Xu Hướng 9/2023 # Bài 3 Trang 156 Sgk Ngữ Văn 12 # Top 12 Xem Nhiều | Englishhouse.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Bài 3 Trang 156 Sgk Ngữ Văn 12 # Top 12 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Bài 3 Trang 156 Sgk Ngữ Văn 12 được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Trả lời câu hỏi bài 3 trang 156 SGK Ngữ văn lớp 12 tập 1 phần hướng dẫn soạn bài Sóng ngữ văn 12 của Xuân Quỳnh.

Đọc Tài Liệu hướng dẫn trả lời câu hỏi bài 3 trang 156 sách giáo khoa Ngữ văn 12 phần soạn bài Sóng chi tiết nhất cho các em tham khảo.

Giữa sóng và em trong bài thơ có quan hệ như thế nào? Anh/chị có nhận xét gì về kết cấu bài thơ? Người phụ nữ đang yêu tìm thấy sự tương đồng giữa các trạng thái tâm hồn mình với những con sóng. Hãy chỉ ra sự tương đồng đó.

Trả lời bài 3 trang 156 SGK văn 12 tập 1

Cách trả lời 1:

– Mối quan hệ giữa sóng và em: Xuân Quỳnh không so sánh em như sóng mà trực tiếp hóa thân vào sóng. Vì thế, sóng với em tuy 2 mà 1, sóng đã mang sẵn vẻ đẹp của tâm hồn em trong tình yêu.

– Nghệ thuật kết cấu của bài thơ: Con sóng của biển cả và con sóng của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu song hành với nhau, từ đó tạo nên kết cấu song hành trong toàn bộ bài thơ.

– Sự tương đồng giữa sóng và em:

+ Sóng luôn tìm ra bể cũng như em luôn tìm đến tình yêu đích thức

+Sóng luôn dạt vào bờ cũng như em luôn nhớ tới anh

+ Sóng luôn tan ra giữa đại dương cũng như luôn hi sinh, dâng hiến trong tình yêu.

Cách trả lời 2:

Hình tượng “sóng” và hình tượng “em”

– Đây là hai hình tượng sóng đôi, đồng hành cùng nhau xuyên suốt cả bài thơ:

+ Sóng và em lúc hòa hợp, lúc tách rời

+ Kết cấu song hành làm tăng hiệu quả của nhận thức, khám phá chủ thể trữ tình, tình yêu thủy chung, bất diệt

– Kết cấu bài thơ là kết cấu liền mạch của suy nghĩ, cảm xúc: cô gái nhìn ra biển cả, quan sát và suy ngẫm về tình yêu, những biến chuyển tinh tế dọc theo mạch cảm xúc dâng trào.

Người phụ nữ đang yêu tìm thấy sự tương đồng giữa các trạng thái tâm hồn với những con sóng

+ Sự đa dạng muôn màu sắc, trạng thái: dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ

+ Không rõ cội nguồn, không thể định nghĩa, lý giải được

+ Sự mãnh liệt, sâu sắc trong khát khao sống, yêu thương

+ Sự chung thủy, gắn bó bền chặt

→ Sóng và em là sự cộng hưởng trọn vẹn trong suốt bài thơ, trải qua nhiều cung bậc tình yêu để hòa quyện vào nhau

→ Hình tượng sóng là ước vọng đời thường trong tình yêu của người phụ nữ

Cách trả lời 3:

Hình tượng sóng bào trùm bài thơ thể hiện sức sống, vẻ đẹp và mọi sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ trong bài thơ. Cùng với hình tượng sóng, hình tượng em – cái tôi trữ tình của tác giả. Hình tượng sóng là ẩn dụ, chỉ tâm trạng của người con gái đang yêu, hay đúng hơn chính là em. Hai hình tượng này khi thì song hành lúc thống nhất làm một.

Kết cấu bài thơ độc đáo: Dù là sóng hay em đều quy chiếu về tình yêu của người phụ nữ, dịu dàng, đằm thắm mà vô cùng mãnh liệt. Sóng và em soi chiếu, cộng hưởng nhằm khẳng định tình yêu là nguồn động lực tinh thần vô cùng to lớn tạo cho con người sức mạnh vô biên để đi tới chân trời hạnh phúc.

– Người phụ nữ đang yêu tìm thấy sự tương đồng giữa các trạng thái của tâm hồn mình với những con sóng:

+ Sóng có những tính chất phong phú, phức tạp.

+ Em: sự tồn tại trạng thái tâm lí đối nghịch trong tâm hồn người con gái đang yêu và những khát khao kiếm tìm lời giải đáp nguồn gốc của tình yêu. Đây là biểu hiện quy luật của tình yêu muôn thuở.

Cách trả lời 4:

– Giữa sóng và em có mối quan hệ song hành với nhau. Có lúc hòa nhập làm một, vừa phân đôi để soi chiếu vào nhau và cộng hưởng nghệ thuật với nhau, nhằm biểu đạt một cách trọn vẹn thế giới tâm tình người phụ nữ đang yêu. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để hiểu tận đáy lòng mình và nhờ con sóng biển mà biểu hiện những trạng thái tâm hồn mình trong tình yêu.

– Bài thơ có kết cấu nghệ thuật sóng đôi dựa trên sự tương đồng giữa tâm trạng người phụ nữ đang yêu với những con sóng. Tác giả đã mượn những cung bậc của sóng để gửi gắm tình yêu của con người.

– Sự tương đồng giữa sóng và em:

+ Từ tình yêu của sóng khao khát tìm ra với biển lớn đến những thức đập, xô vỗ bờ,…con sóng đều đang chứa đựng những nhịp điệu tâm hồn của người phụ nữ đang yêu. Con sóng dưới lòng sâu hay con sóng trên mặt biển đều diễn tả cái sâu thẳm, vời vợi của tình yêu con người.

+ Cái cồn cào, khắc khoải trong nỗi nhớ của em với anh được diễn tả bằng nỗi nhớ của sóng với bờ, trong một nhịp điệu xao xuyến của tình yêu. Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh sóng nhớ bờ để diễn tả nỗi nhơ khôn cùng của em. Sóng không ngủ hay là em thao thức, sóng nhớ bờ hay trái tim em cồn cào, thao thức đập vì anh?

+ Biển không bao giờ vắng bóng sóng, cũng như tình yêu của con người mãi mãi bất tử. Dù muôn vời cách trở sóng vẫn tìm đến bờ, giống như em nguyện dâng trọn đời cho em. Bờ là nơi đến của sóng và anh là nơi đến của tình em. Những cung bậc tha thiết của tình yêu đã được Xuân Quỳnh gửi gắm trong những nhịp xôn xao của sóng.

Tham khảo: Các đề nghị luận văn học về bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh)

-/-

Câu hỏi b ài 3 trang 156 SGK ngữ văn 12 tập 1 được Đọc Tài Liệu tổng hợp trả lời và trình bày theo nhiều cách khác nhau giúp các em tham khảo tìm hiểu để soạn bài Sóng tốt hơn trước khi đến lớp.

Chúc các em học tốt !

Bài 1 Trang 156 Sgk Ngữ Văn 12

Trả lời câu hỏi bài 1 trang 156 SGK Ngữ văn lớp 12 tập 1 phần hướng dẫn soạn bài Sóng ngữ văn 12 của Xuân Quỳnh.

Đọc Tài Liệu hướng dẫn trả lời câu hỏi bài 1 trang 156 sách giáo khoa Ngữ văn 12 phần soạn bài Sóng chi tiết nhất cho các em tham khảo.

Đề bài: Nhận xét về âm điệu, nhịp điệu bài thơ. Âm điệu, nhịp điệu đó được tạo nên bởi những yếu tố nào?

Trả lời bài 1 trang 156 SGK văn 12 tập 1

Cách trả lời 1:

– Âm điệu, nhịp điệu bài thơ: nhịp thơ là nhịp sóng lúc dạt dào sôi nổi, lúc thì thầm sâu lắng.

– Âm hưởng nhịp nhàng đó được tạo nên bằng thể thơ ngũ ngôn với những câu thơ thường là không ngắt nhịp và được nối vần qua các khổ thơ liên kết. Tả nhịp điệu bên ngoài của sóng cũng là để tả nhịp điệu bên trong của tâm hồn nhà thơ, một tâm hồn sôi nổi, thiết tha, khát khao.

Cách trả lời 2:

Với thể thơ năm chữ rất thành công, với tính nhạc dìu dặt, nhịp nhàng, bài thơ như một khúc hát âm vang vẫn ngân nga những giai điệu đắm say của nó trong những trái tim đang yêu. Tình yêu chính là bài ca muôn đời của cuộc sống mà ở đó cái tôi trữ tình – cái tôi đang yêu được bộc lộ chân thực là mình. Xuân Quỳnh đã sống đắm say, đã yêu hết mình, đã khao khát rất mực chân thành trong những dòng thơ tình yêu đầy mê mải, thiết tha của mình.

Cách trả lời 3:

Âm điệu, nhịp điệu của bài thơ xao xuyến, rộn ràng, được tạo bởi các yếu tố:

– Những câu thơ năm chữ ngắn gọn

– Nhịp thơ lúc nhịp nhàng, lúc dồn dập

– Vần thơ: đa dạng, linh hoạt bằng các vần chân, vần cách, gợi hình ảnh các đợt sóng nối tiếp nhau.

Cách trả lời 4:

– Về âm điệu, nhịp điệu của bài thơ:

+ Nhịp thơ lúc nhịp nhàng, lúc dồn dập

+ Vần thơ: đa dạng, linh hoạt bằng các vần chân, vần cách, gợi hình ảnh các đợt sóng nối tiếp nhau.

+ Nhịp điệu bài thơ mô phỏng nhịp điệu của sóng biển: dữ dội, dịu êm, ồn ào, lặng lẽ, dưới lòng sâu, trên mặt nước…

– Những âm điệu, nhịp điệu ấy được tạo thành bởi các yếu tố:

+ Những câu thơ liền mạch, không ngắt nhịp

+ Các khổ thơ được gắn kết với nhau bằng cách nối vần

+ Nhịp thơ gợi dư âm sóng biển.

Tham khảo: Các đề nghị luận văn học về bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh)

-/-

Chúc các em học tốt !

Bài 2 Trang 156 Sgk Ngữ Văn 12

Đọc Tài Liệu hướng dẫn trả lời câu hỏi bài 2 trang 156 sách giáo khoa Ngữ văn 12 phần soạn bài Sóng chi tiết nhất cho các em tham khảo.

Đề bài: Hình tượng bao trùm xuyên suốt bài thơ là hình tượng sóng. Mạch liên kết các khổ thơ là những khám phá liên tục về sóng. Hãy phân tích hình tượng này.

Trả lời bài 2 trang 156 SGK văn 12 tập 1

Cách trả lời 1:

– Sóng được khắc họa qua những từ ngữ diễn tả đặc điểm, trạng thái: dữ dội, dịu êm, ồn ào, lặng lẽ, dưới lòng sâu, trên mặt nước…

– Đặc biệt qua âm điệu dào dạt, nhịp nhàng, lúc sôi nổi trào dâng, lúc thầm thì sâu lắng (được tạo nên từ thể thơ năm chữ, từ phương thức tổ chức ngôn từ, hình ảnh). Âm điệu đó mô phỏng âm hưởng của những con sóng lúc miên man dịu dàng, lúc cuồn cuộn vỗ bờ, lúc trào dâng bạc đầu, lúc lặng chìm đáy nước biển khơi…

– Ý nghĩa:

+ Ý nghĩa tả thực: miêu tả chân thực, sinh động hình ảnh của sóng ngoài biển khơi. Sóng có tính cách, tâm trạng, tâm hồn.

+ Ý nghĩa biểu tượng: tính cách, tâm trạng và khát vọng của nhân vật trữ tình em. Sóng là hình tượng ẩn dụ, hóa thân của cái tôi trữ tình nhà thơ.

⇒ Âm điệu bài thơ cũng là nhịp sóng lòng của em, là dòng tâm tình của người phụ nữ đang yêu được khơi nguồn khi đứng trước biển cả, đối diện với những con sóng vô hạn vô hồi.

Cách trả lời 2:

Hình tượng sóng mang nghĩa thực và nghĩa biểu tượng, gợi lên âm hưởng sóng biển: dạt dào, nhẹ nhàng

– Song hành hai hình tượng “sóng” và “em” diễn tả chân thực tình yêu đôi lứa

+ Trong khổ thơ 1 và 2, sóng được đặt trong những trạng thái đối cực: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ gợi sự liên kết trạng thái tâm lí của tình yêu:

Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể

+ Hành trình của sóng chính là khát vọng tìm cái rộng lớn, cao cả – biển cả

– Khổ 3 và khổ 4, hình tượng sóng, nhà thơ nhận thức về tình yêu của mình – tình yêu sánh ngang biển lớn, cuộc đời.

– Tác giả đặt câu hỏi hoài nghi, băn khoăn về nguồn cội của sóng, của tình yêu thương nhưng bất lực

– Khổ thơ 5 và 6: Nỗi nhớ trong tình yêu được so sánh bằng những liên tưởng độc đáo, thú vị

+ Nỗi nhớ trong lòng người con gái đang yêu: thao thức khi ngủ, thức, da diết, mãnh liệt

+ Trong nỗi nhớ da diết, nhà thơ thể hiện được sự thủy chung tuyệt đối, niềm tin son sắt vào tình yêu – cuộc sống, tình yêu nào cũng tới bến bờ hạnh phúc

– Khổ 8: Câu thơ mang màu sắc triết lí, thể hiện sự lo âu, trăn trở

+ Sự khao khát hạnh phúc hiện tại, ý thức sâu sắc sự hữu hạn của đời người và sự mong manh bền chặt của tình yêu.

– Khổ 9: Ước nguyện chân thành được hòa mình vào biển lớn, tình yêu và cuộc đời

+ Khát vọng sống hết mình cho tình yêu với sự hi sinh, dâng hiến.

Cách trả lời 3:

Hình tượng bao trùm, xuyên suốt bài thơ là hình tượng sóng:

– Lớp nghĩa tả thực: sóng ở đây là những đợt sóng biển miên man vô hạn.

– Sóng là những hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng, trạng thái, những cung bậc tình cảm, cảm xúc của người phụ nữ đang rạo rực, khao khát yêu thương. Mỗi trạng thái, tâm hồn đều có sự tương đồng với một khía cạnh, một đặc tính của sóng.

Cách trả lời 4:

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ:

– Mượn hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã diễn tả những biến hóa kì diệu của tâm hồn trong tình yêu:

+ Tình yêu luôn làm cho tâm hồn con người trở nên phong phú hơn.

+ Thể hiện qua những đối cực trong cảm xúc:

* Dữ dội – Dịu êm

* Ồn ào – lặng lẽ

– Sóng bao giờ cũng khát khao tìm ra bể rộng cũng như tình yêu luôn vươn tới tình yêu đích thực: “Sóng tìm ra tận bể”

– Mượn quy luật của sóng, Xuân Quỳnh lí giải quy luật của tình yêu nhưng quy luật của tự nhiên thì lí giải được còn quy luật của lòng người thì thật khó: “Sóng bắt đầu… Khi nào ta yêu nhau”.

– Cũng mượn hình tượng sóng, nhà thơ đã diễn tả nỗi nhớ da diết và sự thủy chung trong tình yêu: “Con sóng dưới lòng sâu… Cả trong mơ còn thức”.

– Và kết lại, đó là khát vọng muôn đời được dâng hiến, hy sinh, hóa thân vào tình yêu muôn đời của người phụ nữ cũng như sóng được tan vào biển cả bao la.

Tham khảo: Các đề nghị luận văn học về bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh)

-/-

Câu trả lời bài 2 trang 156 SGK ngữ văn 12 tập 1 được trình bày theo 4 cách khác nhau do Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn giúp các em tham khảo để soạn bài Sóng tốt hơn trước khi đến lớp.

Chúc các em học tốt !

Bài 3 Trang 33 Sgk Ngữ Văn 12

Trả lời câu hỏi bài 3 trang 33 SGK Ngữ văn lớp 12 tập 2 phần hướng dẫn soạn bài Vợ nhặt ngữ văn 12.

Đọc Tài Liệu hướng dẫn trả lời câu hỏi bài 3 trang 33 sách giáo khoa Ngữ văn 12 tập Hai phần soạn bài Vợ nhặt (Kim Lân) chi tiết nhất.

Dựa vào nội dung truyện, hãy giải thích nhan đề Vợ nhặt

. Qua tình huống trong truyện, anh/chị hiểu gì về tình cảm và thân phận của người nông dân nghèo trong nạn đói 1945?

Trả lời bài 3 trang 33 SGK văn 12 tập 2

Cách trả lời 1:

Nhan đề Vợ nhặt thâu tóm giá trị nội dung và tư tưởng của tác phẩm: “Nhặt” đi liền với những thứ không ra gì, có thể “nhặt” ở bất kì đâu, hoàn cảnh nào. Nhưng “vợ” lại là sự trân trọng, người vợ có vị trí quan trọng trong gia đình. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn Tràng do nhặt nhạnh mà thành.

Cách trả lời 2:

– Hai chữ “vợ nhặt” đã tạo được ấn tượng, kích thích sự chú ý của người đọc. Đây không phải là cảnh lấy vợ đàng hoàng mà là một hạnh phúc do vô tình mà có, do nhặt nhạnh mà thành.

– Chỉ qua hiện tượng “nhặt được vợ” của Tràng, tác giả đã làm nổi bật tình cảnh và thân phận của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Phơi bày tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo, khi mà vấn đề cái đói, miếng ăn trở thành vấn đề sinh tử.

Cách trả lời 3:

* Nhan đề “vợ nhặt”:

– Nhan đề đã thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác phẩm.

– Lấy vợ là một trong những việc trọng đại nhất đời người, cần có những nghi lễ trang trọng… thì ở đây Tràng lại nhặt được vợ ngoài chợ như một mớ rau. Nhặt vợ được một cách dễ dàng, ngẫu nhiên.

* Qua hiện tượng nhặt được vợ của Tràng, chúng ta thấy rằng thân phận con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác, có thể “nhặt” ở bất kì đâu, bất kì lúc nào. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh. Nhan đề vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói 1945, vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng hướng tới cuộc sống tốt hơn và niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.

Bài 3 trang 33 SGK ngữ văn 12 tập 2 được Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn trình bày theo 3 cách khác nhau, hi vọng sẽ giúp em hiểu và soạn bài Vợ nhặt tốt hơn trước khi đến lớp.

Chúc các em học tốt !

Bài 3 Trang 12 Sgk Ngữ Văn 9

Trả lời câu hỏi bài 3 trang 12 SGK Ngữ văn lớp 9 tập 2 phần hướng dẫn soạn bài Luyện tập phân tích và tổng hợp ngữ văn 9.

Đọc Tài Liệu hướng dẫn trả lời câu hỏi bài 3 trang 12 sách giáo khoa Ngữ văn 9 tập Hai phần soạn bài Luyện tập phân tích và tổng hợp chi tiết nhất.

Dựa vào văn bản Bàn về đọc sách của Chu Quang Tiềm, em hãy phân tích các lí do khiến mọi người phải đọc sách.

Trả lời bài 3 trang 12 SGK văn 9 tập 2

Cách trả lời 1:

Lí do bắt buộc mọi người chọn sách để đọc:

– Sách vở nhiều, sức đọc, thời gian đọc của người ta chì có hạn do đó phải chọn lọc sách mà đọc.

– Chất lượng sách vở khác nhau, đa dạng, phong phú, vì vậy phải chọn sách hay và cần thiết để đọc. Không lãng phí sức đọc vào những quyển sách không thật sự cần thiết.

– Đọc sách phải đọc kĩ và hiểu sâu, do đó phải chọn lọc sách để đọc.

– Bên cạnh đọc sâu cũng cần đọc rộng, do đó phải chủ động lựa chọn những sách đọc cần thiết.

Cách trả lời 2:

– Sách vở nhiều, sức đọc của người có hạn, do đó phải lựa chọn mà đọc.

– Sách vở có nhiều chất lượng khác nhau, do đó phải chọn những cuốn sách hay mà đọc, không lãng phí sức vào việc đọc những cuốn sách vô thưởng vô phạt.

– Đọc sách không cần nhiều mà cần đọc kĩ, hiểu sâu, do đó phải chọn một số sách đích đáng, dồn tâm lực mà đọc để nắm được những điều cơ bản nhất.

– Bên cạnh đọc sâu cần phải đọc rộng, ở đây cũng cần lựa chọn những sách cần thiết.

: Soạn bài Phép phân tích và tổng hợp

Cách trả lời 3:

Các lí do khiến mọi người phải đọc sách:

– Đọc sách là con đường quan trọng của học vấn, sách ghi chép, lưu giữ tri thức nhân loại, sách là cột mốc trên con đường phát triển học thuật.

– Đọc sách là rèn luyện nhân cách, học làm người.

-/-

Chúc các em học tốt !

Tâm Phương (Tổng hợp)

Soạn Bài Sóng Của Xuân Quỳnh Trang 156 Sgk Ngữ Văn 12, Tập 1

Khi soạn bài Sóng trang 156 SGK Ngữ văn 12, tập 1, các em sẽ hiểu hơn về những cung bậc cảm xúc vừa sôi nổi, rạo rực vừa dịu dàng, êm ái của trái tim người con gái đang yêu với niềm khao khát hạnh phúc, qua đó thể hiện quy luật tình yêu phức tạp và phong phú như quy luật của những đợt sóng vỗ ngoài biển khơi.

SOẠN BÀI SÓNG, ngắn 1

XUÂN QUỲNH

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN I. TÁC GIẢ:

1. Tiểu Sử– Xuân Quỳnh (1942-1988) tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, quê xã La Khê, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây, nay là Hà Nội.– Xuất thân trong một gia đình công chức, mồ côi mẹ từ nhỏ, ở với bà nội. Tháng 2 năm 1955, Xuân Quỳnh được tuyển vào Đoàn Văn công nhân dân Trung ương và được đào tạo thành diễn viên múa.– Từ năm 1962 đến 1964, Xuân Quỳnh học Trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ (khóa I) của Hội Nhà văn Việt Nam. Sau khi học xong, làm việc tại Báo Văn nghệ, Báo Phụ nữ Việt Nam.– Là hội viên từ năm 1967, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III. Năm 1973, Xuân Quỳnh kết hôn với nhà viết kịch, nhà thơ Lưu Quang Vũ.– Từ năm 1978 đến lúc mất Xuân Quỳnh làm biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Xuân Quỳnh mất ngày 29 tháng 8 năm 1988 trong một tai nạn giao thông tại đầu cầu Phú Lương, thành phố Hải Dương.– Xuân Quỳnh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.

2. Sự nghiệp văn họcTác phẩm tiêu biểu: Tơ tằm – Chồi biếc (in chung với Cẩm Lai, 1963), Hoa dọc chiến hào (1968), Gió Lào cát trắng (1974), Lời ru trên mặt đất (1978), Sân ga chiều em đi (1984), Hoa cỏ may (1989)…

3. Phong cách– Thơ Xuân Quỳnh giàu cảm xúc với những cung bậc khác nhau nhưng bao giờ cũng trọn vẹn cảm xúc như chính tính cách luôn hết mình với đời, với người.– Thơ Xuân Quỳnh rạo rực hạnh phúc đắm say, nhưng nhiều lúc cũng đau khổ, đầy suy tư, triết lí. Ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh dịu dàng, đằm thắm, nồng nàn, nhưng cũng đầy táo bạo của một trái tim phụ nữ vừa làm thơ vừa làm vợ, làm mẹ.

II. TÁC PHẨM SÓNG1. Hoàn cảnh sáng tác– Bài thơ Sóng được viết vào ngày 29 – 12 – 1967 tại Thái Bình, in trong tập Hoa dọc chiến hào.– Cùng với Thuyền và biển, Sóng là bài thơ tình thuộc loại hay nhất của Xuân Quỳnh và cũng là của thơ hiện đại Việt Nam.

B. TỰ LUẬN

1. Biểu tượng “sóng” trong bài thơ cùng tên của Xuân QuỳnhGợi ý làm bài– Sóng là hiện tượng tự nhiên, luôn xuất hiện trên biển và luôn vận động cùng hướng vỗ vào bờ. Vì lẽ đó, nhịp sóng miên man là biểu tượng của sự thuỷ chung, không ngừng nghỉ, mãi hướng về một cái đích duy nhất của cuộc đời…– Lẽ tất nhiên, những phẩm chất đó từ lâu đã được các nghệ sĩ sử dụng để nói về tình yêu. Nhịp vỗ của sóng mang cả khối tình người nồng ấm, xôn xao.– Với Xuân Quỳnh, qua việc quan sát và thấu hiểu bản chất sóng, nữ sĩ đã sáng tạo được hình tượng thơ đẹp, biểu tượng cho tình yêu đằm thắm, mạnh mẽ và rất đỗi chân thành.– Trong bài thơ, kể cả nhan đề, Xuân Quỳnh mười một lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng trên đại dương mênh mông cũng chính là sóng lòng người con gái.– Trước hết, đây là những con sóng tình không bó hẹp trong một không gian chật hẹp, muốn tìm đến với những cảm xúc dữ dội và tự do: “Sông không hiểu nỗi mình / Sóng tìm ra tận bể”.– Khát vọng tình yêu tựa những con sóng vĩnh hằng, những con sóng đang trào dâng trong những trái tim rạo rực tình yêu đôi lứa. Sóng là biểu tượng muôn đời của tình yêu. Nó da diết, bồi hồi, nó vĩnh hằng trong lồng ngực trẻ như sóng vĩnh hằng trong lòng biến cả:

– Sóng cũng chính là nỗi nhớ thao thức trong lòng. Sóng xuất hiện mọi nơi, sóng ẩn “dưới lòng sông sâu”, sóng hiện “trên mặt nước”, sóng chạy đua cùng thời gian:

– Mượn biểu tượng sóng, nhà thơ còn biểu hiện được nỗi băn khoăn trong lòng trước cái hữu hạn của đời người và cái vô hạn của tình yêu, để hướng tới sự vĩnh hằng của tình yêu, nơi mọi trái tim yêu cùng ngân lên khúc nồng say, chung thuỷ:

– Hình tượng sóng thể hiện được tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, mãnh liệt của Xuân Quỳnh. Một cô gái muốn chủ động yêu chứ không phải thích được người khác yêu, thích sự chuyển di để đến với lòng thuỷ chung muôn thuở. Quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh mới mẻ, táo bạo, nhưng vẫn gắn kết vững bền với truyền thống đạo lí của dân tộc.– Sử dụng cặp biểu tượng sóng và bờ không phải là sáng tạo mới mẻ của Xuân Quỳnh. Trong ca dao xưa và thơ cổ, ta bắt gặp các cặp biểu tượng thuyền và biển, bến và thuyền, bướm và hoa, sóng và bờ. Nhưng trong thơ cổ, hình ảnh biểu tượng cho người con gái thường đứng yên, tĩnh lặng, ngóng đợi, người con trai xê dịch, tìm đến… còn với Xuân Quỳnh, biểu tượng cho người con gái lại xê dịch, bến bờ nơi sóng tìm đến thì đứng yên. Tính cách mạng trong tư tưởng nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh táo bạo nhất là ở điểm này.– Từ biểu tượng “sóng”, Xuân Quỳnh cho ta thấy vẻ đẹp kì diệu trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn, sống hết mực, tận cùng của sự dâng hiến. Yêu là da diết nhớ. Người phụ nữ ấy khát khao được hòa nhập vĩnh viễn trong tình yêu. Tình yêu của sự nồng nàn, say đắm, thủy chung.

2. Trình bày (thành bài viết hoàn chỉnh) suy nghĩ của anh (chị) về bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.

Trong nền văn chương bác học, khi viết về tình yêu, người chủ động tấn công hoặc thổ lộ tình cảm là nam giới. Phụ nữ, với thiên chức là phái yếu nên thường bị động trong tình yêu của mình. Và dĩ nhiên họ là đối tượng luôn chịu thua thiệt. Tình trạng đó kéo dài ngót cả vài mươi thế kỉ. Cho đến khi chủ nghĩa lãng mạn ra đời, cái tôi con người được khẳng định và cùng với nó, những vấn đề thuộc về nữ quyền cũng được quan tâm. Người phụ nữ Ét-xmê-ran-đa (Nhà thờ Đức bà Pa-ri) đường hoàng bước vào văn học với nét yêu kiều, sự trong trắng thánh thiện bậc nhất trong sáng tác của Vích-to Huy-gô. Với thiên tài nghệ thuật Hen-rích Hai-nơ, người thiếu nữ dành quyền thổ lộ tình yêu:

Trong ca dao của người Việt, nhiều lần ta bắt gặp tâm trạng của người con gái thao thức với tình yêu của mình:

Đêm nằm lưng chẳng đến giườngTrông trời mau sáng ra đường gặp anhHay chao chát hơn trong thế chủ động tấn công:Thấy anh như thấy mặt trờiChói chang khó ngó, trao lời khó trao

Nhưng phải đến Xuân Quỳnh, nỗi khát vọng tình yêu chân thành, hồn hậu mới được diễn tả một cách chân thành, táo bạo nhất. Sóng là tiếng lòng, là mảnh tình yêu thương nồng cháy cất lên từ sâu thẳm đại dương của trái tim yêu.Đấy là tình yêu đôi lứa. Chuyện tình cảm này lạ trong chính sự mênh mông không bến bờ của nó. Trái tim yêu và cương thổ tình yêu không xác định giới hạn luôn được ví với đại dương bao là nơi mặt trời yêu không bao giờ lặn tắt. Hai-nơ cũng đã hình tượng hoá thành công cái sự yêu này:

Lại vẫn là chuyện thuyền và biển, mặt trời và đại dương bao la muôn thuở luôn xuất hiện trong những vần thơ yêu. Phải chăng đó chính là hình ảnh “thiên địa đa tình” để phô diễn tình người bao la trong cái sự yêu của nhân loại?

Bài thơ mở đầu bằng những sắc thái tương phản: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, ở lại – ra đi của sóng và sông. Những cung bậc cảm chênh chao lúc nào cũng tồn tại trong thế chuyển động, bởi tình yêu là thứ không bao giờ chịu đứng yên mà luôn tìm cách giao cảm và hỏi được giao cảm.Câu thơ năm chữ giàu nhạc tính, thích hợp với nhịp điệu sóng trùng điệp, miên man trên hành trình đi tìm ý nghĩa của tồn tại, tìm người “hiểu mình”. Những tính từ ngược nghĩa được cấu trúc theo từng cặp, vừa thể hiện được nhịp sóng, sự vận động của sóng và cũng gợi lên sóng đôi, liền cặp của tình yêu tuổi trẻ.Nhịp thơ nối dài liên tục, như không có sự ngưng nghỉ của những con sóng, của những trái tim khao khát được yêu. Con sóng trên đại đương là sự hiện hình của con sóng trong lòng thiếu nữ đang yêu. Kì lạ thay chính người con gái phát hiện ra cái quy luật ngàn đời ấy. Sự thấu hiểu xuất phát từ sự đồng điệu. Thiếu nữ với tình yêu bỏng cháy của mình khám phá được sự đồng dạng:

Ở đây, Xuân Quỳnh không miêu tả con sóng theo cách của Xuân Diệu mà chỉ khắc hoạ thần thái con sóng (dữ dội, dịu êm, ồn ào,…), sự vĩnh hằng của sóng để diễn tả bản chất của tình yêu. Những con sóng vĩnh hằng thì tình yêu cũng sẽ luôn trường cửu với thời gian. Kiểu tình yêu mà Xuân Quỳnh truy tìm là tình yêu tuyệt đối, tình yêu mang tầm vóc vũ trụ của sóng, biển và đất, trời được sinh thành từ thuở khai thiên lập địa cho đến ngày Trái Đất thôi ngừng quay.Đại từ ôi đặt ở đầu khổ thơ thứ hai cho thấy một tâm trạng đang phân vân giữa bao điều suy ngẫm của trái tim yêu: con sóng là thế, tình yêu là thế,… nhưng khởi nguồn của chúng là đâu? Phải chăng tìm ra cội nguồn của chúng là tìm ra cội nguồn và bản chất của tình yêu:

Lời thơ mộc mạc, như thể tự kiểm điểm kiến thức của mình: Sóng bắt đầu từ gió / Gió bắt đầu từ đâu? Tính chất điệp, vắt dòng này mở ra một cuộc truy đuổi triền miên để tìm ra “thủ phạm” gây nên sóng. Nhà thơ không thể trả lời. Dường như sự tồn tại của sóng là một mặc định của tạo hoá. Có đất trời, có sông biển,… là có sóng. Cũng vậy, có con người là có tình yêu, miễn phải truy tìm nguồn gốc. Bởi như một ẩn ý, tình yêu nếu tìm được nguồn cội, có nghĩa con người ta biết họ yêu nhau vì cái gì thì đấy không còn là tình yêu nữa. Lời tự thú hồn nhiên của người con gái về sự bất lực của mình trong khi đi tìm cái nguyên nhân của tình yêu lại chính là lời bày tỏ tình cảm chân thành, nồng thắm nhất. Lời “không biết” ấy chính là lời thú nhận đầy đủ nhất rằng mình đang yêu, yêu sâu nặng, yêu đến mức… “không biết nữa”.Đến đây, hình tượng con sóng thực, con sóng trên đại dương không còn là khách thể bên ngoài để người thiếu nữ đối sánh với tình cảm của mình. Khi đã thấu hiểu tình yêu đã đến, thấu hiểu tình cảm của mình đã chuyển di đến một “bến bờ” thì con sóng đó trở thành sóng lòng, bởi nơi “lòng sâu” đại dương kia làm gì có sóng?

Con sóng dưới lòng sâuCon sóng trên mặt nướcÔi con sóng nhớ bờNgày đêm không ngủ đượcLòng em nhớ đến anhCả trong mơ còn thức

Anh là bờ, em là sóng. Khác với Xuân Diệu: em là bờ, anh là sóng. Điều này cũng dễ hiểu vì Xuân Diệu là nam thi sĩ. Người đàn ông thường chủ động trong tình yêu. Thế mà nay, Xuân Quỳnh trong sự hồn nhiên của mình lại lấy mình làm sóng. Sự truất quyền đàn ông ở nơi nữ sĩ diễn ra không ồn ào, khoe mẽ nhưng quyết liệt biết bao. Phong cách Xuân Quỳnh tuy trái ngược với Hồ Xuân Hương, nhưng mục đích và hiệu quả thì chẳng kém gì nhau.Nỗi nhớ của trái tim yêu đan dày trong không gian (lòng sâu, mặt nước), thời gian (ngày đêm). Cũng sử dụng lối ẩn dụ của ca dao xưa: sóng và bờ tương ứng với em và anh, nhưng cách biểu lộ tình cảm thì trực tiếp: nhớ đến mức không chỉ không ngủ được mà đến cả trong mơ cũng còn nhớ. Nỗi nhớ đã đi vào vô thức. Chứng tỏ cái sự nhớ ấy đã luôn thường trực, như những con sóng cứ miệt mài ngày đêm hướng vào bờ.Đường biên của không gian nỗi nhớ cứ liên tục bị xoá bỏ, nới rộng:

Bắc và nam là hai lương từ phiếm chỉ để ngụ ý đến không gian bao la không bến bờ. Trong hành trình mở nước của dân tộc, người Việt chuyển di từ bắc vào nam. Bởi vậy cách nói phù hợp phải là xuôi vào nam, ngược ra bắc. Xuân Quỳnh, trong cảm thức nổi loạn của mình, nói ngược lại. Hoặc khác đi là với tình yêu trào dâng vô bờ, người con gái ấy không thể phân biệt được chiều hướng? Dẫu sao thì điều tác giả muốn nói ở đây là trong bất cứ hành động (xuôi, ngược) nào, trong đó cảnh ngộ nào, em cũng luôn hướng về anh.Có nét tinh nghịch, hóm hỉnh rất nữ tính trong lối diễn đạt thơ Xuân Quỳnh. Nhà thơ bảo là không biết khi nào “ta yêu nhau”, nhưng chính qua sự diễn bày tâm trạng ta biết nỗi nhớ là dấu hiệu của tình yêu. Khi nhớ nhau đến cồn cào da thịt thì đây là lúc con người ta yêu nhau.Tố Hữu đã diễn tả rất hình tượng nỗi nhớ nhung da diết của tâm hồn đang yêu:

Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương(Việt Bắc).

Nhưng với Xuân Quỳnh, nỗi nhớ là tín hiệu và cũng đồng thời là một bản chất quan trọng của tình yêu. Khi hết nhớ, tình yêu đã phai tàn.Ở khổ thơ thứ tám, con sóng lại tách ra để trở về với nguyên hình là con sóng của đại dương:

Trong quan hệ sóng và “em”, nhà thơ cũng bố trí theo “nhịp sóng”, đây là sự “nhập” bờ và “tách” bờ. Mở đầu bài thơ, sóng là sóng, em là em, đến các khổ thơ giữa, sóng là em. Đến khổ thơ này, sóng lại là sóng. Nhưng đến khổ thơ cuối, em chính là sóng.Có sự chuyển đổi trên hành trình tìm đến bến bờ yêu ấy: ban đầu sóng là em (mượn thiên nhiên để nói chuyện con người), sau cùng em là sóng: con người là chủ nhân của nỗi lòng sóng kia; không có tình yêu của con người thì muôn đời sống vẫn cứ là vô tri vô giác, vỗ bờ một cách quán tính vĩnh hằng. .Từ cách đối sánh độc đáo này, giọng thơ chuyển mạch, tiếp nối với nỗi lòng người đang yêu ở khía cạnh những thử thách trên con đường tình. Xuân Quỳnh không miêu tả các cung bậc, sắc thái yêu mà đi trị nhận tình yêu ở khía cạnh dâng hiến và khao khát hoà nhập, dẫu biệt sự hoà nhập kia vẫn chỉ luôn là vọng tưởng:

Sự mong manh của kiếp người cũng là sự mong manh của kiếp tình. Con người đã không trường cửu thì làm gì có tình yêu trường cửu? Tuổi thanh xuân rồi sẽ chóng qua. Năm tháng vẫn lặng lẽ đi qua cuộc đời mà cuộc đời đâu thể níu giữ. Cảm giác về sự hữu hạn càng thôi thúc thêm hàng độ yêu. Và càng yêu nhau say đắm, người đang yêu sẽ càng cảm thấy bất an trước sự nỗi chia lìa. Hình ảnh mây, biển và trời gợi lại cảnh trăng và nước trong thơ Hàn Mặc Tử: Có chở trăng về kịp tối nay? Nhưng cả hai cũng vẫn cứ gợi cảm thức chia lìa: Như biển hiu dẫu rộng / Mây vẫn bay về xa.Tình yêu không vĩnh hằng bởi chính sự vô biên của nó trong sự hữu hạn của kiếp đời. Nhưng có một nghịch lí là càng yêu tha thiết con người càng không thể nào hiểu hết được bến bờ tình yêu. Phải chăng vì điều này mà bao giờ và lúc nào con người cũng khao khát yêu và luôn muốn nói chuyện tình yêu? Đại thi hào Ta-go đã diễn tả rất sâu sắc cảm nhận này: “Trái tim anh ở gần em như chính đời em vậy ! Nhưng chẳng bao giờ em hiểu trọn nó đâu” (It is as near to you as your life / but you can never wholly know it).Tình yêu sẽ không vĩnh hằng như sóng. Vậy thì sao không gửi tình yêu vào sóng ấy? Xuân Quỳnh quả rất khôn ngoan khi lập tức thực hiện ngay điều này:

Một mặt là để tình yêu sống mãi muôn đời, mặt khác lại khẳng định sự dâng hiến hết mình. Mọi đường gân thớ thịt, mọi cảm xúc nghĩ suy,… đều mong muốn được hoá thân vào ngọn sóng để hướng đến bến bờ yêu. Sóng vĩnh hằng thì tình yêu ấy cũng vĩnh hằng. Chỉ có điều là đến đây, có lẽ tình yêu ấy không còn là tình cảm riêng tư của một đôi trai gái nữa mà trở thành biểu tượng cho mọi tình yêu nói chung. Hiện tồn cho mọi cung bậc tình yêu của bất kì kẻ nào biết yêu trên đời.Xuân Quỳnh, đó là một tâm hồn chân thành, sôi nổi và mạnh mẽ, hết mình trong tình yêu, người nổi tiếng với quan niệm:

Vì tình yêu muôn thuởCó bao giờ đứng yên(Truyền và biển).

Từ quan niệm tình yêu “động” này, Xuân Quỳnh đã tước đi đặc quyền của cánh mày râu để khẳng định tình yêu đẹp của phái yếu. Nhưng dẫu có dữ dội đến bao nhiêu đi chăng nữa, thì âm hưởng chung trong toàn bộ bài thơ Sóng vẫn là âm điệu trữ tình sâu lắng tựa hơi thở nhẹ, thì thầm lan toả khắp hồn thơ.

SOẠN BÀI SÓNG, ngắn 2

XUÂN QUỲNH

Câu 1. Nhận xét về âm điệu, nhịp điệu bài thơ. m điệu, nhịp điệu đó được tạo nên bởi những yếu tố nào?

– m điệu, nhịp điệu bài thơ rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải. Từng nhịp thơ như nhịp con tim, như từng con sóng vỗ vào bờ, cuộn trào theo từng nỗi nhớ.

– Gieo vần chân, vần cách, gợi con sóng đuổi nhau .

Câu 2. Hình tượng bao trùm xuyên suốt bài thơ là hình tượng sóng. Mạch liên kết các khổ thơ là những khám phá liên tục về sóng. Hãy phân tích hình tượng này.

– “Sóng” là “em” ⟶ Sóng và em song song nhau để diễn tả tình yêu.

– ” sóng” và ” em” là hình tượng trung tâm của tác phẩm .Sóng ẩn dụ cho hình ảnh người con gái đang yêu.

– hai hình tượng bổ sung cho nhau trong suốt cả bài thơ.tuy hai mà một từ đó tạo nên âm vang cộng hưởng cho tình yêu mà Xuân Quỳnh muốn thể hiện.

– từ khát vọng yêu đến sự tìm hiểu đến tận cùng tình yêu. từ lo âu về sự không bền vững của tình yêu đến sự nhớ nhung và khao khát tình yêu

Câu 3. Giữa sóng và em trong bài thơ có quan hệ như thế nào? Anh chị có nhận xét gì về kết cấu bài thơ? Người phụ nữ đang yêu tìm thấy sự tương đồng giữa các trạng thái tâm hồn mình với những con sóng. Hãy chỉ ra sự tương đồng đó.

– Giữa “sóng” và “em” có quan hệ tương đồng (“sóng” chính là ẩn dụ cho tình yêu và tâm hồn nhân vật “em” ).

– Kết cấu bài thơ là kết cấu song hành liền mạch .

luôn hướng về bờ như em hướng về anh

luôn nồng nàn trong tình yêu cuộn trào nỗi nhớ,như sóng vỗ liên hồi.

tìm hiểu tình yêu như sóng tìm ra tận bể

qua đó cho thấy vẻ đẹp tình yêu của Xuân Quỳnh thật sự nồng nhiệt như lớp sóng đang gào thét

Câu 4. Bài thơ là lời tự bạch của một tâm hồn phụ nữ đang yêu. Theo cảm nhận của anh/ chị tâm hồn đó có những đặc điểm gì ?

– Đó là một tâm hồn rất chân thành, dịu dàng nhưng cũng sôi nổi và mạnh mẽ, hết mình trong tình yêu.

– Tâm hồn đầy nữ tính và rất thủy chung, khát khao một tình yêu vĩnh hằng.

Có nhiều bài thơ, câu thơ so sánh tình yêu với sóng và biển. Hãy sưu tầm những câu thơ, bài thơ đó.

+ “Chỉ có thuyền mới hiểu

Biển mênh mông nhường nào

( Xuân Quỳnh, Thuyền và biển )

Ngoài nội dung ở trên, các em có thể tìm hiểu thêm phần Cảm nhận về Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ nhằm chuẩn bị cho bài học này.

Bên cạnh nội dung đã học, các em cần chuẩn bị bài học sắp tới với phần Soạn bài Luật thơ (tiếp theo) để nắm vững những kiến thức Ngữ Văn 12 của mình.

https://thuthuat.taimienphi.vn/soan-bai-song-38340n.aspx

Cập nhật thông tin chi tiết về Bài 3 Trang 156 Sgk Ngữ Văn 12 trên website Englishhouse.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!