào”

Trong câu thơ đầu, tác giả đã sử dụng số từ một cùng với phép điệp. Với cách sử dụng số đếm rất linh hoạt, nhịp thơ ngắt nhịp đều đặn 2/2/3 kết hợp với hình ảnh những dụng cụ lao động nơi làng quê: mai, cuộc, cần câu cho ta thấy những công cụ cần thiết của cuộc sống thôn quê từ đó thấy được một cuộc sống giản dị không lo toan vướng bận của một danh sĩ ẩn cư nơi ruộng vườn, ngày ngày vui thú với cảnh nông thôn. Hình ảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên là một lão nông an nhàn, thảnh thơi với thú vui tao nhã là câu cá và làm vườn. Đây có thể nói là cuộc sống đáng mơ ước của rất nhiều người ở thời kỳ phòng kiến ngày xưa nhưng không phải ai cũng có thể dứt bỏ được chốn quan trường về với đồng quê như thế này. Động từ “thơ thẩn” ở câu thơ thứ hai đã tạo nên nhịp điệu khoan thai, êm ái cho người đọc. Dù ngoai kia người ta vui vẻ nơi chốn đông người thì Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn mặc kệ, vẫn bỏ mặc để “an phận” với cuộc sống của mình hiện tại. Cuộc sống của ông khiến nhiều người ngưỡng mộ.

Câu 2:

– “Nơi vắng vẻ” là nơi yên tĩnh giữa thiên nhiên trong lành.

– “Chốn lao xao”: Chốn ồn ào, sang trọng, quyền thế, ngựa xe tấp nập, kẻ hầu, người họ, thủ đoạn bon chen…

Ở hai câu thơ này tác giả sử dụng cách nói ngược nghĩa, đùa vui ẩn chứa triết lý nhẹ nhàng mà thấm thía. Dại mà khôn, khôn mà dại (khôn mà hiểm độc là khôn dại / dại vốn hiền lành ấy dại khôn).

Nghệ thuật đối: “ta” đối với “người”, “dại” đối với “khôn”, “nơi vắng vẻ” đối với “chốn lao xao”. Ta tìm nơi vắng vẻ tức tìm đến sự tĩnh lặng của tự nhiên, tìm đến sự yên tĩnh trong tâm hồn, không bon chen, không cầu canh; còn người tìm đến chốn lao xao là tìm đến chốn quan trường, tuy sang trọng, quyền quý, song phải bon chen, đối chọi, cảnh giác… Nghệ thuật đối tạo sự so sánh giữa hai cách sống, qua đó khẳng định triết lí sống và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Câu 3:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.

Hai câu thơ luận đã gợi mở cho người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Một cặp câu đã lột tả hết tất cả cuộc sống sinh hoạt và thức ăn hằng ngày của “lão nông nghèo”. Mùa nào đều tương ứng với thức ăn đấy, tuy không có sơn hào hải vị nhưng những thức ăn có sẵn này lại đậm đà hương vị quê nhà, khiến tác giả an phận và hài long. Mùa thu có măng trúc ở trên rừng, mùa đông ăn giá. Chỉ với vài nét chấm phá Nguyễn Bỉnh Khiêm đã “khéo” khen thiên nhiên đất Bắc rất hào phòng, đầy đủ thức ăn. Đặc biệt câu thơ “Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao” phác họa vài đường nét nhẹ nhàng, đơn giản nhưng toát lên sự thanh tao không ai sánh được.

Một cuộc sống dường như chỉ có tác giả và thiên nhiên, mối quan hệ tâm giao hòa hợp nhau. Đó là cuộc sống đạm bạc, thanh cao với thức ăn dân dã như măng trúc, giá đỗ. Sinh hoạt cũng bình thường, dân dã như mọi người tắm hồ, tắm ao. Cuộc sống đạm bạc mà không khắc khổ. Đạm bạc mà thanh nhã. Đó là cuộc sống chan hoà với thiên nhiên.

Câu 4:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Hai câu thơ này là triết lý và sự đúc rút Nguyễn Bỉnh Khiêm trong thời gian ở ẩn. Đối với một con người tài hoa, có trí tuệ lớn như thế này thì thực sự phú quý không hề là giấc chiêm bao. Ông từng đỗ Trạng nguyên thì tiền bạc, của cải đối với ông thực ra mà nói không hề thiếu nhưng đó lại không phải là điều ông nghĩ đến và tham vọng. Với ông phú quý chỉ “tựa chiêm bao”, như một giấc mơ, khi tỉnh dậy thì sẽ tan, sẽ hết mà thôi. phú quý chỉ là phù vân chỉ có thiên nhiên và nhân cách con người là tồn tại vĩnh hằng.

Câu 5:

Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải nhằm mục đích trốn tránh vất vả, cực nhọc về thể chất, quay lưng với xã hội, chỉ lo cho cuộc sống nhàn tản của bản thân, ông cho rằng sống nhàn là xa lánh nơi quyền quý, danh lợi mà ông gọi là chốn lao xao. Nhàn là sống hoà hợp với tự nhiên, về với tự nhiên để tu tâm dưỡng tính. Nguyễn Bĩnh Khiêm nhàn thân mà không nhàn tâm, lúc nào cũng canh cánh nỗi niềm thương nước lo dân. Đặt trong hoàn cảnh xã hội phong kiến đương thời đã có những biểu hiện suy vi về đạo đức thì quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang nhiều yếu tố tích cực.

Soạn Bài Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm Lớp 10

Soạn bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm lớp 10 I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả – Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585). – Hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ. – Bản thân ông là một người rất tài giỏi và liêm khiết thanh cao, ông có quan niệm cao quý đúng đắn về việc chốn quan trường và nơi làng quê. – Ông học rộng tài cao đỗ đạt ra làm quan sau đó vì chán ghét chốn quan trường nhiều mưu thâm kế hiểm cho nên ông đã trở về quê sông cuộc …

I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả

– Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585).

– Hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ.

– Bản thân ông là một người rất tài giỏi và liêm khiết thanh cao, ông có quan niệm cao quý đúng đắn về việc chốn quan trường và nơi làng quê.

– Ông học rộng tài cao đỗ đạt ra làm quan sau đó vì chán ghét chốn quan trường nhiều mưu thâm kế hiểm cho nên ông đã trở về quê sông cuộc sống thanh đạm mà hiền lành.

– Tác phẩm tiêu biểu của ông gồm: Bạch Vân Am thi tập, bạch âm quốc ngữ thi tập.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác:

Sau một thời gian làm quan trong triều chứng kiến nhiều cảnh đấu đá gang đua hãm hại lẫn nhau, Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn là một người ngay thẳng làm việc thiện cho đời cho nên ông nhanh chóng nhận ra chốn quan trường không phải là chỗ để dành cho mình vì thế ông đã cáo quan về quê ở ẩn. Tại đây ông đã sáng tác bài thơ Nhàn.

b. Nhan đề:

– nhàn vừa là một tính từ chỉ trạng thái rảnh rỗi, không có việc gì làm của con người.

– Đặt trong hoàn cảnh của tác giả thì nhàn có nghĩa là không phải suy nghĩ về việc triều chính, không phải sợ hãi trước những âm mưu của bọn tham quan, không phải chứng kiến những cảnh trướng tai gai mắt. Về với ruộng vườn nhà thơ nhàn về cả mặt thể chất lẫn tinh thần.

c. Thể thơ: thất ngôn bát cú.

d. Bố cục: 4 phần:

– Phần 1: hai câu đầu: cuộc sống lao động giản dị nơi thôn quê.

– Phần 2: hai câu tiếp: quan niệm về dại khôn của nhà thơ.

– Phần 3:hai câu tiếp: đồ ăn thức uống nơi thôn dã.

– Phần 4: còn lại: rút ra chân lý về cuộc sống.

– Đó là những công cụ lao động cần thiết cho người sống ở làng quê.

– “thơ thẩn dầu ai” nghĩa là nhà thơ cứ sống nơi thôn quê bình dị ấy mặc cho ai vui thú ở nơi nào.

– Thơ thẩn gợi tả sự nhẹ đầu khi mà nhà thơ không cần phải căng thẳng để chống lại những tên tham quan ô lại nữa.

2. Quan niệm về lẽ dại khôn ở đời.

– Nhà thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật đối lập “dại – khôn” “vắng vẻ – lao xao”.

– Biện pháp nói ngược: ta dại và người khôn.

3. Cuộc sống sinh hoạt nơi thôn dã vô cùng bình dị và thanh cao.

– Giá ở đây có thể là giá đỗ cũng có thể là giá lạnh của mùa đông.

4. Nhà thơ uống rượu và nhận ra chân lý ở đời

– Về quê nhà thơ không quên người bạn rượu tri kỉ vì đối với người xưa rượu là một thứ để bầu bạn kể cả lúc vui lẫn lúc buồn.

– Rượu đến gốc cây là sẽ nhấp.

– Trong hơi men nồng nàn cùng sự bình yên của làng quê nhà thơ nhận ra phú quý quả thật chỉ là một giấc chiêm bao. Nó cũng sẽ mau chóng tan thành mây khói.

III. Tổng kết

– Bài thơ thể hiện được quan niệm của nhà thơ về cuộc đời, đồng thời ta thấy được cuộc sống an nhàn của nhà thơ nơi thôn dã. Đó là một cuộc sống vô cùng giản dị và bình an, đạm bạc nhưng lại rất thanh cao. Nghệ thuật thơ đối lập, nói ngược đã góp phần làm nên thành công trong việc chuyển tải nội dung của bài thơ. Từ khóa tìm kiếm:

Soan bai Nhan cua Nguyen Binh Khiem lop 10

Cập nhật thông tin chi tiết về Bài Soạn Lớp 10: Nhàn trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!